2024
“THẦY ĐÂY, ĐỪNG SỢ”
2.7 Thứ Ba trong tuần thứ Mười Ba Mùa Quanh Năm
Am 3:1-8; Tv 5:4-6,6-7,8; Mt 8:23-27
“THẦY ĐÂY, ĐỪNG SỢ”
Đời sống được ví như con thuyền vượt biển. Luôn tràn đầy sóng gió. Có rất nhiều khó khăn thử thách. Nhưng Thiên Chúa là Chúa Tể muôn loài. Vận mệnh chúng ta ở trong tay Thiên Chúa. Mọi thế lực trần gian phải tùng phục Thiên Chúa. Vì thế nếu ta ở trong Chúa. Ở với Chúa. Ở bên Chúa. Ta sẽ bình an vô sự. Nếu có hiểm nguy Chúa cũng sẽ giúp ta vượt qua. Hôm nay các tông đồ vượt biển. “Bỗng nhiên biển động mạnh khiến sóng ập vào thuyền”. Các tông đồ sợ hãi. Nhưng Chúa Giê-su nói: “Sao nhát thế, hỡi những kẻ kém lòng tin! Rồi Người trỗi dậy, ngăm đe gió và biển: biển lặng như tờ”. Thiên nhiên tùng phục Chúa. Sóng và biển phải vâng lệnh Chúa. Chúa cứu thoát chúng con. Vì Chúa là Chúa Tể muôn loài.
Trước cảnh bão táp dữ dội, sóng cuồn cuộn dâng, hẳn ai là người không sợ? Nhất là lúc đó, chúng ta lại là người đang ở tâm điểm của thiên tai!
Hôm nay, các môn đệ cũng trải qua cơn cuồng phong, biến động mạnh của biển, khiến sóng lớn và nước ập vào thuyền, vì thế các ông lo sợ, hoảng loạn, nên đã tìm hết cách để chống trả với thiên tai và hy vọng con thuyền gặp được an toàn.
Hình ảnh con thuyền chuyên chở Đức Giêsu và các môn đệ hôm nay chính là hình ảnh của Giáo Hội và mỗi chúng ta trên hành trình dương thế. Có những lúc Giáo Hội gặp phải những khó khăn, thử thách, hay cuộc đời của chúng ta lắm khi gặp phải sự bất an, thất bại, chán trường …
Sự quan phòng của Thiên Chúa đã cho phép cơn bão tố xảy ra trong cuộc sống con người để thức tỉnh con người trở về với Ngài. Ðiều quan trọng không phải là không có bão tố hoặc khó khăn thử thách, nhưng là có Chúa hiện diện dù lúc đó xem ra Ngài ngủ, không màng chi đến nguy hiểm đang xảy ra. Thật thế, gian nan thử thách Thiên Chúa cho xẩy đến là để con người ý thức về sự yếu đuối, mỏng dòn của mình, đồng thời đặt niềm trông cậy vào Chúa. Cơn bão xẩy ra đã làm cho các Tông Ðồ không còn dựa vào phương tiện vật chất là chiếc thuyền đang nâng đỡ chở che các ông, cũng như không còn tự phụ vào tài năng vượt biển của mình; trái lại, các ông ý thức mình cần đến Chúa. “Lạy Thầy, xin cứu chúng con, chúng con chết mất”. Chính nhờ lời cầu nguyện trong lúc gian nan nguy hiểm, các Tông Ðồ được chứng kiến phép lạ và quyền năng của Chúa.
Tôi đã có thái độ nào khi gặp những cơn bão tố trong cuộc đời? Những cơn bão tố đó làm cho tôi gặp Chúa hay xa rời Ngài?
Ước gì chúng ta cũng có thái độ như các Tông Ðồ xưa: “Lạy Thầy, xin cứu chúng con”. Xin Chúa mở mắt cho chúng ta nhìn thấy sự hiện diện của Chúa trong đời sống chúng ta. Xin cho chúng ta ý thức rằng chúng ta cần đến Chúa hơn cơm bánh hằng ngày, hơn không khí để thở. Chúa là sức mạnh, là khiên thuẫn chở che, xin Ngài gìn giữ chúng ta luôn vững mạnh trong đức tin giữa những cơn thử thách.
Thật vậy, những trận cuồng phong thiên hình vạn trạng từ bên ngoài với những cơn thịnh nộ của thiên nhiên, những tai nạn, bệnh tật ập đến, tiền tài tiêu tan theo mây khói, bị ức hiếp tột cùng, bị quá thiệt thòi vì những đổi trắng thay đen của lòng người; hay từ bên trong bản thân do những xung đột giữa thiện và ác, giữa bao dung và kết án, giữa tha thứ và hận thù, tất cả đã làm cho không biết bao người phải lung lay đức tin và hoang mang…
Phản ứng của người có lòng tin sẽ phải dựa vào lời Chúa Giêsu để được soi sáng: “Sao nhát thế, hỡi những người kém lòng tin?” Đó mới thực sự là phản ứng của những người có niềm tin lạc quan. Họ dám chắc rằng Hội thánh sẽ qua khỏi cơn khủng hoảng, sẽ tìm lại được luồng khí mới, và một sức năng động mới. Họ đã nhìn thấy những dấu chỉ của hồi sinh là sự trở về với cầu nguyện, lòng xác tín sâu xa của những người mới tin, v.v.
Chúng ta có lý do để lạc quan. Chúa Giêsu sẽ không bao giờ ngủ, dù rằng bề ngoài người ta tưởng như Người ngủ. Người vẫn ở bên Hội thánh của Người. Chắc chắn Người sẽ làm cho Hội thánh sống lại như chính Người đã sống lại vậy. Nhưng lòng tin của ta không được tự mãn và ngây ngô. Đức Kitô nhờ ta mà hành động. Người cậy dựa vào ta để làm cho Hội thánh trở nên đúng như hình ảnh thực của mình. Ta đừng quá hy vọng vào phép lạ, khi khoanh tay ngồi chờ đợi tất cả từ trên cao.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tin tưởng vào Ngài, vì: bất cứ hoàn cảnh nào trong cuộc sống, Chúa vẫn còn đó trên chiếc thuyền của Giáo Hội và trong cuộc đời của chúng ta. Vì thế, không gì và không có cách nào, dù quyền lực của thế gian, của sự ác, bất công và ma quỷ cũng không phá đổ nổi Giáo Hội của Chúa. Đi theo và trở thành môn đệ thì phải hiểu được quy luật căn bản, tất yếu của hành trình đức tin là: qua đau khổ rồi mới đến vinh quang; qua cái chết rồi mới được phục sinh.
2024
CHỌN LỰA ƯU TIÊN
1.7 Thứ Hai trong tuần thứ Mười Ba Mùa Quanh Năm
Am 2:6-10,13-16; Tv 50:16-17,18-19,20-21,22-23; Mt 8:18-22
CHỌN LỰA ƯU TIÊN
Hôm nay, bài Tin Mừng thuật lại chuyện có một môn đệ muốn theo Đức Giêsu, nhưng anh ta xin được về chôn cha trước đã. Đức Giêsu đã không chấp nhận thái độ đó và nói: “Anh hãy theo Ta, và hãy để kẻ chết chôn kẻ chết”.
Xét theo góc độ tình cảm tự nhiên, đòi hỏi này của Đức Giêsu xem ra có vẻ ích kỷ, và phi nghĩa quá chăng? Một sự đòi hỏi không hợp tình cũng chẳng hợp lý! Là con cái mà cũng không được thi hành bổn phận sau cùng là lo chôn cất cha mình cho tròn chữ hiếu?
Tuy nhiên, càng khó chấp nhận nghịch lý của Đức Giêsu đưa ra với môn đệ này bao nhiêu thì lại càng sáng tỏ chân lý mà Đức Giêsu muốn nhắm tới bấy nhiêu.
Thật vậy, điều mà Đức Giêsu muốn người môn đệ phải có đối với Ngài và sứ vụ mà Ngài sẽ trao phó trong tương lai là một thái độ tin tưởng, phó thác, can đảm và dứt khoát. Không được chần chừ hay nửa vời, bởi lẽ, nếu lừng khừng, trong tương lai, không sớm thì muộn cũng có những thái độ thỏa hiệp và bỏ cuộc.
Khi dấn thân cho bất cứ công việc gì, cũng như đối với bất cứ ai, ta thích mọi chuyện phải rõ như ban ngày. Ta muốn biết mình đi đâu, muốn biết đích xác phần trách nhiệm của mình. Ta mong cho người đồng chí của ta nói lên không mập mờ ý hướng của anh.
Với Chúa Giêsu, chúng ta hoàn toàn được Người phục vụ tốt. Khi Chúa mời gọi ai đi theo Người, Người không ngại nói cho kẻ ấy biết Người chờ đợi gì nợi họ. Nói ra cũng rất đơn giản thôi. Người chờ đợi tất cả. Người đòi hỏi tất cả. Người yêu cầu ta từ bỏ hết, từ bỏ ngay lập tức vì Người. “Anh hãy cứ đi theo tôi, cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ”
Lời lẽ của Chúa thật cứng rắn, sắc bén. Không có tiếng nào thừa, cũng không có gì giấu diếm. Nếu người ta quyết định đi theo Người, hẳn phải biết cái gì đang chờ đợi mình: không có chỗ tựa đầu, thập giá, đau khổ, nhưng cũng có niềm vui ngập tràn, không tưởng tượng được.
Chúa Giêsu đòi hỏi các môn đệ và tất cả những ai muốn theo Ngài một thái độ từ bỏ, dứt khoát tận căn; Ngài không bao giờ chấp nhận bất cứ một thỏa hiệp nào. Qua những đòi hỏi ấy, Chúa Giêsu muốn nhắc nhở cho chúng ta giới răn cơ bản: mến Chúa hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực. Ðây không phải là một điều không tưởng, cũng không phải là một lý tưởng cao vời mà là một mệnh lệnh. Quả thật, con người chỉ thực sự đạt được ơn gọi làm người của mình, khi nó sống trọn vẹn cho Thiên Chúa; con người chỉ thực sự hạnh phúc khi nó thuộc trọn về Chúa. Những việc làm, như hy sinh, hãm mình, khổ chế, chỉ thực sự có ý nghĩa và giá trị, nếu chúng được thực thi như một cố gắng dốc cạn chính mình để sống tin tưởng phó thác cho Thiên Chúa, và đó cũng là mục đích cuộc đời người Kitô hữu.
Đức Giêsu đòi hỏi gắt gao nơi các môn đệ, những người muốn đi theo Chúa phải chấp nhận khó khăn. Khi Chúa Giêsu nói: “Con người không có chỗ tựa đầu”, Ngài muốn họ phải quyết liệt từ bỏ vật chất, tình cảm làm cho họ phân tâm. Nhưng dứt khoát đó giúp họ được tự do trong tâm hồn để sống hoàn toàn cho Nước Trời.
Khác với những chưởng môn hay đạo trưởng khi chiêu tập môn sinh thường đưa ra những hứa hẹn cho tương lai xán lạn, Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay lại đưa ra những đòi hỏi quyết liệt và dứt khoát cho những ai muốn bước theo Ngài. Chúa Giêsu đã trả lời cho hai trường hợp đến xin theo Ngài cùng chung một điều kiện là “từ bỏ”, từ bỏ những tìm kiếm mang tính trần thế và từ bỏ những vương vấn tình cảm, thậm chí là liên hệ ruột thịt.
Điều mà Chúa Giêsu muốn người môn đệ phải có đối với Ngài và sứ vụ mà Ngài sẽ trao phó là một thái độ tin tưởng, phó thác, can đảm và dứt khoát. Không được chần chừ hay nửa vời, bởi lẽ, nếu lừng khừng, trong tương lai, không sớm thì muộn cũng có những thỏa hiệp và bỏ cuộc.
Đối với một người khác, người này không bị ngăn trở về vật chất, nhưng ngăn trở về gia đình, đó là lòng hiếu thảo. Trước khi theo Chúa anh ta xin về nhà để chôn cất cha già rồi sẽ đến theo Chúa. Nhưng Chúa không cho. Tại sao vậy?
Theo một số nhà chú giải Thánh Kinh, câu nói của người này không có nghĩa là bố của anh ta vừa chết, nhưng là bố anh ta đã già yếu, và anh muốn được săn sóc cha già cho đến khi cha chết để báo hiếu, rồi sẽ đến theo Chúa. Hiểu như thế chúng ta mới hiểu được lý do tại sao Chúa không cho.
Một số người khác lại cắt nghĩa rằng: người này xin về để chôn cất cha già, nhưng đó chỉ là câu nói khéo để lưỡng lự từ chối lời Chúa. Cho nên Chúa muốn anh ta phải dứt khoát lập trường ngay từ đầu.
Thật ra ở đây Chúa Giêsu muốn bảo cho mọi người biết chôn cất cha già là một bổn phận cao cả nhưng còn có một bổn phận khác cao quí hơn, đó là việc xây dựng Giáo hội, tôn vinh Thiên Chúa, cứu vớt các linh hồn là những việc cần thiết hơn việc chôn cất cha mẹ. Vì thế, Chúa bảo người ấy: “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết, còn anh, hãy đi theo Ta”, nghĩa là hãy để cho những kẻ trần thế lo công việc của họ, còn con được ủy thác một sứ mệnh cao cả hơn, thì con hãy đi theo Ta. Tin Mừng không cho biết anh ta có đi theo Chúa không
Nếu không thanh thoát thì làm sao chấp nhận được sự thiếu thốn trong hành trình theo Chúa và thi hành sứ vụ được! Bởi lẽ, hành trình của người môn đệ luôn phải đối diện với sự thiếu thốn như chính Đức Giêsu đã trải qua: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ gối đầu”.
Như vậy, Đức Giêsu không có ý nói phải bỏ cha, bỏ mẹ để mà theo Ngài cho bằng Ngài muốn nói lên một sự lựa chọn ưu tiên cho ơn gọi và sứ vụ.
Là Kitô hữu, sống trong thời đại văn minh, kinh tế thị trường, có nhiều điều để chọn lựa. Tốt có, xấu có. Cao cả có, tầm thường cũng có. Tuy nhiên, nhiều người đã không chọn cho mình điều tốt, nhưng lại chọn những điều xấu, bởi vì những cái đó hấp dẫn và dễ thi hành hơn. Hoặc có nhiều người tin và đi theo Chúa, nhưng khi gian nan thử thách đến, họ đã viện nhiều lý do để bỏ cuộc.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy ý thức lại ơn gọi và sự trung tín của mình với Chúa? Chúng ta có chọn Chúa và những phẩm tính tốt thuộc về Ngài không? Hay chúng ta đã chọn những thứ tầm thường?
2024
CỘT TRỤ CỦA HỘI THÁNH
29.6 Thánh Phêrô và Phaolô, Tông Đồ
Ac 2:2,10-14,18-19; Tv 74:1-2,3-5,5-7,20-21; Mt 8:5-17
CỘT TRỤ CỦA HỘI THÁNH
Từ xưa tới nay, Giáo Hội vẫn có thói quen liên kết hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô trong một triều thiên vinh quang. Kinh Tiền Tụng hôm nay đã diễn tả như sau: Thánh Phêrô là vị thủ lãnh trong việc tuyên xưng Đức Kitô. Thánh Phaolô là người bảo vệ lừng danh trong việc tìm hiểu Đức Kitô. Thánh Phêrô thiết lập Hội Thánh tiên khởi cho những người Israel còn lại. Thánh Phaolô là thầy và là đấng dạy dỗ muôn dân được kêu gọi. Và kinh Tiền Tụng đã kết luận: Các ngài đã dùng những đường lối khác nhau mà quy tụ một gia đình cho Chúa. Với lời ca tụng trên đây, Giáo Hội không những đề cao sự hợp nhất giữa hai đường lối khác nhau mà còn ngợi khen sự hợp nhất giữa hai con người có nhiều khác biệt.
Thực vậy, thánh Phêrô vốn bản chất dân chài lưới, trực tính và nghiêng về thực tiễn. Còn thánh Phaolô là người trí thức, hay lý luận và thích đào sâu giáo lý. Thánh Phêrô quan tâm đến việc loan báo Tin Mừng cho người đạo cũ, nên không muốn sửa đổi nhiều những gì vốn có kẻo phật lòng họ. Còn thánh Phaolô nhằm truyền bá đức tin cho các dân ngoại, nên muốn bỏ đi những lề luật của đạo cũ không còn thích hợp, kẻo nặng gánh cho những người dân ngoại xin tòng giáo. Thánh Phêrô là Giáo hoàng, nhưng không vì thế mà áp đặt ý kiến của mình. Thánh Phaolô là Giám mục, nhưng không vì thế mà không thẳng thắn trình bày quan điểm riêng của mình, để trao đổi và bàn luận. Thánh Phêrô là người đã có lần chối Chúa vì yếu đuối và đã ăn năn sám hối do cái nhìn xót thương của Chúa. Còn thánh Phaolô đã có lần bắt bớ đạo Chúa vì lầm lạc và đã trở lại nhờ sự giúp đỡ của một môn đệ Chúa.
Với nhiều khác biệt, hai thánh Phêrô và Phaolô tông đồ đã được liên kết lại để bổ túc cho nhau, làm cho nền móng của Giáo Hội được bền vững. Động lực liên kết các ngài lại với nhau chính là việc mở rộng Nước Chúa. Cái nhìn trên đây giúp chúng ta thêm tin tưởng hơn vào Chúa trong việc bảo vệ, xây dựng và phát triển Giáo Hội. Đúng thế, Giáo Hội là hình ảnh của sự quy tụ hiệp thông và liên kết. Giáo Hội là khí cụ kết hợp với Chúa và với nhân loại. Trong Giáo Hội có yếu tố Thiên Chúa và cũng có yếu tố nhân loại. Có người nhân đức và cũng có kẻ tội lỗi. Có phẩm trật và cũng có thành phần dân Thiên Chúa. Giáo Hội vừa trung thành với truyền thống vừa phải đổi mới cho thích hợp với lịch sử từng thời và từng nơi. Giáo Hội vừa củng cố đức tin cho người có đạo lại vừa truyền bá đức tin cho người ngoại đạo.
Biết liên kết những cái khác nhau trong Giáo Hội và trong nhân loại là một đặc điểm quan trọng của Kitô giáo. Bởi vậy trong giây phút này chúng ta hãy cầu nguyện cho sự hiệp nhất, mặc dù có những khác biệt trong lòng Giáo Hội, nhưng chúng ta vẫn có thể và phải liên kết phải trở nên một hầu ước vọng của Chúa Giêsu sẽ là một sự thật: Xin cho mọi người được hợp nhất trong chúng ta để cho thế gian nhận biết rằng Cha đã sai con.
Hai thánh Phêrô và Phaolô tông đồ là cột trụ của Hội Thánh. Các ngài là những viên đá tảng, đá quý để xây dựng toà nhà Hội thánh vững chắc và toả rạng cho khắp năm châu.
Các ngài là cột trụ của niềm tin cho toàn thể Hội thánh. Một niềm tin không gì có thể lay chuyển đến nỗi “ma quỷ cũng không thắng nổi”. Một đức tin can trường đến nỗi dầu có chịu nhiều thiệt thòi, dầu có phải trải qua những gian truân cùng khốn: tù đầy, đói rét hay phải bôn ba rầy đây mau đó, phải vượt qua biết bao phong ba bão tố, các ngài vẫn vui lòng chấp nhận vì được thông phần đau khổ với Thầy Giêsu.
Hai con người này tuy được sự giáo dục khác nhau, và hấp thụ những văn hoá khác nhau, nhưng họ lại đi chung một đường, và cùng chung một lý tưởng. Cuộc đời các ngài đều phải lội ngược dòng để làm lại cuộc đời, để thay đổi cách sống sao cho phù hợp với niềm tin của mình.
Thực vậy, nhìn vào đời sống của hai trụ cột của Hội thánh, chúng ta thấy: một Phêrô đã từng sa ngã. Ông đã từng can ngăn không muốn cho Chúa nộp mình chịu chết. Ông đã đi đến tận tùng của sa ngã là hành vi chối Chúa đến ba lần trong cùng một đêm. Một Phaolô đã hăng say lùng bắt các môn đệ của Chúa. Chính ông đã đồng loã với bọn quá khích ném đá vị tử đạo đầu tiên là Stephano. Thế nhưng, ý Chúa nhiệm mầu. Tình yêu của Chúa đã thắng vượt những yếu đuối của Phêrô và Phaolô. Chúa đã dùng muôn nghìn cách để đổi đời các ngài. Chúa đã tạo cho các ngài cơ hội để chuộc lại lỗi lầm. Chúa đã nói cùng Phêrô: “một khi con trở lại hãy củng cố đức tin của anh em con”.
Theo Thánh Kinh kể lại: Sau khi chối Thầy lần thứ ba, từ trên pháp đình Chúa nhìn xuống Phêrô, Ngài biết hết! Phêrô chột dạ. Phêrô nhớ lại lời Thầy: “Nội trong đêm nay, trước khi gà gáy con đã chối Thầy ba lần”. Tức thì, Phêrô lầm lũi ra khỏi pháp đình, nước mắt tuôn trào, tâm hồn trũi nặng, một cái gì đó đã chết trong ông. Vâng, đã chết rồi, niềm tự hào, tự tin quá mức. Còn lời nào biện mình cho hành động hèn nhát của ông. Còn đâu lời khẳng khái: “mọi người có bỏ Thầy, riêng con thì không bao giờ”. Ông chỉ là cát bụi, ông biết mình chỉ là cát bụi, yếu hèn và rất dễ sa ngã. Nhưng đêm hôm đó, một biến cố trọng đại đã “đổi mới” tâm hồn Phêrô. Lòng ăn năn bộc phát và lòng khiêm nhường chân thành đã biến Phêrô thành người thuyền trưởng trên con tàu Giáo hội.
Còn Phaolô thì sao? sau khi ngã ngựa đớn đau bởi một luồng sáng chói loà. Mắt ông không còn thấy gì nữa, ông như kẻ bị mù trong ba ngày. Nhưng thật ra, tâm hồn ông lại sáng. Ông đang thấy và thấy rất rõ. Đó là Đức Giêsu, Người đã Sống lại thật, lên trời ngự bên hữu Chúa Cha. Đó là sự thật mà ông phải chấp nhận. Một sự thật mà từ nay ông phải làm chứng về những điều đã nghe, đã thấy và đã biết.
Vâng, có thể nói, nhờ sự đổi mới cuộc đời của Phêrô và Phaolô mà cả thế giới được đổi mới. Văn hoá ky-tô giáo đã làm mới lại bộ mặt địa cầu. Có thể nói ở đâu đó còn có những người chưa tin vào Chúa nhưng họ đã được thấm nhuần văn hoá Kitô giáo. Ở đâu đó vẫn còn đó những người được đổi mới cuộc đời nhờ vào lời Chúa và sức mạnh của tin mừng. Ở đâu đó vẫn còn đó những tâm hồn thất vọng, lầm than họ đã bừng lên niềm hy vọng nhờ những giá trị tin mừng mà Kitô giáo mang lại cho họ.
Mừng kính hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, mỗi người chúng ta được mời gọi tiếp nối truyền thống của các tông đồ mang tin mừng đến khắp cùng trái đất. Mỗi người chúng ta cũng là những viên đá sống động, góp phần xây dựng toà nhà Hội thánh. Dù nhỏ bé, yếu hèn và bất lực, nhưng Chúa sẽ dùng tuỳ theo nhu cầu của Ngài. Chính Ngài sẽ đổi mới cuộc đời chúng ta bằng ân sủng và tình thương của Ngài, để nhờ đó chúng ta cũng có khả năng đổi mới môi trường chúng ta đang sống. Đồng thời chúng ta hãy cầu nguyện nhiều hơn cho Đức Thánh Cha, cho các giám mục là những Đấng kế vị thánh Phêrô và các tông đồ. Xin Chúa ban thêm sức mạnh, nghị lực và ơn khôn ngoan, để các ngài luôn là điểm tựa cho niềm tin của chúng ta.
2024
XIN CHỮA CHO CON SẠCH
28.6 Thánh Irenaeus, Gmtđ
2 V 25:1-12; Tv 137:1-2,3,4-5,6; Mt 8:1-4
XIN CHỮA CHO CON SẠCH
Các văn bản của Thánh Irenaeus giúp ngài có một địa vị cao trọng trong các giáo phụ của Giáo Hội, vì các tư tưởng ấy không những giúp hình thành nền tảng thần học Kitô Giáo mà còn phô bầy và bài bác các sai lầm của phe Gnostic, gìn giữ được đức tin Công Giáo khỏi những nguy hiểm của lạc thuyết.
Có lẽ ngài sinh vào khoảng năm 125, trong một vùng ven biển của Tiểu Á là nơi có đông người Kitô Giáo và ký ức về các tông đồ vẫn còn được trân quý. Ngài chịu ảnh hưởng rất nhiều của Thánh Polycarp là người đã từng được gặp các tông đồ hoặc các môn đệ trực tiếp của các ngài.
Khi các linh mục và nhà thừa sai người Á Châu đem tin mừng đến cho người Gaul và thiết lập một giáo hội địa phương ở Lyon, Thánh Irenaeus đã phục vụ ở giáo phận này dưới quyền vị giám mục đầu tiên là Thánh Pothinus. Vào năm 177, Irenaeus được sai đến Rôma, vì thế ngài không được phúc tử đạo như Ðức Pothinus trong thời kỳ bách hại ở Lyons. Khi trở về, ngài kế vị đức giám mục trông coi giáo phận.
Vào lúc ấy, tuy sự bách hại không còn nhưng lạc thuyết Gnostic tràn lan khắp xứ Gaul. Khi thấy các Kitô Hữu bị ảnh hưởng nặng nề bởi lạc thuyết, ngài biết việc phải làm là phô bầy các lầm lạc của phe Gnostic. Ngài viết năm cuốn sách mà trong đó nêu ra các sai lầm nội tại của các lạc thuyết, đồng thời so sánh các thuyết ấy với Kinh Thánh và giáo huấn của các Tông Ðồ. Công trình này, được viết bằng tiếng Hy Lạp mà ngay sau đó được dịch sang tiếng La tinh, được lưu hành rộng rãi và rất thành công trong việc đối phó với phe Gnostic. Từ đó trở đi, ở bất cứ cấp độ nào, lạc thuyết Gnostic không còn là một đe dọa đối với đức tin Công Giáo.
Một nhóm Kitô Hữu ở Tiểu Á bị Ðức Giáo Hoàng Victor III ra vạ tuyệt thông vì họ không chấp nhận ngày tháng cử hành lễ Phục Sinh của Giáo Hội Tây Phương. Thánh Irenaeus đã can thiệp với đức giáo hoàng để rút lại hình phạt này, ngài cho thấy đó không phải là vấn đề quan trọng vì họ theo thói quen cũ mà Ðức Polycarp và Ðức Giáo Hoàng Anicetus không coi đó là sự chia cắt trong Giáo Hội. Ðức giáo hoàng đã phản ứng cách thuận lợi và hàn gắn được sự bất hòa.
Người ta không rõ Thánh Irenaeus từ trần vào lúc nào, nhưng tin là vào năm 202. Thi hài của ngài được chôn trong hầm mộ trong cung thánh của nhà thờ Thánh Gioan, và sau đó được đổi tên là Thánh Irenaeus. Vào năm 1562, nhà thờ và hầm mộ của ngài bị phe Calvin tiêu hủy, mọi thánh tích của ngài dường như cũng tiêu tan.
Trước lời cầu xin của anh phong cùi, Chúa Giêsu không thể làm ngơ vì nỗi khao khát được sạch của anh. Người đã đụng chạm đến anh và chữa lành mà không sợ mình bị nhiễm uế theo quan niệm người Do thái thời bấy giờ. Điều đó chứng tỏ Chúa Giêsu có quyền giải thoát con người khỏi tội lỗi. “Sạch” ở đây không chỉ có nghĩa là khoẻ về phần xác, mà còn được hiểu là sự đổi mới trong tâm hồn nữa.
Trong những chuyến đi diễn thuyết để kêu gọi giúp đỡ những người phong cùi trên khắp thế giới, vị đại ân nhân của họ là Raoul Folereau thường kể câu truyện như sau: Tại một thị trấn nọ, có một người đàn ông được mọi người yêu mến bỗng ngã bệnh. Sau khi chẩn đoán, bác sĩ nghi ngờ ông bị bệnh phong cùi. Từ đó, người ta không còn thấy ông ra đường nữa, và ngay cả trong nhà, ông cũng không còn được đi lại tự do nữa. Gia đình ông đã giam ông trên giường, khung trời còn lại của ông chính là tấm mùng. Một ngày nọ, người đàn ông trốn ra khỏi nhà, nhưng đã bị bắt lại. Và rồi một lần nữa, ông đã trốn thoát được, không phải để được sống tự do, mà là để tự vẫn. Người ta đưa xác ông đến giảo nghiệm, và kết quả cho thấy ông không hề mắc bệnh phong cùi.
Kể lại câu truyện trên đây, Raoul Folereau muốn nêu bật nỗi khổ tâm của những người mắc bệnh phong cùi. Nỗi đau đớn trong thể xác có lẽ chỉ là một phần nhỏ so với sự ruồng bỏ, mà xã hội ở bất cứ thời đại nào cũng dành cho người phong cùi.
Hôm nay, Chúa Giêsu đã chữa lành cho một người bị bệnh phong cùi vì anh có lòng tin. Anh tiến lại bái lạy Người và nói: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”.
Bệnh phong là bệnh nan y thời ấy. Không ai có thể chữa lành. Bệnh phong giống như người chết, vì bị khai trừ ra khỏi cộng đoàn. Người bệnh phong này có đức tin mãnh liệt. Chỉ có Chúa mới có thể chữa ông. Chúa Giêsu giơ tay đụng vào anh ta và bảo: “Tôi muốn, anh hãy được sạch”. Chúa là Thiên Chúa của sự sống. Chúa dựng nên sự sống, không dựng nên sự chết. Chúa muốn sự sống cho con người. Chúa giơ tay đụng vào người bệnh. Bàn tay yêu thương đụng đến chỗ đau yếu nhất. Ngón tay thần linh ban sự sống. Như ngón tay Thiên Chúa chạm vào ngón tay Adong. Thiên Chúa ban sự sống. Kỳ diệu hơn nữa, Thiên Chúa trả lại sự sống.
Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng đánh đổ được huyền thoại của người đương thời với Ngài về bệnh phong cùi. Thật thế, trong quan niệm của người Do thái lúc đó, bệnh tật là một hình phạt trực tiếp của Thiên Chúa đối với tội lỗi của con người. Người mắc bệnh phong cùi là người đã từng mắc tội ác khủng khiếp đến độ đã bị Thiên Chúa trừng phạt nặng nề. Thế nên, khi bị đẩy ra bên lề xã hội, người phong cùi không những chịu đớn đau trong thể xác, mà còn phải gánh chịu sự tủi nhục do người đồng loại gây ra. Khi chữa lành người phong cùi, Chúa Giêsu muốn nói rằng Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương con người và chính tình yêu là sức mạnh chữa trị bệnh tật cho con người.
Hình ảnh hiền từ và cử chỉ giơ tay chạm vào anh của Chúa Giêsu hôm nay đã làm cho người phong cùi thêm niềm hy vọng, cậy trông và ấm lòng. Vì thế, anh ta đã can đảm tiến lại gần Chúa Giêsu, mặc cho mọi lời dèm pha, khinh khi, nhục mạ. Anh ta tin và đi đến với Chúa Giêsu. Còn Chúa Giêsu đã giơ tay và chạm vào anh ta, khiến anh ta được sạch.
Hành động này của Chúa Giêsu đã xoá tan đi biết bao ngăn cách, đã trả lại cho anh một chỗ đứng trong xã hội, đã phục hồi nhân phẩm cho anh trong cuộc sống còn lại.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta, một mặt biết noi gương người phung cùi, can đảm, tin tưởng và bỏ qua mọi rào cản, để đến với Chúa là mối lợi tuyệt đối và duy nhất của cuộc đời. Mặt khác, cũng mời gọi chúng ta hãy suy nghĩ đến bệnh cùi tâm linh của chúng ta là những ích kỷ, kiêu ngạo, bất nhân và ham danh, trục lợi… Đồng thời, như một lời mời gọi hãy bước theo Chúa Giêsu trên con đường yêu thương, xóa bỏ ngăn cách do kỳ thị…