2022
Sóng gió cuộc đời
29.1.2022
Thứ Bảy trong tuần thứ Ba Mùa Quanh Năm
2 Sm 12:1-7,10-17; Tv 51:12-13,14-15,16-17; Mc 4:35-41
Sóng gió cuộc đời
Sự kiện Chúa Giêsu và các môn đệ sang bên kia biển hồ, như được trình thuật trong Tin Mừng hôm nay, không phải chỉ có ý nghĩa địa lý: di chuyển từ nơi này sang nơi nọ, cũng như sóng gió nổi lên không chỉ mang ý nghĩa về khí tượng thuần tuý; nhưng các biến cố đó còn mang ý nghĩa thần học nữa. Chúa Giêsu và các môn đệ rời bỏ miền đất Israel để đi sang phía dân ngoại, điều đó mang ý nghĩa truyền giáo; sóng gió nổi lên tượng trưng cho sức mạnh của sự dữ, của ma quỷ nổi lên chống lại Chúa và các môn đệ.
Tin Mừng Máccô theo một cái khung quen thuộc để kể truyện này: một trở ngại phải vượt qua (một trận cuồng phong trên biển), hành động quyền năng của Chúa Giêsu (lệnh truyền im lặng), và sự xác nhận (sự yên lặng hoàn toàn và nỗi sợ hãi của các môn đệ). Bối cảnh của câu truyện này rất có thể là quan niệm cổ xưa của Cận Đông về biển: đây là biểu tượng của những quyền lực của hỗn mang và sự dữ đấu tranh chống lại Thiên Chúa. Các độc giả đầu tiên của Mc nắm được ý nghĩa của biểu tượng này đến mức nào, thì khó mà biết. Nhưng chắc chắn câu hỏi của các môn đệ (“người này là ai?”) cho thấy là tác giả muốn nhấn mạnh trên chân tính của Chúa Giêsu. Câu hỏi ấy trở thành một lời tung hô mặc nhiên mang tính Kitô học nhìn nhận bản tính thần linh của Chúa Giêsu, bởi vì Người làm được những việc Thiên Chúa làm.
Sáng kiến vượt hồ là sáng kiến của Chúa Giêsu. Các môn đệ luôn thinh lặng bước theo Người và tận tình thực hiện những việc Người đề nghị. Chúa Giêsu luôn tỏ ra là chủ, nắm vững mọi hướng đi.
Nguy hiểm được mô tả bằng các chi tiết về sóng to gió lớn. Nhưng Chúa Giêsu vẫn tỏ ra là chúa tể, làm chủ tình hình: Người ngủ. Bình thường các môn đệ chờ đợi Chúa Giêsu phản ứng và dạy bảo rồi mới làm theo; nhưng ở đây, thấy bão táp quá nguy hiểm, các ông bị chao đảo trong đức tin, các ông đã phản ứng trước Thầy, các ông thúc bách Thầy bằng giọng hốt hoảng và trách móc. Người đã trỗi dậy, dẹp yên sóng gió. Ở đây, bão và biển được truyền lệnh như những sinh vật; chúng được yêu cầu “im đi!”, “câm mõm lại!”. Quả thật, từ vựng của bản văn là từ vựng của một truyện trừ quỷ.
Tuy nhiên, như trình thuật Tin Mừng cho thấy, lúc đó Chúa Giêsu đang ở đàng lái, gối đầu mà ngủ. Giấc ngủ ấy khiến ta liên tưởng đến cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá. Trong cái chết đó, Chúa Giêsu dường như đã thất bại, trong khi đó các quyền lực sự dữ tưởng chừng như đã thành công, vì đã thủ tiêu được người mà họ coi như kẻ thù, như kẻ quấy rầy nền đạo đức tôn giáo của họ. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã thức dậy, nghĩa là Ngài đã phục sinh, và sự Phục Sinh của Ngài loan báo cuộc chiến thắng vĩ đại của Ngài trên mọi quyền lực của ma quỷ và sự dữ cũng như của bất cứ thế lực nào chống đối Giáo Hội.
Hình ảnh con thuyền trong đó các môn đệ sống chung với Chúa Giêsu là biểu tượng cho cộng đoàn gồm những môn đệ hôm nay vẫn đang muốn bước theo Người. Đó chính là một cuộc “cộng đồng sinh mệnh”, sống chết có nhau. Phản ứng của các môn đệ trong biến cố này là một tấm gương và một lời nhắc nhở cho cộng đoàn Kitô hữu là đừng rơi vào một thái độ không tin như thế. Nếu chúng ta gắn bó với Chúa Giêsu, thì không có hoàn cảnh nào có thể tiêu diệt chúng ta, bởi vì không có hoàn cảnh nào mà Người không chế ngự được.
Ðời sống của Giáo Hội cũng như của mỗi Kitô hữu được ví như một cuộc ra khơi. Thiên Chúa vẫn luôn hiện diện, ngay cả khi chúng ta tưởng như Ngài vắng mặt trong những thử thách, phong ba của cuộc đời. Ðiều quan trọng là chúng ta biết chạy đến cầu nguyện với Chúa để Ngài làm yên cơn sóng gió và dẫn đưa con thuyền cuộc đời chúng ta về tới bến bờ bình an.
Lời mời gọi “Hãy sang bờ bên kia” có nhiều ý nghĩa đối với chúng ta. Với Giáo Hội, “bờ bên kia” mang ý nghĩa là những người hiện giờ không ở trong cộng đoàn chúng ta, họ đang ở “bờ bên kia”, có thể họ là những người vừa di chuyển đến trong xã hội chúng ta, những người “bên phía kia”, là người cao niên, người tàn tật, người bệnh chờ chết, hay người di dân vì chiến tranh trong trại di cư… Đức giáo hoàng Phanxicô dạy trong Tông huấn Niềm vui Tin Mừng: “Mỗi Kitô hữu và mỗi cộng đồng phải phân định đường đi nước bước mà Chúa vạch ra, nhưng tất cả chúng ta đều được yêu cầu vâng theo tiếng gọi của Người là ra đi khỏi khu vực tiện nghi của mình để đến mọi vùng ngoại vi đang cần ánh sáng Tin Mừng” (s. 20)
Lời Chúa Giêsu trách các môn đệ: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?” rất đúng cho chúng ta là những người đã biết Chúa Giêsu từ lâu, đã sống với Người, đã được chứng kiến biết bao nhiêu việc kỳ diệu Người làm trong đời sống chúng ta, mà vẫn không biết phản ứng hay lấy những quyết định tương hợp với kinh nghiệm ấy. Nhận biết đúng đắn chân tính của Chúa Giêsu thì sẽ có một thái độ đúng đắn đối với bản thân Người.
Tin Mừng vừa cho thấy tương quan mật thiết giữa Chúa Giêsu và các môn đệ vừa diễn tả lộ trình các môn đệ khám phá ra mầu nhiệm Chúa Giêsu: họ bước theo Người, họ chứng kiến các biến cố trong đó Người can thiệp, họ khám phá ra mầu nhiệm bản thân Người. Chi tiết “có những thuyền khác cùng theo” chỉ được nêu ra ở câu đầu, rồi sau đó cho đến cuối, không xuất hiện nữa.
Ước gì chúng ta luôn có được xác tín của thánh Phaolô Tông đồ: Thiên Chúa không để chúng ta bị thử thách quá sức chịu đựng, Ngài sẽ ra tay cứu giúp mỗi khi chúng ta kêu cầu đến Ngài.
2022
LÀM SÁNG TỎ LỜI
27.1.2022
Thứ Năm trong tuần thứ Ba Mùa Quanh Năm
2 Sm 7:18-19,24-29; Tv 132:1-2,3-5,11,12,13-14; Mc 4:21-25
LÀM SÁNG TỎ LỜI
Trong khi thi hành sứ vụ công khai, Chúa Giêsu thường dùng dụ ngôn mà nói với các môn đệ và dân chúng. Ngài thường dùng những hình ảnh rất cụ thể, gần gủi với đời sống thường nhật của họ mà dạy họ về chân lý. “Chiếc đèn và đấu đong” là hai hình ảnh rất bình dị mà Chúa Giêsu đã dùng trong Tin mừng theo thánh Mác-cô hôm nay.
Hôm nay Chúa Giêsu đưa ra hai dụ ngôn nói về cái đèn và cái đấu để nói về việc nghe Lời Chúa và giới thiệu cho người khác. Chúa nói: “Chẳng ai mang đèn tới để đặt dưới cái thùng hay dưới gầm giường”. Chúng ta đã nghe Lời Chúa, chúng ta không được giữ kín cho riêng mình. Chúng ta phải đem Lời Chúa đến cho mọi người. Chúng ta càng nhiệt tâm giảng dạy Lời Chúa cho kẻ khác, thì Chúa càng ban thêm cho chúng ta. Còn nếu chúng ta ích kỷ giữ riêng cho mình thì dần dần cũng sẽ mất hết ơn Chúa.
Chiếc đèn là vật dụng rất thân thuộc với người Do Thái, mà nó cũng rất thân thuộc với người Việt nam chúng ta, hầu như ai cũng biết và cần dùng đến. Khi bóng tối bao phủ, màn đêm buông xuống thì ánh đèn được đốt lên, người ta thường đặt nó trên đế, đặt nơi vị trí cao để ánh sáng của nó có thể lan tỏa đến mọi vật, chiếu sáng cho mọi người. Nếu đốt đèn lên mà đem dấu đi dưới cái thùng hay đặt dưới gầm giường thì quả là sai mục đích, là mâu thuẫn và uổng phí, thà nó tắt đi còn hơn, vì làm như thế là làm mất giá trị của chiếc đèn. Chúng ta công nhận với nhau rằng, công dụng của chiếc đèn là chiếu sáng cho mọi người, soi cho tỏ mọi vật, để nhờ đó ta có thể phân biệt mọi sự cách chuẩn xác và đúng đắng.
“Chiếc đèn” trong Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu muốn nói đến ấy là Tin Mừng, “Tin Mừng ơn cứu độ” mà Ngài đã thắp lên nơi cõi lòng các môn đệ, thắp lên nơi tâm hồn những người đang nghe và đón nhận lời Ngài, Lời chân lý. Chiếc đèn ấy (Tin mừng ấy) không thể được dấu kín, nhưng phải lan tỏa ra cho hết thảy mọi người, hay nói cách khác, Tin mừng mới đầu chỉ một thiểu số biết thôi, nhưng theo thời gian Tin mừng đó cần được chiếu tỏa, phải được loan báo cho mọi dân tộc (x. Mc 13, 10).
Khi đón nhận tin mừng cứu độ từ Đức Giêsu Kitô, khi đón nhận ánh sáng phục sinh lúc lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, mỗi người Kitô hữu trở nên là ngọn đèn cháy sáng giữa muôn dân. Ngọn đèn đức tin ấy được lan tỏa đến mọi người qua đời sống “nên thánh” trong chân lý mạc khải, qua sứ vụ ngôn sứ của người tín hữu. Bằng đời sống cầu nguyện, gắn bó mật thiết với Chúa, qua cách sống chân thành, biết nêu gương lành trong gia đình – xã hội, biết thực thi tình bác ái giữa cộng đoàn, nơi mình đang sống, thì mỗi người chúng ta như ngọn hải đăng giữa biển đời, như ánh đèn chân lý giữa xã hội đầy giả trá đang kêu gào công bình sự thật.
Tuy nhiên, chiếc đèn đức tin nơi ta sẽ không thể phát sáng nếu không đón nhận nguồn sáng nơi Chúa, nơi mẹ Giáo Hội qua Lời của Đức Giêsu Kitô và các bí tích. Bởi thế, mỗi người chúng ta cần xin ơn trợ lực, để dám dùng những “cái đấu” (“cái đấu” là mức độ tâm hồn mở ra để đón nhận) thật to của để đón nhận ân sủng Chúa với lòng quảng đại trao ban lại cho những ai cần đến ơn Chúa.
Lý do hiện hữu của cây đèn là để soi sáng. Vậy khi cây đèn không soi sáng cho ai, thì nó không còn phải là cây đèn nữa. Cũng thế, lý do hiện hữu của người Kitô hữu là phải tỏa sáng niềm tin của mình ra, để cho người khác, nhờ ánh sáng đó mà được dẫn đưa đến chân lý và hy vọng; hay nói cách khác, trực tiếp hay gián tiếp, âm thầm hay hiển hiện, việc làm chứng cho đức tin trong cuộc sống hằng ngày của những người Kitô hữu chúng ta, không phải là một việc làm có tính cách nhiệm ý, nghĩa là muốn làm hay không tùy ý, mà trái lại đó là một đòi hỏi tất yếu, bao trùm cả cuộc sống Kitô hữu của chúng ta.
Lời Chúa quả có sức chiếu sáng rất mạnh. Chỉ tiếc rằng Lời Chúa rót vào tai một số người giống như dầu châm vào những cây đèn không chịu cháy sáng cho nên cũng vô ích. Bà Chiara Lubich nói: “Chúng ta phải sống thế nào để cho dù các sách Phúc Âm trên khắp thế giới có bị đốt hết đi thì người ta nhìn vào cuộc sống chúng ta vẫn có thể chép lại Phúc Âm ấy đúng từng câu, từng chữ”.
Ngọn đèn muốn tỏa sáng xa thì phải được đặt trên đế cao có lẽ là chuyện chẳng cần bàn cãi. Thế nhưng, ngọn đèn mà Đức Giêsu muốn ta đặt trên đế lại là chuyện khác, vì đèn ấy chính là Tin mừng của Ngài. Có vẻ ta có khuynh hướng che giấu, ngại bày tỏ – nghĩa là đặt dưới thùng hay gầm giường – thay vì loan báo, trình bày cho người lân cận. Sống triệt để tinh thần Tin mừng của Chúa là phương thế hữu hiệu nhất để đặt Tin mừng ấy trên đế cao. Ngược lại, coi thường Tin mừng, không quan tâm đến Tin mừng ấy là cung cách thích hợp nhất cất giấu dưới thùng hay gầm giường.
Mỗi Kitô hữu phải biết chiếu tỏa ánh sáng Tin Mừng cho những người xung quanh. Càng biết mở lòng đón nhận và chiếu tỏa Tin Mừng, thì lại càng đón nhận được nhiều ơn Chúa.
Chúng ta xin Chúa để rồi mỗi người chúng ta là một ngọn đèn cháy sáng giữa gia đình, nơi công sở, nơi thôn xóm, nơi đường phố… khi nhịp bước giữa đời. Để chúng ta biết làm mọi việc tầm thường, với tinh thần phi thường của Chúa.
2022
Hạt giống Lời Chúa
26.1.2022 Thứ Tư
Thánh Timôthêô và Titô, Gm
2 Sm 7:4-17; Tv 89:4-5,27-28,29-30; Mc 4:1-20
Hạt giống Lời Chúa
Thánh Timôthêô và thánh Titô đã dâng hiến cả cuộc đời, thời giờ và sức lực của mình cho Chúa Giêsu. Các ngài là những môn đệ đích thực của thánh Phaolô.
Ngoài việc là những thánh nhân và là những giám mục trong Giáo hội sơ khai, Timôthêô và Titô còn có vài điểm giống nhau nữa. Cả hai đều nhận lãnh ơn đức tin do lời rao giảng của thánh Phaolô.
Cả hai đều nhận lãnh ơn đức tin do lời giảng của Thánh Phaolô
Thánh Timôthêô sinh ở Lycaonia thuộc vùng Tiểu Á. Thân mẫu ngài là người Dothái và thân phụ ngài là người dân ngoại. Khi Phaolô đến Lycaonia giảng dạy thì Timôthêô, thân mẫu và bà ngoại của ngài, tất cả đều được trở nên những Kitô hữu. Sau nhiều năm, Phaolô trở lại và nhận thấy Timôthêô đã khôn lớn. Phaolô cảm thấy Chúa muốn gọi Timôthêô làm tông đồ truyền giáo cho Chúa nên đã mời Timôthêô cộng tác với mình rao giảng Tin mừng.
Sau đó, Timôthêô rời bỏ cha mẹ, nhà cửa và đi theo Phaolô. Ngài cùng chia sẻ đau khổ với Phaolô. Các ngài vui mừng ra đi mang lời Chúa đến cho mọi người. Timôthêô là tông đồ yêu quý đặc biệt của Phaolô; và Phaolô xem ngài như đứa con nhỏ của mình. Timôthêô đã cùng Phaolô đi khắp nơi cho tới khi được đặt làm giám mục thành Êphêsô. Rồi Timôthêô ở đó coi sóc đoàn chiên của ngài. Như Phaolô, Timôthêô cũng được phúc tử đạo.
Thánh Titô là người ngoại giáo. Ngài cũng là môn đệ của Phaolô. Titô có tâm hồn quảng đại và đức tính chăm chỉ. Ngài rất vui sướng khi được cùng với Phaolô rao giảng Tin mừng trong những chuyến mục vụ. Vì Titô rất đáng tín nhiệm nên Phaolô đã trao phó cho ngài “công việc rao giảng” cho các cộng đồng Kitô hữu. Titô giúp họ kiện toàn đức tin trong Chúa Giêsu Kitô. Ngài có thể kiến tạo hòa bình khi có những cuộc cãi vã hoặc tranh chấp giữa các tín hữu. Titô có ơn đặc biệt trong việc hòa giải. Phaolô rất quý trọng ơn này nơi Titô và ngài chân nhận đó là công việc của Chúa Thánh Linh. Ngài hay sai Titô đi dàn xếp những vấn đề khó khăn. Khi Titô xuất hiện giữa những Kitô hữu đang bất bình cãi vã nhau, thì họ liền hối hận và lại làm hòa. Họ xin Titô tha thứ và hứa sẽ đền bù những thiệt hại đã gây ra cho nhau. Khi hòa bình được tái lập, Titô trở về và thuật lại cho Phaolô nghe những thành quả tốt đẹp. Điều này đã làm cho Phaolô và những Kitô hữu tiên khởi vui mừng hạnh phúc.
Thánh Phaolô đã đặt Titô làm giám mục vùng quần đảo Crêta, nơi ngài định cư cho tới khi qua đời.
Thánh Timôthêô và thánh Titô đã dâng hiến cả cuộc đời, thời giờ và sức lực của mình cho Chúa Giêsu. Các ngài là những môn đệ đích thực của thánh Phaolô. Người ta rất dễ không mộ mến vì quá quen hoặc không để tâm đến những người như vậy. Hôm nay chúng ta hãy cầu nguyện cho hết thảy mọi người đang rao giảng Tin mừng như Phaolô, Timôthêô và Titô.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn người gieo giống để giảng về Nước Trời. Việc gieo giống có lẽ rất quen thuộc với người Việt Nam, vì có đến 4/5 dân số sống bằng nghề nông nghiệp. Người gieo giống nào cũng muốn gieo hạt trên đất đã cày bừa cẩn thận; Thiên Chúa cũng muốn tâm hồn con người được trở nên như thửa đất để hạt giống Lời Ngài có thể mọc lên, phát triển và sinh nhiều hoa trái, làm ích cho mình và cho người khác nữa.
Dụ ngôn Người gieo giống kéo dài trong 7 câu, từ câu 3 đến câu 9, mà có lẽ mỗi người trong chúng ta nghe ít nhất không dưới một lần. Trong dụ ngôn này, người gieo hạt giống thật phung phí quá sức. Ông ta đi trên bờ, tay giơ cao và giang rộng để vung thật xa những hạt giống nhỏ bé. Từ tay ông, hạt giống rơi vào nhiều ngõ ngách, nơi chốn khác nhau : vệ đường, bụi gai, sỏi đá và đất màu mỡ. Ta thấy lòng quảng đại của người gieo hạt giống.
Vệ đường làm sao có đất để nảy mầm, trong bụi gai dù có nảy mầm cũng không thể phát triển hơn được; Nơi sỏi đá khô cằn, cứng cỏi khó mà len lỏi sống sót. ]hế mà, ông vẫn gieo, bởi vì niềm hy vọng vào thành quả thu được chỉ xuất phát từ ¼ số lượng gieo vãi. Cứ 4 hạt, chỉ có một hạt là rơi vào đất tốt, có thể nảy mầm và trổ sinh hoa trái. Điều này muốn nói rằng : Cho dù hạt giống nảy mầm èo uột, ngay cả thân cây bị bóp nghẹt, nhưng mùa gặt vẫn dồi dào, phong phú, “hạt được 30, 60, và 100” (c.8).
Thật thế, dù công cuộc rao giảng Tin Mừng về Nước Thiên Chúa có gặp khó khăn, trở ngại, thất bại hay bị chống đối của người đời và sự dữ, thì sức mạnh của Tin Mừng vẫn lướt thắng, vì Tin Mừng Chúa Giêsu rao giảng là công trình của Thiên Chúa, chứ không phải của loài người. Vì thế, chúng ta cần phải tin tưởng vào công cuộc loan báo Tin Mừng. vào sức mạnh tiềm tàng của Tin Mừng. hy vọng việc rao giảng Tin Mừng sẽ thành công và đạt kết quả tốt đẹp.
Sau khi giảng dạy cho họ theo lối dụ ngôn, thì ngay cả những người từng đi theo Ngài cũng không hiểu (x.c10). Họ xúm lại hỏi Chúa Giêsu về ý nghĩa của dụ ngôn này. Chúa Giêsu đã trích dẫn sách Isaia chương 6, từ câu 9 đến câu 10 để nói về tình trạng mù quáng của thính giả. Có hai loại người lãnh hội Tin Mừng. Nhóm 12 và các môn đệ thân tín của Chúa Giêsu thuộc loại người không tin là những kẻ ở ngoài, nên phải dùng dụ ngôn để nói với họ (11b).
Đó là lý do Chúa Giêsu sử dụng dụ ngôn vì “ xác họ trố mắt nhìn cũng không thấy, có lắng tai cũng không nghe, không hiểu, kẻo họ trở lại và được ơn tha thứ” (c.12). Ý nói sự cứng lòng của con người , vì họ không tin nên không thấy, không nghe, không hiểu, nên không thể trở lại để lãnh nhận ơn tha thứ. Lời Chúa gieo vãi cho mọi người, nhưng chỉ sinh ơn cứu độ cho những ai biết mở lòng đón nhận và thực hành Lời Chúa.
Chúa Giêsu cắt nghĩa dụ ngôn cho các môn đệ (c.13-20). Ngài phân tích rõ từng hoàn cảnh mà Lời Chúa không có tác dụng hay được trổ sinh mỹ mãn. Có lẽ đây là mảnh đất tâm hồn của mỗi người chúng ta. Cuối năm dương lịch, bài Tin Mừng này như một bản xét mình về đời sống thiêng liêng, chúng ta đã để Lời Chúa được gieo vãi trong tâm hồn chúng ta như thế nào?. Nếu tâm hồn tôi là vỉa hè, đường trải nhựa, xi măng không đất cát, nóng bỏng, thì làm sao hạt giống đâm rễ được ?. Nếu tâm hồn tôi là một bụi gai um tùm, đâm tua tủa, khi hạt giống rơi vào sẽ bị vướng và nằm chơ vơ giữa bụi gai, thì làm sao hạt giống chạm tới đất và nảy mầm được ?. Nếu cõi lòng tôi như một mãnh đất hoang khô cằn sỏi đá, không một dòng nước hay một bóng cây, chỉ có nắng, sỏi với đá cứng cỏi, khô khốc… và nếu hạt giống có rơi vào kẽ đá và nảy mầm, thì “ tuổi thọ” của nó cũng không kéo dài được bao lâu hoặc chỉ phát triển trong èo uột vì thiếu nước, thiếu đất.
Nhìn lại cuộc đời của mình, có lẽ chúng ta phải thành thật nhận rằng từ trước tới nay chúng ta chưa đón nhận và sống Lời Chúa được bao nhiêu, bởi vì chúng ta vẫn để cho tâm hồn xao xuyến lo lắng, những đam mê sự đời, tham vọng địa vị và của cải làm chết ngạt Lời Chúa. Ðấy là chưa kể những biến cố xảy đến trong cuộc sống bản thân, gia đình, xã hội, đều là những tiếng Chúa nhắc nhở, mời gọi chúng ta, nhưng chúng ta vẫn chưa thoát khỏi những đam mê, ích kỷ trong đời sống. Lời Chúa vẫn chưa bén rễ sâu trong tâm hồn chúng ta.
Xin Chúa cho chúng ta biết mở rộng tâm hồn đón nhận hạt giống Lời Chúa. Xin làm cho những hạt giống ấy được bám rễ, mọc lên tươi tốt và trổ sinh được nhiều bông hạt, để mỗi ngày chúng ta được lớn lên trong tình yêu Chúa và góp phần xây dựng Giáo Hội Chúa ngày một lớn mạnh hơn.
2022
HOÁN CẢI VÀ LÀM CHỨNG
25.1.2022 Thứ Ba
Thánh Phaolô, Tông Đồ trở lại
2 Sm 6:12-15,17-19; Tv 24:7,8,9,10; Mc 3:31-35
HOÁN CẢI VÀ LÀM CHỨNG
Chúng ta biết ông sinh ra và sống tại Tạcxô. Cuối chương 9 cho biết ông sẽ trở lại quê hương sau khi chạy trốn khỏi Giêrusa-lem thời bị bách hại. Sinh ra tại Tạc-xô, nghĩa là tại thành phố ngoại giáo, trong vùng phát tán Do thái; ông không phải là Do thái gốc Paléstin như các tông đồ khác. Đặc tính của ông là mang hai nền văn hóa.
Ông là Do thái và rất Do thái. Ông gắn bó thâm sâu với luật Do thái và thuộc về nhóm Pha-ri-sêu, ông tuân giữ rất nghiêm nhặt và kỹ lưỡng lề luật mà ông coi là chính yếu cho đời sống của mình. Ong được nhào nặn trong tinh thần Cựu Ước và thuộc nằm lòng Sách thánh. Phaolô mang nặng văn hóa Do thái mặc dầu không sinh ra và lớn lên tại đó.
Nhưng đồng thời ông chịu ảnh hưởng văn hóa Hylạp và Lamã. Sách Công Vụ Tông Đồ cho chúng ta biết ông là công dân La-mã; đàng khác ông nại đến tư cách nầy để xin được xét xử bởi Xêda tại Rôma (Rôma biểu tượng trung tâm của đế chế) để chứng tỏ rằng Kitô giáo đã tưới gội toàn thể thế giới nơi có con người sinh sống.
Như vậy, là công dân Rôma, có văn hóa Hylạp, biết những gì tạo nên nền văn hóa nầy, am hiểu triết lý Hylạp ngay cả tiến xa trong lãnh vực này bằng mò mẫm như diễn từ của ông tại Athen minh chứng. Lãnh hội được hai nền văn hóa, ông cố gắng bằng sức mạnh của những sự kiện làm nên một duy nhất tính nào đó cho chính mình khi đứng giữa hai nền văn hóa. Người ta hiểu vai trò chìa khóa mà Phao-lô nắm giữ để giúp Kitô giáo đi từ cuống rốn Do thái nơi mà ông đã được đào tạo đi đến một điều khác hoàn vũ hơn, đi từ cơ chế tôn giáo của một dân tộc đến đức tin cho mọi dân tộc khác.
Ông là trung gian đáng chú ý, điều đó không phải dễ và ông đã phải trả giá vì những kẻ thù từ phía người Do-thái cũng như từ phía các dân ngoại. Tuy nhiên vừa bám rễ trong lịch sử Do thái vừa bám rễ trong đời sống Hy La, điều đó đã cho Phao-lô hoàn tất vai trò tông đồ dân ngoại mà ông đã được kêu gọi. Thời điểm xảy ra cuộc gặp gỡ trên đường Đamát, chúng ta biết rằng Phaolô là một kẻ bách hại cuồng nhiệt các môn đệ của Chúa Giêsu.
Lần đầu tiên Phaolô được nhắc đến trong Công Vụ Các Tông Đồ, là thành viên tham gia cuộc ném đá thánh Têphanô (một trong bảy phó tế được các tông đồ đặt tay), ông giữ áo choàng cho những kẻ ném đá Têphanô. Hai lần khác, ở đầu sách Công Vụ, Phao-lô được coi là kẻ theo đuổi không ngơi nghỉ các môn đệ của Chúa Giê-su mà ông có thể xác định ở Giê-ru-sa-lem nơi có khá đông người Ki-tô hữu. Vào đầu chương 9 ông tự cho mình sứ mệnh đi đến Đa-mát để tiếp tục lùng bắt. Ông ác cảm với người Kitô hữu đến nỗi ông muốn theo đuổi họ mọi nơi họ quy tụ, để ngăn chặn họ xâm chiếm vùng phát tán Dothái, vào thời đó, nhất là ở Tiểu Á; chính vì lý do đó mà Phaolô muốn đi đến Đamát, ông có trong tay thư của lãnh đạo Dothái giáo tại Giêrusalem để thi hành “chính sách mà ông muốn”: chính sách đàn áp bắt bớ, và để mang tù nhân về Giêrusalem, là những ai đón nhận “Đường”, theo cách gọi của Sách Công Vụ Tông Đồ, con đường (mỹ danh từ để chỉ Giáo Hội phôi thai).
Có thể nói rằng nửa đời về trước Phaolô là một người Biệt phái chính cống, kiêu căng, nhiệt thành với truyền thống cha ông; còn nửa đời sau Phaolô là một vị Tông Đồ thông minh uyên bác, vô cùng nhiệt thành với tình yêu Thiên Chúa, như chính Ngài thú nhận: “Tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng tôi” và xác tín: “Không có gì tách chúng ta ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa trong Đức Kitô” (Rm 8, 35-39). Từ đây cuộc đời của Phaolô đã viết nên thiên anh hùng ca. Thiên anh hùng ca của vị Tông Đồ đã sống và đã chết cho Đức Kitô.
Ngài hăng say loan báo Tin Mừng ở Giêrusalem, các vùng Bắc Á, vượt biển sang châu Âu 4 lần để truyền giáo và chịu tử đạo tại Roma.
Phaolô không ngần ngại kể “tôi đã bị lao tù đòn vọt, bao lần suýt chết, năm lần bị người do thái đánh bốn mươi roi bớt một, ba lần bị đánh đòn, một lần bị ném đá, ba lần bị đắm tàu, một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi”; phải chịu đủ thứ nguy hiểm bởi “phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em; phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng” (2 Cr 11, 23-27). Tất cả vì Tin Mừng và vì phần rỗi của anh chị em mình.
Khám phá nhân cách, nhân tính của Phao-lô đã mời gọi chúng ta đảm trách nhân tính của mình, tiếp nhận, đón chào nó như một ân huệ được ban cho chúng ta, mà chúng ta phải cảm tạ Thiên Chúa và làm sinh ích cho tha nhân. Chúng ta sẽ thấy điều gì xảy đến cho Phaolô trên đường đi. Ghi chú « lên đường » sẽ cho chúng ta khám phá thêm một cấu tố của nhân cách của Phao-lô ; ông là con người hành trình, luôn chuyển động, tóm lại : một tông đồ đăng trình.
Phaolô đã gặp Chúa Giêsu trên đường, ông đã không rời bỏ lộ trình bao giờ nữa. Ông liên tục hành trình, di chuyển, đi về phía trước, đi tới, vạch kế hoạch, tiếp tục loan báo Tin Mừng đến mút cùng trái đất.
Kinh nghiệm về sự hoán cải của Thánh Phaolô hướng chúng ta lên Thập giá của Đức Kitô và cuộc Phục Sinh của Người. Ở đó, chúng ta sẽ nhận được ánh sáng của Sự Thật – Tình Thương, không ngừng “chiếu xuống” mỗi người chúng ta và giữa lòng Hội Thánh.
Một khi đã gắn bó với Đức Kitô, chúng ta biết đặt Ngài làm mục tiêu tối hậu trong cuộc chinh phục tâm linh. Biết sống cho giây phút hiện tại bằng niềm tin tuyệt đối: Thiên Chúa sẽ hành động ! Như lời Thánh Phaolô đã chia sẻ: “Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước. Tôi chạy thẳng tới đích, để chiếm được phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa đã dành cho kẻ được Người kêu gọi trong Đức Kitô Giêsu” (Pl 3, 13-14).
Sống theo gươngThánh Phaolô, chúng ta sẽ lạc quan trên hành trình tìm Chúa. Đó là con đường lâu dài và và thử thách, để từ đó, ta có thể khám phá Thiên Chúa và ý định của Ngài qua những dấu chỉ trên bản thân và cộng đồng. Vấn đề là, ta hãy để cho Thiên Chúa hành động và mau mắn đáp trả tích cực lời mời gọi sống đời chứng nhân Tin Mừng.