2022
Cỏ Lùng và Lúa
23.7 Gr 7:1-11; Tv 84:3,4,5-6,8,11; Mt 13:24-30
Cỏ Lùng và Lúa
Trong bài Tin Mừng Âm hôm nay, Thánh sử Mat-thêu kể lại Chúa Giê-su đã dùng dụ ngôn về nước Trời và Ngài đã dùng hình ảnh rất gần gũi với dân chúng là cây lúa và cỏ lùng trong cùng một thửa ruộng. Cây lúa là cây sinh ra lợi ích cho loài người, mang tính tượng trưng cho người lương thiện. Còn cỏ lùng, một loài cây cũng có dáng dấp và sự tăng trưởng tương tự cây lúa. Chúng chỉ khác đi là không những không sinh hoa trái có lợi cho con người, mà còn làm tổn hại cây lúa xung quanh nó. Một hình ảnh mới nghe qua thì hầu như ai cũng có thể nghĩ ngay đến việc người thợ sẽ phải tức khắc bỏ công ra tìm cách dọn nhổ loài cỏ ấy trong đám ruộng của mình.
Thiên Chúa toàn Chân toàn Thiện toàn Mỹ, đã tạo dựng ra loài người và khởi đầu con người là sự tốt đẹp. Ngài để cho con người tự do trong cuộc sống. Tâm tính của mỗi người phát triển theo tâm sinh lý và môi trường chung quanh cùng với thời gian. Các tâm hồn ấy là những mảnh ruộng chờ sinh lợi hoa trái. Nhưng theo dòng đời trong tâm hồn có thể bị biến đổi, bị biến dạng bởi những điều xấu, như cây lúa tốt lành đã được gieo trồng bị giống cây cỏ lùng chen lấn.Thế nên, trong xã hội có những người có tâm tính tốt lành, nhưng đồng thời có những kẻ thâm hiểm, độc ác.
Mặt khác, trong lời thuật dụ ngôn Thánh Mat-thêu cho thấy, cỏ lùng được gieo trong lúc mọi người đang ngủ, điều này nhắc nhở chúng ta luôn cần khiêm nhường nhìn lại mình, vì sự chủ quan của mình không dễ gì nhận ra khiếm khuyết của bản thân, hoặc có nhận ra, thì lại tìm những lý lẽ tự bào chữa, quên đi mảnh ruộng tâm hồn mình đã dần nhiều cỏ hơn lúa. Về khía cạnh giáo dục cũng thế, các bậc phụ huynh, bấy lâu nay có quan tâm chặt chẽ đến các trẻ thơ, thiếu nhi ? Đấy là những mảnh đất màu mỡ mà những điều xấu xa luôn được lén lút gieo trồng và phát triển nếu cha mẹ lơ đãng, kém tỉnh táo thì hậu quả thật khôn lường.
Dụ ngôn cũng cho thấy sự kiên nhẫn và lòng bao dung của Chúa. Chúa kiên nhẫn đợi cho đến ngày tận thế phân loại lúa và cỏ lùng. Chúa kiên nhẫn chờ mong những người tội lỗi ăn năn sám hối. Chúa rộng lượng tha thứ không nỡ trừng phạt người tội lỗi tức khắc. Chúa yêu thương, tin tưởng người xấu sẽ có ngày hoán cải nên tốt. Nếu như lời người đầy tớ trong Phúc Âm, điển hình cho tâm lý chung của loài người, nói thì Chúa trừng phạt ngay những kẻ xấu, còn đâu Kẻ trộm lành, các thánh như Ma-đa-lê-na, Au-gut-ti-nô, …và ngay cả chính ta, có thể cũng không thoát khỏi sự trừng phạt do cái xấu còn tồn tại, do cỏ lùng nhiều hơn lúa trong ta.
Dụ ngôn cho ta hiểu tất cả là hồng ân của Chúa. Có sự tốt lành để ta hiểu biết và yêu mến Thiên Chúa nhân lành.
Có những sự dữ để ta không phán xét anh em nhưng là để khiêm nhu nhìn lại chính mình, cần ta “thật sự cải thiện lối sống và hành động” như trong bài đọc 1, tiên tri Giê-rê-mia .Chỉ có tình yêu mãnh liệt mới làm Chúa kiên nhẫn chờ đợi sự đổi thay nơi tâm hồn thay đổi từ sự lành ra sự dữ. Chúa không vội trừng phạt vì sự không đón tiếp khi đi qua làng Sa-ma-ri-a như lòng mong muốn nóng nảy của Gioan và Gia cô bê. Chúa không ngoảnh mặt với một Phê-rô chối từ Ngài. Nhưng Ngài trông đợi thật sự cải thiện lối sống và hành động.
Chúa dạy chúng ta bài học yêu thương.“Anh em hãy yêu thương nhau như thầy đã yêu thương anh em”.(Ga 13, 34)
Chúng ta hãy tập yêu thương mọi người, nhất là những người đang sống xung quanh chúng ta, cố gắng nghĩ tốt về họ, nói tốt về họ, tập quên đi những sai sót của họ như Chúa Giê-su yêu thương chúng ta. Nước Trời chỉ dành cho những người biết chiếm lấy bằng sức mạnh từ Thiên Chúa. Sức mạnh đó chính là sự kiên nhẫn, tha thứ, yêu thương, chờ đợi . . .để chúng ta đủ kiên nhẫn để chịu đựng những đau khổ mà người ác tâm gây ra cho mình. Chúng ta cần mặc lấy tâm tình yêu thương và cứu độ của Đức Giêsu : «Tôi đến không phải để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi». (Mt 9,13). Chúng ta có yêu thương họ thì mới giúp họ được và có khả năng sống với cả những người khác ý với mình. Amen .
Giáo Hội vốn không phải là một xã hội hoàn hảo. Giáo Hội tự bản chất là thánh thiện, nhưng lại gồm những con người tội lỗi, đó là ý nghĩa của dụ ngôn mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe và suy niệm hôm nay. Chúng ta có một Giáo Hội gồm nhiều vị thánh, nhưng cũng có vô số tội nhân. Những tội nhân vẫn có thể trở thành các thánh trong giây phút, còn các vị thánh thì trở nên thánh thiện hơn; các tội nhân cần sự tha thứ của chúng ta; còn các thánh thì khơi dậy sự cảm phục và quyết tâm cải hóa của chúng ta. Người Pháp thường nói: “Ðể hiểu mọi sự, thì cần phải tha thứ mọi sự”. Chúng ta luôn được mời gọi để nhìn Giáo Hội như một đoàn người đang lữ hành, trong đoàn người này, có người đang cố gắng tiến đến gần Chúa, có kẻ lại xa rời Ngài.
Dụ ngôn làm nổi bật sức sống mãnh liệt của hạt giống Nước Trời, một khi đã được Thiên Chúa gieo vãi vào thế gian này sẽ lớn lên và đơm bông kết hạt bất chấp những cản trở, phá hoại do ma quỷ là kẻ cầm đầu và gây ra mọi sự gian ác. Mặc dù đôi khi có thể bị chèn ép bởi thế lực của sự dữ, như lúa phải sống chung với cỏ lùng trong ruộng, nhưng không có sức mạnh nào có thể ngăn cản hay bóp nghẹt sức sống và sự lớn mạnh của Nước Trời. Những giá trị tốt lành của Nước Trời rồi sẽ chiến thắng trong ngày tận thế, dù trong hiện tại có thể phải trải qua nhiều khó khăn, thử thách. Tất cả đều không nằm ngoài sự quan phòng nhiệm mầu và đầy yêu thương của Thiên Chúa. Ngài thấu biết mọi sự và vẫn kiên nhẫn đợi chờ để hạt giống Nước Trời sinh hoa trái dồi dào, và được thu vào kho lẫm của Ngài trong mùa gặt sau hết.
Kinh nghiệm thực tế cuộc sống cho thấy rằng người lành kẻ dữ, người công chính và kẻ tội lỗi vẫn sống chung với nhau. Con người ta cũng thường hay thay đổi, lúc thì là lúa tốt, lúc lại là cỏ lùng… Tình trạng bấp bênh, không rõ ràng ấy chúng ta thường thấy có trong Hội Thánh, trong xã hội, trong bất cứ đoàn thể nào và trong mỗi cá nhân: hai yếu tố tốt và xấu, lành và dữ, như lúa tốt và cỏ lùng luôn luôn tranh chấp, giành giật ảnh hưởng lẫn nhau.
Bao lâu còn sống ở trần gian, không ai có thể phân định rõ ràng dứt khoát được. Nhưng đến “mùa gặt là ngày tận thế”, khi mà các “thợ gặt là các thiên thần” sẽ dễ dàng phân biệt cỏ lùng với lúa tốt. Sự dữ như cỏ lùng, dù có giống lúa đến mấy, cũng không thể lẩn tránh hoặc che dấu thân phận thật của mình trong ngày tận thế khi đứng trước sự soi xét công minh của Thiên Chúa. Và khi ấy sẽ có quyết định dứt khoát, bất di bất dịch về số phận đời đời của chúng: “Cũng như người ta thu lấy cỏ lùng, rồi thiêu đốt trong lửa thế nào, thì ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy: Con Người sẽ sai các thiên thần đi thu tất cả gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác khỏi nước Chúa, rồi ném tất cả chúng vào lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng”. Còn những người lành như lúa tốt khi phải sống chung với cỏ lùng, bị thiệt thòi, cay đắng, ngột ngạt, nhưng rốt cuộc sẽ được ân thưởng xứng đáng trong ngày sau hết: “Bấy giờ kẻ lành sẽ sáng chói như mặt trời trong nước của Cha mình” .
Làm người Kitô hữu chính là nhập cuộc vào đoàn người lữ hành ấy với cố gắng, với thiện cảm và nhất là với cảm thông. Những kẻ cuồng tín cũng giống như một vụ cháy rừng. Lửa bốc cháy và tiêu diệt cả những mầm non: lửa cần thiết cho cuộc sống, nhưng lửa cần phải được làm chủ và sử dụng vào mục đích. Yêu mến Giáo Hội là luôn thức tỉnh để nhận ra những tiêu cực và tệ đoan trong Giáo Hội. Ðó là sự thức tỉnh của thánh Phanxicô Assisiô thời Trung cổ. Thế nhưng, con đường canh tân mà thánh nhân đã chọn không phải là nổi loạn hoặc lìa bỏ Giáo Hội, mà là canh tân chính bản thân bằng cuộc sống hy sinh, từ bỏ, và nhất là cảm thông. Ðó là cách thế tốt nhất để đương đầu với cỏ lùng chen lẫn lúa tốt trong cánh đồng Giáo Hội.
2022
Hoán cải
22.7 Thánh Maria Mađalêna
Gr 3:14-17; Gr 31:10,11-12,13; Mt 13:18-23
Hoán cải
Tin Mừng hôm nay cho thấy cô có thêm một hạnh phúc mới, là người đầu tiên được gặp Chúa, được tận mắt nhìn thấy Chúa từ cõi chết sống lại.
Quả thật Chúa là Đấng từ bi nhân hậu và hay thương xót. Chỉ cần chúng ta biết ăn năn quay về với Chúa, chắc chắn Chúa sẽ bỏ qua những gì yếu đuối nơi con người chúng ta. Đón nhận chúng ta như là đón nhận cô Maria vậy.
Ma-ri-a Mác-đa-la chính là người phụ nữ đứng gần thập giá Chúa Giê-su được Gio-an nêu đích danh (Ga 19, 25). Sau này chị đã được nói tới như nhân chứng đầu tiên được Đấng Phục Sinh hiện ra với và sai đi loan báo biến cố quan trọng này cho các môn đệ khác. Nhưng tại sao lại là Mác-đa-la – một phụ nữ mà thanh danh dưới cả mức trung bình được chọn cho một danh dự lớn lao như thế? Một ngẫu nhiên chăng hay có chủ đích rõ ràng?
Thiết tưởng cùng với việc Mát-thêu – người thâu thuế được gọi làm tông đồ, Phê-rô – môn đệ chối bỏ Thầy được cắt đặt làm thủ lãnh tông đồ đoàn, Phao-lô – kẻ bắt đạo trở thành tông đồ nhiệt thành rao giảng… thì Mác-đa-la – nữ tội nhân trở thành đệ nhất chứng nhân sẽ ăn khớp cách hoàn hảo với toàn cảnh bức tranh rất hoành tráng của Tin Mừng cứu rỗi. Sau này cho dầu huyền thoại có muốn thêu dệt nên một Mác-đa-la – nữ thánh với những tình tiết như lui về Ê-phê-xô ở ẩn cùng với Ma-ri-a – Mẹ Chúa Giê-su, hay một Mác-đa-la truyền giáo miền Provence – nước Pháp với một đời sống đầy những sám hối và khổ hạnh (xem St Mary Magdalen trong Catholic Encyclopedia), thì Mác-đa-la của các sách Tin Mừng vẫn giữ nguyên nét độc đáo riêng, đáng cho chúng ta chiêm ngưỡng.
Phải là một Mác-đa-la “đã yêu mến nhiều, vì tội của chị rất nhiều nhưng đã được tha” mới xứng đáng sức dầu thơm “có ý dành cho ngày mai táng Thầy” (Ga 12:7), mới xứng đáng đứng gần thập giá khi Giê-su thốt lên: “Thế là đã hoàn tất!” Rồi gục đầu xuống và trao Thần Khí’ (19:25), mới ‘sáng ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối… đã đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ… liền chạy về gặp Si-mon Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến…’ (20:1-2), mới ‘đứng ngoài, gần bên mộ, mà khóc…’ (20:11), và mới âu yếm kêu lên với Người Thầy sống lại: “Ráp-bu-ni!” (20:16)
Thế đấy, chỉ có ai “đã yêu mến nhiều, vì tội… rất nhiều nhưng đã được tha” mới đáng có cái vinh dự được làm tất cả các điều ấy, và làm cách chân thành nhất với cả cõi lòng mình. Nhiều người đã muốn gọi Mác-đa-la là ‘tông đồ cho các tông đồ’ (Apostle to the Apostles), hay một nữ anh hùng của niềm tin (Protestant churches honor her as a heroine in the faith), nhưng thiết tưởng còn hơn thế nữa, chị nên được coi là mẫu mực hay tiêu biểu cho ơn gọi Ki-tô hữu qua mọi thời đại. Kể từ ngày lãnh nhận phép rửa ‘nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”, Ki-tô hữu được sách Công Vụ Tông Đồ mô tả như những con người ‘đau đớn trong lòng…’ vì nhận ra những lỗi tội mình phạm, để rồi đáp lại lời mời gọi của Phê-rô: “Anh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giê-su Ki-tô để được ơn tha tội…” (Cv 2:37-38).
Rất tiếc sau này thói quen rửa tội ấu nhi đã làm cho khía cạnh căn bản và quan trọng này của ơn gọi Ki-tô hữu đễ bị lu mờ. Ki-tô hữu tiên quyết phải là những con người, trong niềm tin vào Đức Giê-su Ki-tô, “yêu mến nhiều, vì tội rất nhiều nhưng đã được tha”. Họ phải là những người không ngừng ‘đứng gần thập giá Đức Giê-su’, những người hàng ngày chứng kiến và làm chứng cho mọi người về cái Chết Thập Giá và Phục Sinh của Người. Tắt một lời, để có thể chu toàn xuất xắc sứ mạng được trao phó, nhất thiết họ phải kinh qua cùng một tâm trạng như Ma-ri-a Mác-đa-la thuở nào.
Thế nên không lạ gì, trong số các diện mạo khả ái hay ít khả ái hơn được các sách Phúc Âm đề cao, Mác-đa-la chiếm một vị trí đặc biệt. Ngay từ thời buổi đầu tiên, các Ki-tô hữu đã sớm nhận ra nơi chị hình ảnh của chính mình là ‘đứng gần Thập Giá’, sứ mệnh của mình là làm chứng về Giê-su đã chết và sống lại (không như một sự kiện bên ngoài, nhưng như một biến đổi sâu xa bên trong mà chính mình phải là một chứng nhân thực thụ…), và mình được sai đi loan báo Tin Mừng này cho mọi người trong hân hoan. Họ coi Ma-ri-a Mác-đa-la là ‘thánh nữ’ chính vì những điểm này hơn là bất cứ điều gì khác chị sẽ thực hiện sau này trong phần còn lại của đời chị. Họ hiểu rằng đời Ki-tô hữu của họ cũng hệ tại ở việc sức dầu ‘thống hối’ mai táng mà họ phải làm mỗi ngày, vì… “Tin Mừng này được loan báo bất cứ nơi nào trong khắp thiên hạ, thì người ta cũng sẽ kể lại việc cô vừa làm mà nhớ tới cô ấy” (Mt 26:13).
Tin Mừng theo thánh Gioan vừa nhắc đến Thánh nữ Maria Mađalêna, vị thánh mà Giáo Hội kính nhớ hôm nay. Bà là người nữ được diễm phúc gặp Chúa Giêsu phục sinh đầu tiên. Khi gặp được Chúa, bà vui sướng reo mừng, bà đi báo cho các môn đệ rằng : “Tôi đã thấy Chúa”. Rồi bà kể lại cho các ông những điều Chúa đã nói với bà. Tuy nhiên thật tiếc thay, bà Maria Mađalêna đã không nhận ra được Chúa phục sinh, ngay từ phút giây đầu tiên khi Chúa xuất hiện trước mặt bà. Chúa đứng đó nhưng bà đã không nhận ra Chúa, mà phải trải qua một tiến trình với nhiều dấu hiệu, đến khi Chúa gọi tên bà, lúc ấy bà mới nhận ra Chúa.
Chúng ta tự hỏi, điều gì đã ngăn cản cản bà Maria Mađalêna không nhận ra Chúa ngay từ phút đầu tiên ấy. Thánh Gioan cho chúng ta thấy qua các dấu hiệu :
Bà Maria Mađalêna đến mộ từ sáng sớm, bà thấy dấu hiệu đầu tiên đó là “tảng đá lăn khỏi mộ”, bà không còn thấy Chúa. Với suy nghĩ của loài người, bà chỉ nghĩ được rằng “Người ta đem Chúa đi khỏi mộ và các bà chẳng biết họ để Người ở đâu ?” Bà không đủ sáng suốt để nghĩ về Chúa Giêsu, Đấng đã chữa lành bà khỏi bảy quỷ, giờ đây hẳn Ngài thực hiện quyền năng của Ngài như đã báo trước. Bà tối tăm sầu buồn đến nỗi đâu còn nhớ Chúa có đủ quyền năng, làm cho đứa con trai duy nhất của bà góa thành Naim cũng như Lazaro chết chôn trong mồ được sống lại. Bà chỉ suy nghĩ và lý giải theo cách hiểu, cách nhìn rất trần thế của bà. Tảng đá được lăn ra, mồ trống, nghĩa là Người ta đem Chúa đi. Với lối suy nghĩ về Thiên Chúa theo cách suy luận của con người, thật khó để nhận ra Chúa.
Khi bà Maria Mađalêna đến mộ lần thứ hai cùng với hai môn đệ, bà không thấy mọi sự diễn ra như bà suy tính, bà buồn rồi khóc. Bỗng bà thấy dấu hiệu nữa là : hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt thi hài của Chúa Giêsu, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân. Thiên Thần hỏi “sao bà khóc”. Thấy Thiên Thần, vậy mà bà chưa mở lòng để suy nghĩ thêm : Thiên Thần đâu dễ xuất hiện trong cuộc sống đời thường, phải có điều gì đó rất đặc biệt Thiên Thần mới xuất hiện chứ ? Rồi bà vẫn trả lời một câu y như lần trước, một câu nói như đã lập trình sẵn trong suy nghĩ kiểu loài người của bà. Bà nói với Thiên Thần : “Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu !”. Với lối suy tính và chờ mong mọi sự diễn ra theo ý mình, mà không chịu mở lòng ra với các dấu hiệu Chúa gởi đến trong cuộc đời, chắc hẳn sẽ không nhận ra Chúa.
Và rồi, khi thấy dấu hiệu là chính Chúa Giêsu đứng đó. Chúa Giêsu nói với bà : “Này bà, sao bà khóc ? Bà tìm ai ?” Bà đang vẽ ra trong đầu suy nghĩ của mình về Thiên Chúa. Nên bà tưởng Chúa là người làm vườn, liền nói : “Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về”. Bà cứ mải miết bám vào các dữ liệu trần thế theo cách nhìn của bà, rằng đã có ai đó lấy xác Chúa. Giờ đây bà thấy ông này dáng vẻ người làm vườn, với suy nghĩ không đổi bà trả lời cũng vẫn bằng một câu trả lời không thay đổi, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết… Với lối tưởng tượng và suy đoán theo cách của con người, làm sao có thể nhận ra Chúa.
Hôm nay chúng ta cử hành lễ nhớ Thánh Maria Mađalêna. Khi nhắc đến người phụ nữ này, chắc chắn mọi người sẽ nghĩ đến người đàn bà tội lỗi. Người phụ nữ đã được Chúa Giê-su cứu thoát khỏi tay những người muốn ném đá cô.
Tuy tội lỗi nhưng cô đã ăn năn hối cải. Sau khi hoán cải cô đã trở nên người tông đồ nhiệt thành của Chúa. Maria đã cùng đồng hành với chúa trên con đường rao giảng Tin Mừng; theo sát chân Chúa đến đồi Can-vê. Một Maria tội lỗi suốt ngày chỉ ở trong bóng tối, giờ đây đã được Chúa giải thoát mang cô ra ánh sáng. Đó chính là ánh sáng của Chúa chiếu tỏa trên cô.
2022
Tại Sao Dùng Dụ Ngôn
21.7 Thứ Năm trong tuần thứ Mười Sáu Mùa Quanh Năm
Gr 2:1-3,7-8,12-13; Tv 36:6-7,8-9,10-11; Mt 13:10-17
Tại Sao Dùng Dụ Ngôn
Nếu không phải là người hiểu biết nghệ thuật tranh vẽ, chúng ta sẽ thấy vô vị khi chiêm ngắm những bức tranh nổi tiếng của hoa sĩ tài ba Picasso. Chúng ta sẽ không hiểu hết ý nghĩa thâm thuý mà người nghệ sỹ diễn tả qua nét cọ của mình. Điều này cũng giúp chúng ta hiểu được phần nào sứ điệp Tin Mừng mà Chúa Giêsu nói với chúng ta hôm nay: “Các ngươi lắng tai nghe mà chẳng hiểu, trố mắt nhìn mà chẳng thấy gì”. Khi nhắc lại những lời trên đây của tiên tri Isaia, Chúa Giêsu không có ý che dấu mọi sứ điệp yêu thương mà Thiên Chúa muốn tỏ lộ cho chúng ta, nhưng vì chúng ta là những người thiếu lòng tin tưởng vào Chúa. Chúng ta không thể lãnh hội được những tư tưởng của Chúa, vì lòng dạ chúng ta chai đá.
Quả vậy, trong số các môn đệ là những người được Chúa kêu gọi, được Chúa dạy dỗ, thế nhưng, vẫn có những ông chưa thể lãnh hội ý Chúa. Họ đi theo Chúa với những toan tính rất trần đời. Họ chỉ mong được hưởng lấy những cái lợi vật chất trước mắt như được làm lớn, được lắm bạc vàng, hay danh vọng, v.v. Khi không đạt được những mục đích ấy, họ bất mãn và bỏ cuộc. Vì thế, Chúa Giêsu đã phải lo lắng nhiều hơn cho các môn đệ, dạy bảo họ nhiều hơn để họ có thể thấu hiểu mầu nhiệm Nước Trời. Đó là một ân phúc lớn lao cho những người môn đệ biết lắng nghe và học hỏi nơi Chúa Giêsu.
Trong cuộc đời rao giảng, Chúa Giê-su, như một người thầy tinh tế, thường dùng các dụ ngôn qua những câu chuyện thực tế với những hình ảnh quen thuộc hằng ngày để người nghe có thể dễ dàng tiếp cận sứ điệp Tin Mừng. Thái độ đáp lại của họ thật khác biệt nhau: có người thì trầm trồ khen ngợi tài giảng thuyết của Ngài, có người lại trở nên chai đá cứng lòng. Thế nhưng các mầu nhiệm Nước Trời vẫn còn bị che khuất đối với họ. Điều đó khiến các tông đồ thắc mắc: tại sao Thầy không nói trắng ra mà lại dùng dụ ngôn? Thì đây, bí quyết được chính vị Thầy tinh tế đó tiết lộ: Hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời là một hồng ân Chúa ban; và để tiếp nhận được hồng ân đó cần có một cuộc sống thân mật gần gũi với Chúa Ki-tô. Quả thật trong những giây phút thân mật thầy và trò, Ngài mới giải thích ý nghĩa thâm sâu đích thực của các dụ ngôn đó.
Trong lời rao giảng của Ngài, Chúa Giêsu thường dùng dụ ngôn để nói về Nước Trời, một thực tại không thể diễn tả được bằng ngôn ngữ loài người, và nếu có diễn tả được, thì con người cũng không thể hiểu nổi vì nó vượt khỏi thế giới khả giác này, hay nói như thánh Phaolô, đó là thực tại mà mắt con người chưa từng thấy, tai chưa từng nghe, lòng người chưa từng cảm nghiệm được. Thực tại ấy không thể thu hẹp trong một vài câu định nghĩa, mà phải diễn tả bằng dụ ngôn, vì cách diễn tả này không giới hạn, nhưng tạo thuận lợi cho việc tìm hiểu sâu xa hơn.
Dụ ngôn là một thứ ngôn ngữ nói với những người trong cuộc, những người sống trong tình thân với nhau. Ðể hiểu được dụ ngôn, cần phải có hai đức tính quan trọng, đó là tâm hồn rộng mở và ước muốn tìm hiểu. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Về phần các con đã được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không”. Nói khác đi, các môn đệ đã được chấp nhận vào cộng đoàn của những kẻ tin vào Chúa Giêsu, vì thế, các ông có thể hiểu rõ những mầu nhiệm. Còn những kẻ ở bên ngoài, nhất là những kẻ ở bên ngoài vì kiêu hãnh, vì khép kín, vì định kiến, như các Luật sĩ và Biệt phái, thì khi nhìn vào các mầu nhiệm họ chỉ thấy bí ẩn và khó hiểu. Chính cách trả lời của Chúa là tiêu chuẩn để biết được ai là người thuộc về Chúa và ai là người ngoài cuộc: “Nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không thấy, lắng tai mà không nghe. Còn các con, mắt các con thật có phúc vì được thấy, tai các con có phúc vì được nghe”.
Tin Mừng hôm nay phần nào giải đáp thắc mắc cho chúng ta khi ghi lại lời Chúa Giêsu: “Phần các con, mắt các con thật có phúc vì được thấy, tai các con thật có phúc vì được nghe”. Mối phúc ấy, Chúa dành cho những người đơn sơ, bé mọn như có lần Ngài đã thưa cùng Chúa Cha: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha đã mạc khải mầu nhiệm nước trời cho những kẻ bé mọn”.
Tin Mừng hôm nay Chúa Giê-su khen các môn đệ là người có phúc vì đã biết lắng nghe những điều Chúa dùng dụ ngôn mà dạy dỗ. Đồng thời Chúa cũng khiển trách những kẻ cứng lòng, có nghe lời Chúa đó nhưng vẫn không tin lời Ngài dạy. Chỉ vì lòng chai đá nên mắt họ có đấy nhưng cũng như mù lòa mà chẳng thấy. Tai họ có đấy nhưng nó lại không có khả năng nghe để tiếp thu những chân lý được Thiên Chúa mặc khải.
Loài người cho dù khôn ngoan tài trí đến bao nhiêu đi nữa thì vẫn không thể hiểu thấu được mầu nhiệm Nước Trời nếu không có Đấng từ trời cao xuống thế để mặc khải cho nhân loại. Thật vậy, Chính Ngôi Hai Thiên Chúa đã từ trời cao nhập thế, nhập thế làm Người để mặc khải cho nhân loại biết về Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, Mầu nhiện Nước Trời, bản tính cũng như căn tính của Thiên Chúa.
Với những mặc khải đó con người mới có thể hiểu biết về Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng nên họ, yêu thương và luôn muốn họ ăn năn sám hối tội lỗi của mình hầu nhận được ơn tha thứ.
Trong thánh lễ, trước khi công bố Tin Mừng vị chủ tế cùng với cộng đoàn ghi dấu thánh Giá trên trán, trên miệng và trên ngực, hành vi đó mang ý nghĩa: Ghi dấu Thánh Giá trên trán; có ý xin Chúa soi lòng mở trí để con hiểu Lời Chúa, trên miệng; có ý xin cho con luôn cao rao Lời Chúa và trên ngực xin cho lòng con luôn yêu mến Lời Hằng Sống.
Kẻ bé mọn ở đây không phải là người nhỏ bé về thể lý hay nhỏ tuổi mà là người đơn sơ, chân thành, khiêm hạ. Thật vậy, khi Chúa Giêsu dùng dụ ngôn mà nói về nước trời thì những người khôn ngoan, thông thái như các luật sĩ và biệt phái không những không hiểu mà còn tìm cách bắt lỗi Chúa; trong khi những người nghèo khó, đơn sơ, chất phác lại đón nhận và tin theo Ngài. Chính Chúa Giêsu đã khẳng định điều đó khi nói với các tông đồ: “Nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không thấy, lắng tai mà không nghe. Còn các con, mắt các con thật có phúc vì được thấy, tai các con thật có phúc vì được nghe”.
Lời của Chúa Giêsu làm chúng ta nhớ đến ông già Simêon trong biến cố Giuse và Maria dâng Hài Nhi Giêsu trong đền thờ. Trong khi bao nhiêu người cũng ‘nhìn’ mà không ‘thấy’, thì cụ già Simêon, nhờ lòng đơn sơ, trông cậy khao khát Chúa, ông được diễm phúc ‘thấy’ Hài Nhi Giêsu là Đấng Cứu độ muôn dân. Không những thế, ông còn được bồng ẵm Hài Nhi trên tay mà dâng lời chúc tụng Chúa.
2022
Trở nên đất tốt
20.7 Thứ Tư trong tuần thứ Mười Sáu Mùa Quanh Năm
Gr 1:1,4-10; Tv 71:1-2,3-4,5-6,15,17; Mt 13:1-9
Trở nên đất tốt
Trong cuộc đời rao giảng, Chúa Giê-su, như một người thầy tinh tế, thường dùng các dụ ngôn qua những câu chuyện thực tế với những hình ảnh quen thuộc hằng ngày để người nghe có thể dễ dàng tiếp cận sứ điệp Tin Mừng. Thái độ đáp lại của họ thật khác biệt nhau: có người thì trầm trồ khen ngợi tài giảng thuyết của Ngài, có người lại trở nên chai đá cứng lòng. Thế nhưng các mầu nhiệm Nước Trời vẫn còn bị che khuất đối với họ. Điều đó khiến các tông đồ thắc mắc: tại sao Thầy không nói trắng ra mà lại dùng dụ ngôn? Thì đây, bí quyết được chính vị Thầy tinh tế đó tiết lộ: Hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời là một hồng ân Chúa ban; và để tiếp nhận được hồng ân đó cần có một cuộc sống thân mật gần gũi với Chúa Ki-tô. Quả thật trong những giây phút thân mật thầy và trò, Ngài mới giải thích ý nghĩa thâm sâu đích thực của các dụ ngôn đó.
Dụ ngôn là một hình thức giảng dạy dùng tỉ dụ từ phong tục trong dân chúng hay cuộc sống thường nhật để rút ra bài học, hay làm sáng tỏ một chân lý đạo đức hoặc tôn giáo. Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu dùng dụ ngôn người gieo giống đi gieo giống lúa tại Galilêa thời Chúa Giêsu: Galilêa là một xứ nhỏ, nhiều đồi núi, ít ruộng đất, đông dân cư, nên ruộng đất phải chia nát ra thành nhiều phần nhỏ, phần đất nào cũng có đường bờ làm cương giới. Phần nhiều đất không đủ màu mỡ, có nhiều chỗ pha trộn đá sỏi, đất đã xấu lại hỗn độn đầy cỏ, nhất là cỏ gai. Tuy nhiên cũng có nhiều chỗ đất phì nhiêu, người ta chỉ cày bừa kỹ rồi gieo vãi đợi đến mùa là gặt lúa về. Hiểu như thế giúp chúng ta dễ dàng hiểu lời Chúa hôm nay.Dụ ngôn người gieo giống cũng thuộc nhóm dụ ngôn liên hệ về Nước Trời như các dụ ngôn:
Hạt cải và nắm men ( Mt 13, 31 – 32 ).
Dụ ngôn kho báu và đá ngọc ( Mt 13, 44 – 46 )
Dụ ngôn các lưới cá ( Mt 13, 47 – 50 )
Dụ ngôn cỏ lùn ( Mt 13, 24 – 30 ).
Chúa Giêsu thường giảng bằng dụ ngôn ( Mt 13, 34 ). Với các môn đệ Ngài nói rõ sự thật, với người ngay lành, Ngài dùng dụ ngôn làm cho người nghe dễ hiểu, dễ nhớ các chân lý Ngài trình bày, và khám phá dần dần sự phong phú chứa đựng trong chân lý ấy. Với người không tiếp nhận thì chân lý không tỏ ra cho họ, và nếu lời giảng nhắm thẳng vào người nghe thì lời nói không làm cho họ quá đột ngột hay khó chịu, như khi Chúa muốn nói về nhóm Biệt Phái Luật sĩ.
Hàng Tư tế Dothái sẽ giết Chúa, Ngài đã dùng dụ ngôn các tá điền làm vườn nho để đến mùa nộp huê lợi cho chủ. Hơn nữa, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn để thực hiện những lời tiên tri báo trước về việc dùng dụ ngôn: “mở miệng ra tôi sẽ nói dụ ngôn công bố điều huyền bí thuở xa xưa” ( Tv 78, 2 ). Chúa Giêsu dùng dụ ngôn về Nước Trời, để giác ngộ người Dothái khỏi lầm lẫm về Nước Trời mà Ngài thiết lập không theo kiểu trần thế như họ tưởng nghĩ và mong muốn.
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn về người gieo giống: người gieo giống trước tiên chính là Thiên Chúa, hạt giống là Chúa Giêsu được Chúa Cha sai xuống thế gian để cứu chuộc thế gian, đất được gieo là nhân loại, đất khác nhau vì thái độ đón nhận khác nhau của từng người. Đồng thời người gieo giống là Chúa Giêsu, và tiếp tục là Giáo Hội qua muôn thế hệ, hạt giống là lời Chúa, đất được gieo là toàn thể nhân loại nói chung, và từng người nói riêng, đất khác nhau là thái độ đón nhận của người nghe khác nhau. Khi dùng những hình ảnh quen thuộc với thính giả Galilêa, Chúa Giêsu trình bày số phận của hạt giống tuỳ theo vùng đất tiếp nhận nó, đất sỏi, bụi gai, vệ đường, lại thêm những chướng ngại bên ngoài như chim trời, nắng gắt, nhưng có hạt rơi nhằm đất tốt thì sinh hoa kết quả nhiều, hạt được gấp trăm, hạt sáu mươi, hạt ba mươi. Lời Chúa được giảng dạy cũng vậy, nó phát sinh hiệu quả cho người nghe tuỳ theo thái độ đón nhận của họ, và tuỳ thuộc vào cách họ sống. Chúa Giêsu đưa ra bốn loại: vệ đường, đá sỏi, bụi gai và đất tốt.
Chỉ có đất tốt mới có hiệu lực sinh hoa kết quả. Xét về hình thức thì việc rao giảng thất bại vì chỉ thành công với tỉ lệ ¼ nhưng về tính chất thì loại đất thứ tư lại gấp bội ba mươi, sáu mươi, một trăm, có nghĩa là hạt giống lời Chúa luôn là tốt có một tiềm năng hiệu lực, lúc đầu xem ra thất bại nhưng cuối cùng là vào ngày cánh chung sẽ thành công vì Nước Chúa sẽ trị đến. Hạt ba mươi, hạt sáu mươi, hạt một trăm trong dụ ngôn này, Chúa Giêsu không áp đặt mà chỉ đề nghị và mời gọi mọi người hiểu được thái độ cần phải có để đón nghe lời Chúa cho sinh kết quả phần rỗi linh hồn mà tạo cho tâm hồn nên một mảnh đất tốt.
Chúng ta cần nhận thức giá trị thiêng liêng của lời Chúa mà tha thiết lắng nghe và chăm chú thi hành, chúng ta cần có tinh thần khao khát lời Chúa như một nhu cầu của sự sống, cần gạt bỏ những chướng ngại, nhất là các thành kiến, khuynh hướng xấu trong tâm hồn chúng ta, chúng ta cần từ bỏ những sự lo lắng ham mê những sự thế gian xác thịt để có một tâm hồn thanh thoát, trong sạch đón nhận lời Chúa. Chúng ta cần tu luyện cho có một tâm hồn khiêm nhường biết tin tưởng cậy trông, và yêu mến lời Chúa để cho lời Chúa biến đổi đời sống chúng ta, dẫn đưa chúng ta đến ơn cứu độ, đến sự sống đời đời. Từ đó chúng ta trở nên một tông đồ đem lời Chúa đến cho mọi người cách hăng say nhiệt thành vì phần rỗi của mọi anh em chúng ta.
Chúa Ki-tô vẫn đang nói với chúng ta qua những “dụ ngôn” đời thường, những sự kiện văn hoá, xã hội, chính trị…, những biến cố xảy ra nơi giáo xứ, cộng đoàn, gia đình… Chúng mình chỉ có thể nhận ra sứ điệp của Chúa trong những giây phút cầu nguyện thân mật trầm lắng với Ngài.
Mỗi chúng ta có gắng cho tâm hồn mình trở nên đất tốt để Lời Chúa sinh hoa kết trái “hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục”? Khi lãnh bí tích Rửa tội, Chúa đã gieo vào lòng ta một hạt giống đức tin. Cây đức tin ấy ngày nay nó lớn đến đâu rồi? Giờ đây Chúa còn muốn chúng ta trở nên những người đi gieo giống cho Chúa nữa. Mà người gieo thì phải dầm mưa giãi nắng. Thánh kinh thì mô tả “người đi trong nước mắt đem hạt giống gieo trên nương đồng”. Chúa Giêsu đã đi gieo trong đau khổ và phải chết trên thập tự. Các thánh tông đồ đã theo gót thầy mình. Tất cả những hy sinh ấy đã làm nên đồng lúa Hội Thánh ngày nay.