2022
Thực Hành Lời Chúa
19.7 Thứ Ba trong tuần thứ Mười Sáu Mùa Quanh Năm
St 7:14-15,18-20; Tv 85:2-4,5-6,7-8; Mt 12:46-50
Thực Hành Lời Chúa
Mỗi tác giả Tin Mừng đều có một lối giải thích về thái độ của Chúa Giêsu đối với gia đình của Ngài, và sự khẳng định về tình liên đới của Ngài đối với gia đình thiêng liêng gồm những ai thực thi ý Chúa. Ðối với thánh Marcô, thái độ của Chúa Giêsu được tỏ ra sau khi Chúa chọn Nhóm Mười Hai. Trong Nhóm Mười Hai đã có một cuộc tranh cãi sôi nổi về chuyện ai sẽ được ngồi bên tả hay bên hữu Chúa Giêsu; những người có họ hàng với Ngài dĩ nhiên nuôi nhiều hy vọng hơn. Chính trong bối cảnh đó, Chúa Giêsu khẳng định trong Nước Ngài, quan hệ máu mủ ruột thịt không quan trọng bằng niềm tin; gần gũi với Ngài không đương nhiên là bà con ruột thịt, mà chính là những ai thực thi ý Chúa.
Trong Tin Mừng Luca, thì thái độ của Chúa Giêsu đối với gia đình ruột thịt của Ngài được ghi lại như một kết luận của toàn bộ những lời giảng dạy của Ngài về Nước Chúa, cũng như những điều kiện để thuộc về Nước Chúa. Như vậy, đối với Luca, chỉ có việc lắng nghe và thực thi Lời Chúa mới thực sự làm cho con người được đi vào quan hệ mật thiết với Chúa Giêsu.
Trình thuật Tin Mừng hôm nay xem chừng thật khó hiểu trong bối cảnh nền văn hóa Việt Nam. Với văn hóa người Việt chúng ta, chữ hiếu luôn được đặt lên hàng đầu “Trai thời trung hiếu làm đầu, gái thời tiết hạnh làm câu trau mình”, và do đó, thái độ thiếu tôn trong với người lớn hơn, nhất là bậc sinh thành của mình thì thật khó mà chấp nhận được.
Nếu xét ở khía cạnh văn hóa ấy, thì Đức Giêsu trong trình thuật hôm nay thật là một điều khó chấp nhận. Có vẻ như Ngài thiếu sự tôn trọng, thiếu sự lễ độ và lòng tôn kính đối với thân mẫu của mình. Trình thuật kể rằng: Đang khi Chúa Giêsu giảng dạy cho đông đảo dân chúng, thì có mẹ Maria và các anh em bà con (Mt 13,55) của Ngài đến tìm, nhưng họ không sao lại gần Ngài được vì những kẻ đến nghe Ngài giảng dạy quá đông.
Do đó, có một người ngồi gần Chúa Giêsu đã thông báo cho Ngài biết về sự hiện diện của mẹ và để người có thể ra ngoài gặp họ. Nhưng thật lạ lùng, thay vì Chúa Giêsu nói, “ồ, tôi cám ơn anh đã thông tin” hay đại loại là “cám ơn anh” và thậm chí Ngài chỉ cần gật đầu để để xác nhận tin báo cũng đủ. Thế mà, mọi người như ngỡ ngàng,… ánh mắt Chúa Giêsu rảo quanh nhìn đám đông đang ngồi quanh mình, rồi cao giọng nói với họ và người đưa tin “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?”. Nghe lời ấy, nếu chúng ta đang hiện diện ở đó, chắc hẵn ta cũng sẽ tỏ vẻ khó chịu với Ngài, bởi có cái gì đó thiếu lễ độ và ý nhị. Vì lẽ, ta nghĩ, sao ông này vô duyên đến thế, người ta thông báo không cám ơn thì thôi, lại còn tỏ ra khó chịu và thiếu lễ độ với thân nhân mình và người khác.
Ðoạn Tin Mừng hôm nay là phần kết luận của trình thuật về cuộc chiến đấu giữa thần khí Chúa và thần khí ma quỉ. Ma quỉ vốn làm cho con người ra câm điếc đối với Lời Chúa; do đó, như người câm được Chúa Giêsu chữa lành, con người cũng cần phải được tháo cởi khỏi xiềng xích của ma quỉ mới có thể lắng nghe được Lời Chúa và thần khí của Ngài. Ðức Maria chính là mẫu mực của con người không hề bị giam hãm trong xiềng xích của ma quỉ. Mẹ luôn luôn lắng nghe và đáp trả Lời Chúa. Chính vì lắng nghe Lời Chúa mà Mẹ đã cưu mang Con Chúa; nơi Mẹ, quan hệ máu mủ ruột thịt với Chúa Giêsu được xây dựng trên chính thái độ lắng nghe Lời Chúa; Mẹ chỉ là Mẹ Chúa Giêsu, bởi vị Mẹ đã lắng nghe Lời Chúa.
Chúa Giêsu đã đề cao thái độ của Mẹ Maria, để từ đó nói lên mối giây liên kết đích thực trong gia đình Giáo Hội mà Ngài sẽ thiết lập. Hầu hết các tôn giáo đều dựa trên gia đình như là cộng đoàn nền tảng nhất. Truyền thống khôn ngoan và luật Do Thái luôn đề cao tầm quan trọng của gia đình. Chúa Giêsu xem ra đã làm một cuộc cách mạng táo bạo khi xây dựng tôn giáo của Ngài, không dựa trên mạng lưới những quan hệ gia đình, mà trên nền tảng của sự tự do. Trong gia đình Giáo Hội, con người trở nên thân thiết với nhau, không nhất thiết nhờ máu mủ ruột thịt, mà do chính niềm tin.
Dĩ nhiên, gia đình tự nhiên vốn là nơi con người đón nhận và nuôi dưỡng đời sống đức tin; gia đình là trường học đầu tiên về cung cách làm người cũng như sự trưởng thành trong đức tin. Chúa Giêsu không bao giờ chối bỏ vai trò ấy của gia đình. Cộng đoàn xã hội, nhất là xã hội gia đình là môi trường cần thiết giúp con người đón nhận và phát huy đức tin.
Khi đề cao thái độ lắng nghe và thực thi Lời Chúa của Ðức Maria, Chúa Giêsu muốn chúng ta thấy rằng đức tin là sự gặp gỡ cá biệt giữa con người với Thiên Chúa, đó là cuộc gặp gỡ của mỗi người mà không ai có thể thay thế được. Càng sống Lời Chúa, càng đi sâu vào sự thân tình với Chúa, con người càng nhận ra tương quan của mình với tha nhân. Hai giới răn mến Chúa và yêu người gắn liền mật thiết với nhau là thế đó: người yêu mến Chúa một cách nồng nàn không thể không yêu thương người anh em của mình, trái lại, lòng bác ái đối với tha nhân cũng không thể không làm cho con người thêm gần gũi với Chúa hơn.
Ta chỉ dựa vào mấy câu Tin mừng ngắn ngủi để xét đoán Chúa Giêsu e là không công minh lắm. Chúng ta cần đặt đoạn Tin mừng này trong bối cảnh của chương 11-12-và 13, khi Chúa Giêsu đang rao giảng cho dân chúng về mầu nhiệm Nước Trời, mà ở vương quốc ấy không còn sự phân biệt bà con ruột thịt theo kiểu thế tục của trần gian, nhưng tất cả đều là anh chị em với nhau, con của một Đấng duy nhất là Thiên Chúa. Như thế, ta thấy Chúa Giêsu đã tận dụng rất tốt, rất tinh tế cơ hội có một không hai này, để nói cho dân chúng biết về mối hiệp thông trong Thiên Chúa, tức là vương quốc Nước Trời, một gia đình thiêng liêng vĩnh cửu. Ở gia đình thiêng liêng này, mối hiệp thông ruột thịt bị lu mờ đi xem như không có, để làm nổi bật lên một mối hiệp thông siêu nhiên, nơi mà mọi liên lạc đều được xây dựng trên ý của Thiên Chúa.
Hiểu như vậy, chúng ta sẽ thấy thật tự hào, thật hạnh phúc với lời của Chúa Giêsu: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi.” Ngài đang nhìn, đang nói với chính mỗi người chúng ta rằng: anh – chị – em là anh là chị là em của tôi. Tất cả những ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa thì kẻ ấy chính là bà con thân thuộc với Ngài, chính là mẹ và là anh em của Ngài. Còn gì hạnh phúc bằng khi nghe một vị Thiên Chúa nói với chính mình như thế.
Trở về với cuộc sống của mình, đôi lúc chúng ta quá bận tâm với các mối quan hệ ruột rà “một giọt máu đào hơn ao nước lã”, mà quên mất anh chị em xung quanh mình, nhất là những người tin vào Chúa Giêsu là Chúa thì có cùng với chúng ta “huyết nhục thần linh”. Do vậy, chúng ta luôn tìm mọi cách để bảo vệ cho quyền lợi những người thân của mình, những người ta yêu mến và dễ dàng làm tổn hại đến lợi ích kẻ khác mà quên mất sự liên đới thần linh và tính công bằng bác ái.
Ước gì sự ý thức về gia đình thiêng liêng trong Chúa, chúng ta sẽ sống mối tình liên đới tốt lành với hết thảy mọi người trong đời sống và công việc hằng ngày, bởi trong Chúa, họ chính là anh chị em với Chúa Giêsu, là và anh chị em với chính ta. Lạy Chúa, xin chúc lành và trợ lực cho mỗi chúng con. Amen!
Ước gì chúng ta biết chạy đến với Ðức Maria như mẫu gương của lắng nghe và thực hành Lời Chúa; chạy đến với Người như người Mẹ thân thương của mỗi người, chúng ta cũng hãy đón nhận tha nhân như người anh em trong cùng một gia đình của Chúa.
2022
Dấu lạ
18.7 Thứ Hai trong tuần thứ Mười Sáu Mùa Quanh Năm
St 6:1-4,6-8; Tv 50:5-6,8-9,16-17,21,23; Mt 12:38-42
Dấu lạ
Những người biệt phái không nhận Chúa Giêsu là Messia vì họ cố chấp, nhưng họ viện cớ là vì họ không thấy dấu lạ. Chúa Giêsu kể lại cho họ dấu lạ tiên tri Giona ở trong bụng cá ba ngày. Qua lời giảng của tiên tri Giona, dân thành Ninivê đã hối cải. Cũng vậy, Chúa Giêsu sẽ đi vào lòng đất, vào cái chết và Phục sinh vinh quang, để đem lại ơn cứu độ cho những ai tin vào Người, cụ thể là cho những người biết ăn năn thống hối và sống theo Lời Chúa trong từng giây phút của cuộc sống. Còn họ thì Chúa cho biết đến ngày phán xét họ sẽ bị xét xử rất nặng.
Người Việt Nam chúng ta có câu: “Bụt nhà không thiêng”. Câu nói ấy hàm ý rằng: những người ở gần và sống bên cạnh chúng ta, dù họ có tốt và làm được nhiều chuyện lành thánh thì cũng chẳng có gì phải quan tâm, và những lời họ nói cũng chẳng cần phải tin. Một lý do đơn giản là: “Gần chùa gọi Bụt bằng anh”.
Chúa Giêsu làm nhiều phép lạ, và dân Do thái đã được thấy những phép lạ ấy. Những người biệt phái và luật sĩ cũng đã được chứng kiến những phép lạ ấy, nhưng họ vẫn không tin Ngài là Đấng Messia Thiên Sai. Hôm nay họ còn muốn thách thức Chúa đòi Chúa làm một dấu lạ để chứng tỏ Ngài là Đấng Messia. Chúa không chấp thuận yêu cầu của họ, trái lại, Ngài phàn nàn về thái độ cố chấp của họ bằng hai câu chuyện: tiên tri Giona và nữ hoàng Saba.
Nhắc lại chuyện Giona ngày xưa, nhằm lưu ý họ rằng: Ngày xưa dân thành Ninivê chỉ nghe lời rao giảng miễn cưỡng của tiên tri Giona. Vậy mà cả thành từ vua đến dân, từ già đến trẻ, từ người đến súc vật đều ăn chay sám hối và khấn xin sự tha thứ của Chúa. Vậy mà hôm nay có Người còn hơn Giona, Đấng mà thánh Gioan Tẩy giả loan báo đã đến và rao giảng, vậy mà họ không để tâm ăn năn hối cải. Thật đáng buồn.
Chúng tôi muốn Thầy làm một dấu lạ”(Mt 12,38)
Nhiều lần chúng ta cũng mong Chúa làm một phép lạ vĩ đại và tỏ tường. Chẳng hạn hiện ra trước mắt nhiều người, và nếu thấy những dấu lạ vĩ đại ấy thì mọi người sẽ tin thờ Chúa.
Thực ra, Chúa thừa sức làm những dấu lạ như thế. Nhưng nếu làm thế sẽ là một áp lực, một bó buộc, khiến người ta phải tin thờ Ngài. Và con người sẽ không còn tự do, Chúa không còn là một Thiên Chúa yêu thương mời gọi nữa.
Quả thật, ngay trong cuộc sống đã có rất nhiều dấu chỉ, nhưng vấn đề là chúng ta có thể đọc ra ý nghĩa của những dấu chỉ xảy ra hằng ngày trong cuộc sống của mỗi người chúng ta hay không. Rất nhiều lần chúng ta sống chẳng khác gì những người mà Kinh thánh nói: “Có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe, có trí mà không hiểu”.
Trong cuốn sách nổi tiếng rất quen thuộc với chúng ta có tựa đề “Phép lạ trong những cái thường ngày” tác giả đã đưa ra những tư tưởng, những lời khuyên rất sâu sắc và thiết thực, làm mẫu mực cho những suy tư và tâm tình sống của chúng ta. Có lẽ ai trong chúng ta cũng đồng ý với ý tưởng của tác giả.
Một khi chúng ta nhìn tha nhân và thế giới quanh ta với cái nhìn trong sạch, một khi đã cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời của ta, thì không có gì là không giúp chúng ta nhận ra sự quan phòng của Chúa… Chúa luôn can thiệp trong mọi giây phút của cuộc đời chúng ta. Phần chúng ta, chúng ta có sẵn sàng hay có đủ kiên nhẫn và khiêm nhường để nhận ra sự can thiệp của Ngài không. Hãy nhắm mắt lại và để tâm quan sát mọi cơ phận của ta cũng như mọi hoạt động, những chuyển động đang diễn ra trong ta và trong thế giới chúng ta đang sống, với sức sống của muôn loài thọ tạo. Từ cái to lớn vĩ đại nhất đến cái vi phân tử, rồi niềm tin, tư tưởng, ý nghĩ, tâm tư tình cảm của con người, đâu đâu chúng ta cũng gặp thấy quyền năng và sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa. Tất cả những điều kỳ diệu đó là gì nếu không phải là những phép lạ trong cuộc đời của chúng ta.
Chúa vẫn không ngừng mặc khải về Chúa cho chúng ta, vậy mà cuộc sống của chúng ta chưa biến đổi, hoặc chỉ biến đổi một phần nào đó mà thôi. Khi nhận ra sự thật về Thiên Chúa, chúng ta phải cảm nhận được hành động của Chúa đang diễn ra trong cuộc đời của mỗi người chúng ta. Khi biết và cảm nhận thực sự về Chúa, chúng ta mới có thể quyết tâm biến đổi cuộc đời cho phù hợp với tình yêu thương bao la của Chúa đã dành cho chúng ta.
Chúa ít khi làm dấu lạ, nhưng thích ban dấu chỉ. Những dấu chỉ kín đáo, đơn sơ là những tiếng mời gọi nhẹ nhàng và yêu thương. Và những dấu chỉ như thế có rất nhiều. Chỉ cần chúng ta biết mở mắt và mở lòng ra là có thể nhận thấy được ngay thôi.
Mãi mãi Thiên Chúa chỉ đến với con người qua dấu chỉ của tình yêu. Người Kitô hữu luôn được mời gọi để nhận ra những dấu chỉ yêu thương ấy trong cuộc sống của mình, không những qua những chúc lành và may mắn, mà còn qua những mất mát, khổ đau thua thiệt nữa. Nhận ra những dấu chỉ yêu thương của Thiên Chúa trong cuộc sống, người Kitô hữu cũng được mời gọi để trở thành những dấu chỉ yêu thương của Ngài cho mọi người chung quanh. Trở thành dấu chỉ yêu thương có nghĩa là chấp nhận sống vâng phục và vâng phục cho đến chết như Chúa Giêsu. Trở thành dấu chỉ yêu thương giữa tăm tối của cuộc sống, giữa đọa đày bách hại, người Kitô hữu vẫn tiếp tục chiếu sáng trong tín thác, yêu thương, phục vụ, tha thứ.
2022
Người Tôi Trung Hiền Lành
16.7 Thứ Bảy trong tuần thứ Mười Lăm Mùa Quanh Năm
St 2:1-5; Tv 10:1-2,3-4,7-8,14; Mt 12:14-21
Người Tôi Trung Hiền Lành
Chúa Giêsu biết rõ những người Biệt Phái ghen ghép và mưu hại Ngài, Ngài đã kín đáo rời khỏi miền Galilê để tiếp tục sứ mệnh của Ngài tại nhiều nơi khác, Ngài còn cấm những kẻ theo Ngài không được tiết lộ cho thiên hạ biết Ngài là ai. Thánh Mátthêu đã nhận ra trong sự kiện này lời tiên tri Isaia đã ứng nghiệm, như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay.
Người là ai, mà “nhóm Pha-ri-sêu bàn bạc tìm cách giết”? Người là ai, mà “dân chúng theo đông đảo” và được chữa lành? Người là ai, mà ngôn sứ Isaia đã báo trước với hình ảnh Người Tôi Trung của Thiên Chúa, được Thiên Chúa yêu thương và rất mực hài lòng? Thưa, Người là Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng thực thi sứ mạng cứu thế qua hình ảnh Người Tôi Trung khiêm tốn, hiền hòa: “không cãi vã, không kêu to” và đầy lòng nhân hậu: “cây lau bị giập, Người không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi.” “Cho đến khi Người đưa công lý đến toàn thắng và muôn dân đặt niềm hy vọng nơi danh Người.”
Ðấng Thiên Sai là Con Thiên Chúa. Thần Khí Thiên Chúa luôn ngự trên Ngài, nhưng theo lời tiên tri Isaia, khi Ngài xuất hiện thì đây là dấu để nhận ra Ngài; một con người hiền lành và khiêm nhường thật trong lòng, Ngài không cãi vả, không la lối, Ngài không bẻ gẫy cây sậy đã dập, không dập tắt tim đèn còn khói. Ðó chính là lòng nhân từ kiên nhẫn, xót thương của Chúa. Nhưng Ngài hiền lành không phải để buông xuôi, mà là để thâm nhập tâm hồn con người, cho đến lúc sự công chính được toàn thắng và muôn dân nước đều hy vọng vào Ngài.
Thật ra, trong suốt cuộc sống tại thế và cho đến hôm nay, Chúa Giêsu vẫn kiên nhẫn chờ đợi với hy vọng mọi người trở về với Ngài để được cứu thoát. Chẳng hạn với người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, một thứ tội phải bị ném đá, Chúa Giêsu chỉ nói: “Tôi cũng không kết án chị, chị hãy về đi và từ nay đừng phạm tội nữa”. Ngài luôn quả quyết: “Tôi đến để kêu gọi người tội lỗi ăn năn trở lại”, và thực tế, Ngài đã chữa lành những kẻ bị coi là tội lỗi và bị xã hội ruồng bỏ.
Trong đời sống gia đình ngày nay, một điều khiến người ta trăn trở và đắn đo không ít, đó là kiếm tìm sao được một “Ô sin” trung thành, không phản hoặc bán chủ, không phá hoại hạnh phúc gia đình, luôn quan tâm săn sóc chu đáo mọi công việc… Hôm nay, Thánh sử Matthêu giới thiệu cho chúng ta một người Tôi Tớ trung thành của Thiên Chúa được nói đến trong Cựu Ước. Vì Thánh sử nhằm viết Tin Mừng cho người Do Thái và họ đang mong chờ một Đấng Mêsia, Đấng mà mọi sấm ngôn của Cựu Ước đều ứng nghiệm nơi Ngài. Chúng ta hãy nhìn xem người Tôi Tớ mẫu này.
Mở đầu bài Tin Mừng là một lời cảnh cáo, đe dọa “Ra khỏi hội đường, nhóm Pharisêu bàn bạc tìm cách giết Chúa Giêsu” (c.14) vì Chúa Giêsu đã chữa người bại tay trong ngày sabat, một ngày mà theo luật Môsê không được làm bất cứ công việc gì, dù là chữa bệnh. Thánh sử nói tiếp “biết vậy, Chúa Giêsu lánh khỏi đó” (15a).
Đây là sự khôn ngoan của người rao giảng Tin Mừng: bị bắt ở thành này trốn sang thành nọ, để Tin Mừng được nuôi dưỡng và sống động. Các người cầm quyền thì tìm cách bắt giết Chúa Giêsu, còn dân chúng thì lũ lượt đi theo Ngài và Ngài đã chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền của họ. Chúng ta thấy thái độ hồ hởi, ủng hộ của dân chúng trái ngược với lòng thù hằn, ghen ghét của các nhà lãnh đạo tôn giáo. Chúa Giêsu tránh né nhóm Pharisiêu, nhưng Ngài cũng không hài lòng về thái độ của dân chúng. Ngài cấm họ không được tiết lộ Ngài là Đấng Mêsia: Tôi Trung của Thiên Chúa như trong sách Isaia đã nói: Đây là một bức tranh đẹp cho những nhà truyền giáo: Một Đấng Mêsia khiêm tốn, âm thầm, giản dị, hòa đồng, thương cảm người nghèo khổ.
Người Tôi Trung: được tuyển chọn – Người yêu dấu – làm hài lòng chủ nhân (c.18a). Đọc câu này ta thấy một tương quan tốt đẹp giữa chủ nhân và người Tôi Tớ trung thành này. Người Tôi Tớ hết lòng hết sức với chủ, còn chủ nhân yêu mến, tuyển lựa và rất hài lòng về người Tôi Tớ của mình. Người Tôi Tờ này được ban Thần Khí.
Sứ mệnh của Người là loan báo công lý cho mọi người, nghĩa là ra đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời, Người không cãi vã nói lên tính hiền lành, không kêu to là sự âm thâm khiêm tốn. Danh Ngài không được biết đến nơi phố xá, đô thị. Nhưng Ngài có một lòng thương xót vô bờ bến, nâng đỡ và thương cảm ngay cả những kẻ chống đối, thù nghịch với mình “cây lau bị giập, không đành bẻ gãy; tim đèn leo lét chẳng nợ tắt đi”. Nói tóm lại, người Tôi Trung dùng chính tình yêu thương và lòng khiêm tốn mà loan báo Tin Mừng Nước Trời, làm cho Nước Cha trị đến trên toàn thế giới này. Điều đó đem lại niềm hy vọng cho Israel nói riêng và toàn dân trên mặt đất này nói chung, mỗi khi kêu cầu danh Thánh Ngài.
Người loan báo Tin Mừng hôm nay cần soi chiếu đời mình và cung cách rao giảng theo Người Tôi Trung mẫu này. Phần đông chúng ta vẫn còn thái độ “cha chú” hay tỏ ra “oai phong lẫm liệt” khiến cho Tin Mừng của Đức Kitô không thấm sâu vào lòng người nghe, khiến hình ảnh của Người Tôi Trung bị lệch lạc, méo mó. Bên cạnh đó, có một số nhà truyền giáo đã lao mình vào đoàn chiên, đã “bắt mùi” của chiên và họ đã giúp chiên nhận ra tiếng Tình Yêu và đi theo. Họ là những mục tử tốt lành sống chết cho đoàn chiên, ngăn chặn các sói dữ và nhất là họ có một lòng yêu thương, chăm sóc chữa trị từng con chiên.
Lời Chúa hôm nay một lần nữa cho thấy ơn cứu rỗi ở tầm tay chúng ta: được cứu rỗi hay không là do chúng ta, vì Chúa vẫn kiên nhẫn và ban ơn đầy đủ, chỉ cần chúng ta thành tâm trở về với Ngài. Người trộm lành chỉ trong giây phút hướng tâm hồn về Chúa và tin tưởng nơi Ngài, đã được Chúa hứa cho ở trên Thiên Ðàng với Chúa ngay hôm đó. Còn Giuđa đã thất vọng đến chỗ tự vẫn, thì đó là dấu chưa hiểu lòng Chúa thương yêu bao la đến mức nào.
2022
LÒNG NHÂN
15.7 Thánh Bonaventure, Gmtsht
Is 38:1-8,21-22; Is 38:10-11,12,16; Mt 12:1-8
LÒNG NHÂN
Ai cũng biết lòng nhân trọng hơn lễ vật nhưng lắm kẻ vẫn thích dùng lễ vật để “khuynh đảo” lòng nhân, khiến lòng nhân phải nghiêng ngửa! Hằng ngày chúng ta nghe nói đến biết bao nhiêu vụ tham nhũng hối lộ động trời xảy ra trên mọi lĩnh vực. Tiếp theo đó là biết bao việc làm sai trái được nhắm mắt làm ngơ. Hậu quả là những người thấp cổ bé miệng phải gánh chịu những bất công. Ôi! Phải chi người ta biết trọng lòng nhân hơn lễ vật thì đâu có chuyện người vô tội bị áp bức bất công! Một khi lễ vật bị đặt sai chỗ, bị dùng để mua chuộc, lấy lòng nhau thì lòng nhân sẽ không còn là lòng nhân nữa mà chỉ còn bất nhân.
Tin Mừng hôm nay nằm trong phần đầu của chương 12. Một chương nói nhiều về luật ngày Sabát : không được làm việc trong ngày sabát, ngay cả khi đó là một công việc tốt cho tha nhân. Kế đó, Chúa Giêsu cũng tỏ lộ Người là tôi trung của Thiên Chúa qua việc tiên báo dấu lạ ngôn sứ Giôna. Nhưng người pharisiêu cho rằng Chúa Giêsu dùng quyền lực ma quỷ khi Người xua trừ thần dữ. Chúa Giêsu kết luận : nếu tư tưởng và trong thâm sâu cõi lòng con người chứa đầy sự xấu xa, thì ắt sẽ tràn ra bờ môi, thể hiện trong lời nói và hành động. Cuối chương 12, Chúa Giêsu khẳng định : Ai thi hành ý Chúa Cha, người đó sẽ thuộc về gia đình Chúa Giêsu, thuộc dòng dõi Thiên Chúa… Nhưng ở đây, tôi chỉ xin chia sẻ một khía cạnh khác ngoài cụm từ “ ngày sabát” nổi cộm ở trên, đó là Lòng Nhân của Thiên Chúa.
Mở đầu bài Tin Mừng chỉ vỏn vẹn trong một câu mà thánh sử đã giới thiệu về: thời điểm “ngày sabát”, về các nhân vật “Chúa Giêsu và các môn đệ”, về địa thế “một cánh đồng lúa” và sự kiện “đói, bứt lúa ăn”. Cùng một vấn đề mà Chúa Giêsu và người Pharisiêu có những quan điểm đối nghịch. Người Pharisiêu nói với Chúa Giêsu “ các môn đệ của ông đã làm điều không được phép”, nghĩa là: các ông ấy đã vi phạm luật; phần ông là thầy của họ, ông đã không dạy đồ đệ của mình giữ luật cho thật tốt. Họ kể cho Chúa Giêsu nghe lỗi của các môn đệ nhưng đồng thời muốn “dằn mặt” ông thầy về việc tuân giữ luật lệ tổ tiên.
Vào lúc này, Chúa Giêsu mới mở tâm trí cho họ hiểu ý nghĩa những điều đã viết trong Sách Thánh, sách mà họ đọc hàng ngày, sách mà họ đeo nơi tua áo, mang vác trên người “các ông chưa đọc trong sách sao? Ông Đavít đã làm gì khi ông và thuộc hạ đói bụng?”. Chúa Giêsu đã dẫn chứng một trường hợp cụ thể, rất gần với hiện trạng đói bụng của các môn đệ. Người nói : “Đavít vào nhà Thiên Chúa và cùng thuộc hạ ăn bánh tiến, thứ bánh chỉ dành riêng cho tư tế mà thôi”.
Thật thế, do lòng nhân từ của Thiên Chúa, Ngài không thể chịu được nỗi khốn cùng của kẻ Ngài tuyển chọn. Họ ăn bánh tiến, họ đã bứt lúa, chỉ vì… họ đói. Ở đây, Chúa Giêsu thể hiện gương mặt Thiên Chúa nhân từ, Người muốn trở nên giống anh em mình trong mọi sự, để cảm nghiệm sự khốn cùng của kẻ mà Người cứu vớt. Vì thế, lời nói và dẫn chứng của Người cũng là cách phô diễn lòng nhân từ của Thiên Chúa, mà đối tượng Chúa ưu đãi luôn là người nghèo. Như thế, tình thương Chúa lan tràn và bao trùm mọi người, không phân biệt, không loại trừ và ơn cứu độ tuôn đổ dồi dào trên khắp mặt đất.
Ở câu 5, Chúa Giêsu còn dẫn chứng rằng “ Trong ngày sabát, các tư tế trong đền thờ vi phạm luật mà không mắc tội”. Người tỏ lộ quyền năng của một vị Thiên Chúa “ở đây còn lớn hơn Đền Thờ và Người làm chủ ngày sabát, làm chủ luật lệ…”. Nếu Đền Thờ là nơi Thiên Chúa ngự, là chỗ con người tụ họp thờ phượng và tạ ơn Thiên Chúa; còn luật lệ là kim chỉ nam hướng dẫn con người tôn thờ Thiên Chúa cho tốt, biết cách đối xử với nhau bằng tình yêu… thì cớ gì Đền Thờ là nơi chúng ta bị “bắt lỗi” hay bị trừng phạt ? Còn luật lệ lại trở thành sợi dây ích kỷ trói buộc tình yêu tha nhân, biến con người trở nên những cỗ máy vô cảm trước sự đói khổ của anh em đồng loại? Chúa Giêsu nhấn mạnh cho họ điều cốt lõi của luật, đó là: Thiên Chúa muốn lòng nhân, chứ không cần lễ tế.
Vua Đavít đã cảm nhận lòng nhân từ của Thiên Chúa qua thánh vịnh 50: “Lạy Thiên Chúa, Xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, Mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm..”và thánh vương đã xin được “rơi vào tay Giavê còn hơn là vào tay con người, vì Giavê có lòng nhân từ vĩ đại..” (2 Sm 24, 14). Phải, điều Thiên Chúa muốn chính là người ta phải vâng giữ giới luật “tình yêu huynh đệ” hơn cả hy lễ toàn thiêu và lễ xá tội (Hs 4, 2) và khi thực hành đức công chính, là ta hoàn tất bằng một tình yêu âu yếm (Mk 6, 8).
Thiên Chúa là Đấng nhân từ và Ngài cũng đòi hỏi con người cần có lòng thương cảm lẫn nhau “anh em hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ”.
Đó cũng là điều kiện cần thiết để vào Nước Trời. Tình thương ấy như người Samaritano tốt lành, đến gần và giúp đỡ người khốn khổ, dù không quen biết (Lc 10, 30-37); tình thương ấy là tha thứ cho người đã xúc phạm đến mình (Mt 18, 23-35), chỉ vì tôi được Thiên Chúa thương xót và tình yêu của Thiên Chúa chỉ có nơi những người thực thi Lòng thương xót (1Ga 3, 17)
Quả thật, nhiều người giữ đạo một cách máy móc. Họ tham gia đầy đủ các nghi lễ, tuân thủ mọi quy định, đóng góp mọi điều khoản. Họ tự hào vì giữ đạo một cách sốt sắng nhiệt tình, và bởi thế, họ chỉ trích những ai không giữ đạo như họ. Đó không phải là đạo thật. Họ chỉ giữ hình thức bên ngoài mà không hiểu ý nghĩa bên trong, giống như những người Pharisêu thưở xưa.
Chúa mời gọi chúng ta hãy hướng về Chúa với một con tim đơn sơ chất phác, Người thích đón nhận tâm hồn hơn là những lời kinh, Người thích chúng ta trao dâng tình yêu hơn là những việc thờ phượng trống rỗng. Người muốn chúng ta yêu thương giúp đỡ tha nhân hơn là tuân thủ lề luật một cách cứng nhắc.
Cũng nhân dịp này Chúa Giê-su hướng họ đến một vấn đề quan trọng mà việc này không nằm nơi việc tuân giữ lề luật một cách câu nệ;. Đó là tấm lòng chân thành, đơn sơ, nhân nghĩa; Đây là của lễ cao trọng, có thể thay thế mọi của lễ khác mà dâng lên Thiên Chúa “ Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần của lễ.”