2022
BÀI CA HẠNH PHÚC
6.6 Thứ Hai trong tuần thứ Mười Mùa Quanh Năm
1 V 17:1-6; Tv 121:1-2,3-4,5-6,7-8; Mt 5:1-12
BÀI CA HẠNH PHÚC
Trình thuật Tin Mừng hôm nay là một bài ca Hạnh Phúc được Đức Giêsu nhấn mạnh như một lẽ sống của những ai mong muốn được hưởng hạnh phúc đích thực. Cụm từ “Phúc cho ai…” được lặp lại tám lần như một điệp ca vang vọng mãi ở trên núi. Tám mối phúc Đức Giêsu đề cập đến như đi ngược lại với quan niệm về hạnh phúc của đám đông dân chúng. Với Đức Giêsu, hạnh phúc không thuộc về những trọc phú, những người có chức tước, có quyền lực trong xã hội mà là người có tinh thần nghèo khó, người hiền lành, người có tâm hồn trong sạch, người bị bách hại vì sống công chính…
Các Mối Phúc công bố những thái độ và cách xử sự con người phải theo để được thuộc về Nước Trời, tức để được sống dưới quyền lãnh đạo của Thiên Chúa. Dựa theo thứ tự các Mối Phúc, chúng ta nhận ra rằng chúng ta được mời gọi luôn mở ra với Thiên Chúa (Mối Phúc 1, 2 và 3) và cương quyết thực hiện thánh ý Ngài (Mối Phúc 4), để có thể sống các Mối Phúc dấn thân phục vụ tha nhân (Mối Phúc 5, 6 và 7). Khi chấp nhận chịu bách hại vì kiên trì sống theo đường lối của Thiên Chúa, chúng ta nên giống Đức Giêsu, Con Thiên Chúa hằng sống, và Thiên Chúa sẽ hài lòng về chúng ta như vẫn hài lòng về Con yêu dấu của Ngài.
Thật ra, các Mối Phúc chỉ quy về có một Mối: trở nên giống Đức Kitô, bởi vì Người đã sống trọn các Mối Phúc này.
Mỗi Mối Phúc có ba phần. Phần đầu là lời công bố Mối Phúc. Phần hai nói về người được đón nhận Mối Phúc. Và phần ba là nền tảng của Mối Phúc (= Mối Phúc ấy dựa trên điều gì?). Nền tảng này luôn luôn là một hành động của Thiên Chúa, được khẳng định vững vàng và được đoan hứa chắc chắn. Còn người được hưởng Mối Phúc chính là những người thực hiện một cách sống hay một thái độ được quy định trong Mối Phúc. Họ được tuyên bố là “phúc thay”, bởi vì hành động kia của Thiên Chúa chắc chắn được dành cho họ.
Đức Giêsu không diễn tả các Mối Phúc theo kiểu tình cờ. Người trình bày nền tảng cụ thể của mỗi Mối Phúc. Như chúng ta đã nói, phần thứ ba của mỗi Mối Phúc nói về hành động của Thiên Chúa. Mối Phúc đầu tiên và Mối Phúc thứ tám có cùng một nền tảng: “vì Nước Trời là của họ”. Matthew nói về Nước Thiên Chúa chỉ trong một vài đoạn; thông thường tác giả dùng thành ngữ “Nước Trời” là kiểu nói của người Do Thái thời đó. “Nước Thiên Chúa” và “Nước Trời” có ý nghĩa như nhau: không có nghĩa là một lãnh thổ hay một nơi chốn, mà là quyền chúa tể của Thiên Chúa được tỏ bày ra trực tiếp rõ ràng.
Vậy “Nước Trời là của họ” có nghĩa là Thiên Chúa với quyền chúa tể là của họ; đây không phải là quyền thống trị của một bạo chúa, mà là hành động quan phòng nhân hậu của một vị Mục tử. Người sẽ chứng tỏ rằng Vương quyền của Người vượt trên mọi thế lực hiện đang thống trị. Những ai sống theo lời Đức Giêsu dạy sẽ thuộc về Người, còn Người, đầy quyền năng và nhân ái, Người sẽ là của họ. Mối Phúc hoàn toàn dựa trên sự hiện diện trong uy quyền và nhân ái của Thiên Chúa. Chính vì thế thành ngữ “Nước Trời” được nói đến ở Mối Phúc đầu và Mối Phúc cuối như một lời mở và kết luận, và có giá trị cho tất cả các Mối Phúc khác.
Họ là những “người nghèo của Thiên Chúa”. Một niềm hạnh phúc đích thực được mở ra cho những người cô thế cô thân, những bà góa và những trẻ em mồ côi. Nơi Đức Giêsu, hạnh phúc vượt lên các giá trị trần gian, vượt qua những bãi bờ ghềnh thác của quyền lực và danh vọng. Hạnh phúc đó được ấp ủ và dưỡng nuôi trong hạnh phúc lớn lao của Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót. Hạnh phúc ấy được kết tinh trong Người Con duy nhất, nơi chất chứa những điều diệu kỳ nhất mà không một thế lực nào dù mạnh mẽ, ngoạn mục đến đâu cũng không thể phá hủy được.
Giam mình vào ánh vinh quang của vật chất, người ta chìm trong những mong manh vụn vỡ để rồi đánh mất cả thân xác và hồn phách. Những cái lịch sự bóng bẩy của thế gian thường dẫn đến những ảo giác lệch lạc. Có hay chăng một hạnh phúc đong đầy những mất mát, những bắt bớ, những hiểu lầm và nghi kỵ. Người môn đệ của Đức Giêsu là người hạnh phúc trong chân lý sự thật dù phải trải qua những mất mát đớn đau để rồi xác tín như thánh Phaolô“cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20, 35).
Bài ca Bát Phúc luôn là một lời thách đố hay một tin vui, đón nhận hay không là tự do của mỗi con người. Một khi con người đã xác định cho mình hướng đi, luôn khát khao vươn tới thì dù ở đâu trong hành trình vạn dặm cũng tìm thấy Hạnh phúc.Với con mắt đức tin, chúng ta biết rằng Thiên Chúa hằng tuôn đổ ân phúc của Người ngay cả lúc chúng ta gặp đau khổ thất bại và mang đầy những lầm lỗi. Vì thế hạnh phúc cũng có thể là nhận ra những giới hạn của thân phận con người trước tình thương vô biên của Thiên Chúa.
Như bản tình ca được kết dệt bởi những nốt trầm bổng, hạnh phúc không chỉ là lúc chúng ta nhận được nhiều điều may lành nhưng cũng là lúc chúng ta dám cho đi, dám trao tặng, dám hao mòn vì tình yêu; không chỉ là lúc chúng ta bình an sum họp mà cả những lúc chia xa đổ vỡ. Tất cả là hồng ân, không có gì của con người nằm ngoài bàn tay yêu thương quan phòng của Thiên Chúa. Bao lâu chúng ta sống xa Chúa đó là chúng ta đang gánh chịu nỗi bất hạnh. Chỉ phút giây nào chúng ta còn sống theo lời dạy của Thiên Chúa đó là chúng ta đang có hạnh phúc thật, ngoài Thiên Chúa ra chúng ta không tìm đâu được hạnh phúc. Nói như thánh Augustinô “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên trái tim con cho Chúa, linh hồn con còn mãi khắc khoải cho đến khi nào được an nghỉ trong Chúa”.
Mỗi Mối Phúc có một ý nghĩa và một tầm mức riêng, nhưng kết hợp với nhau như các yếu tố của một bản giao hưởng, làm nên chương trình sống cho người Kitô hữu. Như những ánh đèn tỏa sáng và hướng dẫn trong đêm tối, các Mối Phúc là những nẻo đường hy vọng cho nhân loại.
2022
Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Hội Thánh
Thứ Hai, sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, Giáo Hội truyền dạy chúng ta cử hành lễ kính nhớ Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Hội Thánh với niềm vui khôn tả.
Thiên Chúa nhân hậu và khôn ngoan khi muốn thực hiện công việc cứu chuộc thế giới vào thời cuối cùng, “đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà” (Gl 4,4), và Người Con đó “đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria” (Kinh Tin Kính).
Đức Mẹ Chúa Kitô
Không có gì lạ, khi có người đặt câu hỏi: chúng ta có nên gọi Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa không?Chẳng lẽ Đức Maria, Đấng đã hạ sinh Chúa Giêsu lại không phải là Mẹ Chúa Kitô?
Ngôi Lời Thiên Chúa đã làm người, có hồn có xác. Thánh Công đồng Nicêa dạy, chính Con duy nhất của Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha, đồng bản thể với Chúa Cha, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành, và tất cả tồn tại trong Người, vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế, nhập thể, làm người, chịu chết, đã sống lại, và Người sẽ lại đến trong vinh quang để phán xét; Công đồng tuyên phán: chỉ có Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Lời Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha, giống Chúa Cha. Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi sánh sáng, được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Đức Chúa Cha… Nên Đức Maria được gọi là Mẹ Chúa Kitô.
Đức Maria đã được các giáo phụ ca ngợi, đặc biệt là thánh Ambrôsiô thành Milan (thế kỷ IV) khi nói: “Đức Maria là Đền Thờ của Thiên Chúa chứ không phải Thiên Chúa của Đền Thờ”. Thánh Ignatiô thành Antiokia (+ 110) là người đầu tiên nêu tên Đức Maria sau các sách Tin Mừng: “Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô đã được Đức Maria cưu mang trong lòng theo nhiệm cục cứu độ” và “Đức Giêsu cũng được sinh ra bởi Đức Maria và bởi Thiên Chúa”.
Tại Đông phương, kể từ năm 350, người ta đã tuyên dương Mẹ là “Mẹ của Ngôi Lời Nhập Thể ”. Như thánh Grégoire de Nazianze (330 – 390) đã viết: “Đức Kitô sinh bởi một Trinh Nữ, người nữ ấy là Mẹ Chúa Kitô”.
Đức Mẹ Hội Thánh
Hiến chế tín lý Lumen Gentium, số 53 của Công Đồng Vatican ô II viết: Vì đã cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng Chúa Giêsu, đã dâng Con lên Chúa Cha trong đền thánh, và cũng đau khổ với Con mình chết trên thập giá, Ðức Maria đã cộng tác cách rất đặc biệt vào công trình của Ðấng Cứu Thế, nhờ lòng vâng phục, nhờ đức tin, đức cậy và đức ái nồng nhiệt, để tái lập sự sống siêu nhiên cho các linh hồn. Bởi vậy, trên bình diện ân sủng. Ngài thật là Mẹ chúng ta” (LG 61).
“Thật vậy, Đức Trinh Nữ Ma-ri-a… được nhận biết và tôn kính với tư cách là Mẹ thật của Thiên Chúa là Đấng Cứu Chuộc… Mẹ cũng ‘thật là Mẹ các chi thể của Đức Ki-tô’… bởi vì đã cộng tác bằng đức mến để các tín hữu được sinh ra trong Hội Thánh, được làm chi thể của Đức Kitô là Đầu của Hội Thánh.” 525 “Đức Ma-ri-a,… Mẹ Đức Ki-tô, cũng là Mẹ… Hội Thánh” (x.GLHTCG số 963).
Công việc cứu chuộc vẫn tiếp tục trong Hội Thánh, là thân thể Chúa Kitô. Trong thân thể này, Ðức Maria có mặt như một chi thể trổi vượt, liên kết mật thiết với Ðầu, và hằng yêu thương, bảo vệ hướng dẫn các chi thể khác là các tín hữu, với lòng của người Mẹ hiền.
Sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống Giáo Hội lễ kính Mẹ
Việc sùng kính Mẹ vào thứ Hai sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống nhắc nhớ chúng ta rằng, sau khi Ðức Giêsu lên trời, Ðức Maria đã ở giữa các Tông đồ, như người Mẹ “giữa một đàn em đông đúc” của Ðức Giêsu (Rm 8,29), Con của Mẹ. Đức Mẹ cùng cầu nguyện với Hội Thánh sơ khai: “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Ðức Giêsu, và với anh em của Ðức Giêsu” (Cv 1,14). Hơn nữa: “Ðức Maria cũng tha thiết cầu xin Thiên Chúa ban Thánh Thần, là Ðấng đã bao phủ lấy Người trong ngày Truyền Tin” (LG 59), và “ai nấy được tràn đầy ơn Thánh Thần” (Cv 2-4) trong ngày lễ Ngũ Tuần. Sau cuộc đời trần thế, Ðức Maria đã được đưa lên trời cả hồn lẫn xác để hưởng vinh quang thiên quốc. Mẹ là người đầu tiên được tham dự vào cuộc Phục Sinh của Con Mẹ, và như vậy Mẹ là dấu chỉ báo trước và bảo đảm cho các Kitô hữu được sống lại với Chúa Kitô. Mẹ ở trên trên vẫn tiếp tục thiên chức làm mẹ bằng việc chuyển cầu cho tới khi Hội Thánh đạt tới quê trời (LG 62).
Hội Thánh luôn dành cho Ðức Maria lòng yêu mến và tôn kính rất đặc biệt, vượt trên các thiên thần và các thánh. Mẹ là mẫu mực của Hội Thánh trên bình diện đức tin, đức ái và hiệp nhất hoàn hảo với Chúa Kitô” (GH 63). Là hình ảnh của Hội Thánh tại thế “Hội Thánh vì ôm ấp những kẻ có tội trong lòng” (GH 8) hướng nhìn lên Ðức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, một phần tử ưu tú của mình, đã chiến thắng tội lỗi, nhờ hồng ân Chúa Kitô. Vì thế, Hội Thánh luôn luôn kiên trì và tin tưởng trong hành trình đức tin trên trần gian. “Ngày nay, trên trời Mẹ Ðức Giêsu đã được vinh hiển cả hồn và xác, là hình ảnh và khởi thủy của Hội Thánh phải hoàn thành đời sau; đồng thời, dưới đất này, cho tới ngày Chúa đến (2Pr. 3,10).
Lạy Mẹ Hội Thánh, trong hoàn cảnh bi đát hiện nay, đầy đau khổ và lo lắng đang bao trùm cả thế giới vì đại dịch, chúng con cầu xin Mẹ, chúng con tìm nương ẩn dưới sự che chở của Mẹ. Xin chớ chê chớ bỏ lời chúng con nguyện trong cơn gian nan khốn khó, xin giải thoát chúng con khỏi mọi hiểm nguy.
Đức Mẹ Hội Thánh, cầu cho chúng con. Amen. Lm. Ng Văn Độ
2022
THEO THẦY LÀM CHỨNG NHÂN
4.6 Thứ Bảy trong tuần thứ Bảy Mùa Phục Sinh
Cv 28:16-20,30-31; Tv 11:4,5,7; Ga 21:20-25
THEO THẦY LÀM CHỨNG NHÂN
Trong bài Tin Mừng hôm nay, câu hỏi của thánh Phêrô phần nào gợi lên tâm trạng này. Khi đã trao nhiệm vụ cho thánh Phêrô, Chúa Giêsu cũng đã báo trước về quãng đời còn lại của ông sẽ như thế nào: một viễn ảnh đầy khó khăn thử thách. Thánh Phêrô đã tò mò hỏi Chúa về số phận của người đồng môn và đã được trả lời: “Nếu Thầy muốn người ấy cứ ở lại mãi cho đến khi Thầy đến thì việc gì đến con, phần con, cứ theo Thầy”. Chúa Giêsu biết rằng câu trả lời của Ngài sẽ khiến cho Phêrô và các môn đệ buồn về cách đối xử phân biệt, có thể sẽ kéo theo sự chia rẽ giữa các ông. Chúa Giêsu quan tâm đến điều này vì câu hỏi của Ngài cũng là một lời mời gọi đầy thách thức riêng đối với thánh Phêrô và chung cho tất cả những ai muốn theo Ngài.
Ðáp trả lời mời gọi trước hết là một quyết định riêng tư của mỗi người trưc tiếp giữa họ và Thiên Chúa. Lời mời gọi chẳng hứa hẹn ngon ngọt nhưng chỉ là gai góc, khổ đau, và khi đã chấp nhận theo Ngài thì cũng đòi hỏi kẻ theo Chúa tuyệt đối trung thành với con đường Ngài đã vạch ra cho mỗi người. Mỗi người có con đường riêng của mình, có thể con đường họ đang đi gập ghềnh sỏi đá và con đường của người bên cạnh lại yên vui phủ đầy bóng mát.
Tuy vậy, họ cũng chẳng thể dừng lại ngồi nhìn người bên cạnh, Ngồi nhìn kẻ khác chỉ khiến họ thêm buồn tủi, mất hết nhuệ khí, chùn chân, không muốn tiến bước, mà không cất bước thì chẳng bao giờ đến đích điểm cuối cùng: một nơi đang bày sẵn phần thưởng để chờ đón họ. Ðường đi càng gian khổ thì niềm vui càng bừng nở. Thiên Chúa công bằng vô cùng, Ngài sẽ không để cho một ai phải thiệt thòi về những điều đã bỏ công góp sức. Cho đi thế nào thì sẽ nhận lại như vậy. Ðong đấu nào thì sẽ được trả lại bằng đấu ấy và còn đầy tràn hơn nữa.
Ta thấy nối tiếp mẫu đối thoại giữa Chúa Giêsu và ông Phêrô khi Chúa chọn Phêrô sẽ là người đứng đầu Giáo Hội sơ khai, và tiên báo về cái chết của Phêrô giống như cái chết của Thầy. Khi nhìn thấy Gioan đi đàng sau mình Phêrô liền hỏi Chúa Giêsu: “còn anh này thì sao?”. Gioan, môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến trong suốt những năm tháng tháp tùng theo Thầy đi Công bố Tin Mừng Cứu Độ. Gioan lại được ơn linh ứng của Thánh Thần để ghi chép lại những lời của Thầy mình qua một lối văn khác với ba tác giả Tin Mừng trước, mang nội dung ý tưởng thần học cao siêu hơn.
Ông đã làm chứng về Ơn Cứu Độ mà Chúa Giêsu đã thực hiện trong suốt ba năm đi theo Thầy. Qua lời Chúa Giêsu nói với ông Phêrô: “Nếu Thầy muốn nó cứ ở lại mãi cho tới khi Thầy đến’’, ý Ngài muốn nói lời chứng của Gioan được ghi chép lại sẽ tồn tại và linh ứng cho đến ngày tận thế, ngày Chúa Giêsu sẽ lại đến trong thế gian trong cương vị là một vị thẩm phán tối cao.
Theo sử sách ghi lại Gioan: con ông Giê-bê-đê, được Chúa Giêsu gọi là Môn đệ yêu dấu. Đối diện với cái chết tử đạo khi bị nấu trong nồi dầu sôi trong cuộc bách hại tôn giáo ở Rôma. Nhưng lạ thay, ngài được cứu thoát khỏi cái chết. Thánh Gioan bị kết án đi làm hầm mỏ tại trại tù ở đảo Patmos. Tại đây, Ngài đã viết cuốn sách Khải Huyền chứa đầy những lời tiên tri. Thánh Gioan được trả tự do, và trở về làm Giám mục ở Edessa, Thổ Nhĩ Kỳ. Ngài chết vì già yếu. Ngài là tông đồ duy nhất đã chết một cách bình an. Ngài cũng là môn đệ được Chúa Giêsu trao phó cho trách nhiệm nghĩa vụ làm con thay thế Thầy mình đem Mẹ Maria về nhà để săn sóc.
Gioan đã ghi chép, để lại cho chúng ta những lời giáo huấn của chính Chúa Giêsu đã nói và giảng dạy, và chính Gioan đã làm chứng về những điều mình đã viết là sự thật. Qua 20 thế kỷ Tin Mừng của Thánh Gioan vẫn luôn là những lời chứng thực về Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa đã ban cho con người, và vẫn đang tiếp tục là chứng nhân để truyền đạt lại cho chưa biết Chúa.
Riêng với Phêrô, Chúa Giêsu đã nói với ông : “Phần con, cứ theo Thầy”. Phêrô đã tiếp nối công việc của Thầy đã trao, Ngài đã chèo lái con thuyền Giáo Hội từ những ngày sơ khai, Phêrô đã rao truyền những lời giáo huấn của Thầy mình cho những anh em chưa biết Chúa, và Phêrô đã bảo vệ nguồn chân lý về Ơn Cứu Độ nơi Thầy của mình trao ban, Phêrô hạnh phúc được lãnh nhận phúc tử đạo giống như cái chết của Thầy mình. Từ những gian nan thử thách mà Phêrô đã trải qua trong suốt triều đại Giáo hoàng của Ngài, Ngài đã chèo lái đưa con thuyền Giáo Hội vượt qua biết bao trở ngại chông gai, và tiếp nối cho đến hôm nay con thuyền đó vẫn vững chắc bền bỉ để lướt qua những sóng gió trần gian.
Lời mời gọi đó như chính Chúa cũng đang mời gọi mỗi người chúng ta hãy tiếp bước theo Ngài, để làm chứng nhân cho Chúa bằng chính cuộc sống hiện tại, tùy theo chức vụ và ân sủng mà Thiên Chúa đã trao ban cách riêng cho mỗi người. Nhìn lại chính chúng ta, cuộc sống chứng nhân về Đức Kitô hôm nay của mỗi tín hữu đã tiếp nối gieo và gặt hái được đến đâu. Đức tin mà chúng ta đã được hạnh phúc hơn biết bao người khác, là được lãnh nhận ngay từ lúc chập chững bước vào đời, và được trau luyện qua những năm tháng thực hành sống đạo.
Trong mỗi thánh lễ chúng ta long trọng tuyên xưng đức tin: “Lạy Chúa chúng con loan truyền Chúa đã chịu chết và tuyên xưng Chúa đã sống lại cho tới khi Chúa đến”. Chúng ta thực hành được lời tuyên xưng đó được bao nhiêu lần, và đã trao ban niềm tin đó cho bao nhiêu anh chị em được nhận ra ánh sáng đức tin để biết Chúa, hay những lời đó chỉ là lời tuyên xưng vang lên trên cửa môi chúng ta trong ngôi thánh đường, và nó chỉ cô đọng mãi bên trong thánh đường, chưa đủ sức để lời tuyên xưng đó vang vọng ra được bên ngoài để mọi người chung quanh nhận biết Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa, qua việc Chúa Giêsu Giáng Sinh, rao giảng Tin Mừng, chịu chết và Phục Sinh. Để rồi cũng giống như dụ ngôn nén bạc đã bị chôn vùi không được dùng để làm sinh lợi thêm. (Mt 25, 18)
2022
Thầy biết con thương Thầy
3.6 Thánh Charles Lwanga và các bạn tử đạo
Cv 25:13-21; Tv 103:1-2,11-12,19-20; Ga 21:15-19
Thầy biết con thương Thầy
Sau khi Phục sinh, Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ, lần này Chúa hiện ra với các môn đệ tại bờ hồ Tibêriat và trong lần này Chúa trao cho Phêrô được quyền tuyệt đối trong Hội thánh và nói tiên tri về đời sống của ông.
Trước khi trao quyền trông coi Giáo hội cho Phêrô, Chúa Giêsu hỏi ông ba lần: “Anh có yêu mến Thầy không?” Câu hỏi được lặp đi lặp lại để Phêrô phải suy nghĩ, lựa chọn và xác định tầm quan trọng của vấn đề. Để thi hành sứ vụ, Phêrô cũng như các môn đệ, phải có lòng yêu mến thiết tha, vì có yêu Thầy tha thiết, thì mới chăm sóc được đoàn chiên của Thầy.
Chúa Giêsu hỏi ba lần: “Này anh Simon con ông Joan, con có yêu mến Thầy không? Và ba lần Phêrô đáp con yêu mến Thầy” (Ga 21,15-17), và cũng ba lần Chúa Giêsu nói: “Hãy chăm sóc chiên con của Thầy”. Ðiều đó cho chúng ta biết rằng tình thương không chỉ biểu lộ trong lòng mà con biểu lộ trong lời nói và hành động. Ðặc biệt đối với chúng ta, tình yêu với Thiên Chúa cần phải được thường xuyên hâm nóng và xác quyết bằng chính lời nói thành thực và sinh động trong chúng ta. Mỗi lần nghe giảng, đọc sách thiêng liêng, mỗi lần đọc kinh Lạy Cha hay kinh Tin Kính, đó là chúng ta xác quyết lại sự thần phục, sự hiện diện và biểu lộ lòng yêu mến của chúng ta đối với Thiên Chúa.
Chúa Giêsu hỏi ba lần “con có yêu mến Thầy không?”, đáp lại ba lần “có” cũng là để bù lại ba lần chối Thầy. Trước thái độ ba lần từ chối của Phêrô, Chúa không đòi hỏi Phêrô ba lần xin lỗi hay để trừng phạt, song ba lần Chúa muốn được nghe Phêrô nói “con yêu mến Thầy”. Như trước đây với Madalêna, lần này là Phêrô và sau này là mỗi người chúng ta, Chúa Giêsu như muốn nói: “Con yêu nhiều thì sẽ được tha thứ nhiều và ngược lại, con được tha thứ nhiều vậy con hãy yêu mến nhiều”. Tiếng gọi lãnh đạo của Chúa là tiếng gọi tình yêu, Chúa Giêsu đã không hỏi Phêrô con đã có chìa khóa lãnh đạo cao cấp chưa? Hay có bằng cấp gì? Tốt nghiệp đại học nào chưa? Song như có lần Chúa Giêsu nói: “Ai yêu mến Ta thì hãy giữ lề luật của Ta” thì bây giờ Ngài nói: “Con yêu mến Thầy thì hãy chăm sóc chiên con của Thầy”.
Chúa Giêsu quan niệm về lãnh đạo là yêu thương, là phục vụ, rửa chân cho những người mình lãnh đạo, Chúa Giêsu không quan niệm nền tảng và phương pháp lãnh đạo là thao tác bắt người ta làm theo ý mình, song bằng tình yêu giúp nhau thực hiện ý Chúa. Như trong trường hợp của Phêrô, tình thương của Chúa đối với Phêrô và của Phêrô đối với Chúa, tình thương ấy xóa bỏ hận thù, xóa bỏ lỗi lầm xưa và đưa người yếu kém kia trở lại sống trong tình yêu của Chúa.
“Anh em yêu mến Thầy thì hãy chăm sóc chiên của Thầy”. Lời mời gọi ấy nhắm vào hàng giáo sĩ. Dĩ nhiên, sau cùng là lời mời gọi đối với mỗi người chúng ta, tất cả chúng ta đều có trách nhiệm liên đới đến vận mệnh phần rỗi của anh em mình, về phận sự chăn dắt, nuôi nấng và đưa anh em về đàn chiên và gìn giữ họ an toàn trong Ðức Tin. Hãy vì yêu mến Chúa mà làm phận sự chăn dắt và yêu người, tức là làm việc Tông Ðồ truyền bá Tin Mừng và làm cho anh em mình nhận biết và phụng thờ Thiên Chúa.
Tại sao Chúa Giêsu lại hỏi Phêrô tới ba lần như vậy? Có nhiều nhà giải thích Thánh kinh nói rằng: Chúa Giêsu hỏi Phêrô ba lần như vậy là để tỏ ra tầm quan trọng của nhiệm vụ mà Chúa sắp trao phó cho ông.
Có những tác giả khác cho rằng: Chúa hỏi đi hỏi lại như vậy là muốn cho mọi người biết rõ rệt Chúa trao quyền Tông đồ trưởng cho Phêrô, và quyền ấy phải đi đôi với tình yêu của ông đối với Chúa, quyền lợi đi đôi với tình yêu, tình yêu bao trùm mọi trách nhiệm.
Một số người khác lại cho rằng: Ba câu trao sứ mạng, lần lượt nói “chiên con” ở hai lần đầu và “chiên mẹ” ở lần sau cùng, là Chúa có ý đề cập đến quyền lãnh đạo của Phêrô trên cả giáo dân và các chủ chăn khác.
Có người lại cho rằng Chúa hỏi Phêrô ba lần như vậy là có ý gợi lại ba lần ông đã chối Chúa.
Có người lại cho rằng ba lần hỏi, ba lần trao nhiệm vụ như thế, cũng hiểu là Chúa trao ba quyền cho Phêrô: giảng dạy, tế lễ và cai trị, tức là ba chức vụ: giảng dạy, thánh hoá và lãnh đạo
Khi thiết lập người đứng đầu Giáo hội, Chúa Giêsu lại đặt một vị đã từng ba lần chối Chúa. Nếu xét theo cái nhìn của chúng ta thì có lẽ Phêrô không xứng đáng và không đủ tiêu chuẩn làm mục tử. Nhưng dưới cái nhìn của Chúa Giêsu, Người không nhìn Phêrô của ngày hôm qua, mà là bắt đầu từ lúc này và hướng về tương lai. Phêrô lầm lỡ và khiêm tốn ăn năn để đứng lên, nên cũng chính Phêrô cảm thông được với những con chiên mà Chúa Giêsu trao phó cho Ngài. Thiên Chúa đi tìm chiên lạc, thay vì ở nhà với 99 con chiên không lạc. Thiên Chúa cũng chọn một vị mục tử đã từng lầm lỗi, nhưng quan trọng là: “Này Phêrô, một khi anh đã trở lại, anh hãy làm cho anh em vững tin”.
Mỗi người chúng ta được sống trong những môi trường khác nhau, với sứ vụ khác nhau trong công cuộc xây dựng Nước trời tại thế, chúng ta cũng phải có một tình thương! Vì tình thương xóa bỏ hận thù, là mối dây liên kết mọi điều thiện hảo.