2024
Rao Giảng Và Chữa Lành Bệnh Tật
3.10 Thứ Năm Thứ Năm trong tuần thứ Hai Mươi-Sáu Mùa Quanh Năm
G 19:21-27; Tv 27:7-8,8-9,13-14; Lc 10:1-12
Rao Giảng Và Chữa Lành Bệnh Tật
Những chỉ thị cho các môn đệ lên đường loan báo Tin Mừng luôn mang tính cách đòi hỏi khẩn thiết và quyết liệt. Dù “lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì thiếu”, Chúa vẫn yêu cầu Hội Thánh của Ngài phải mang tính cộng đoàn nên đã sai các môn đệ đi từng hai người một. Việc loan báo Tin Mừng thật cấp bách, đến nỗi dường như Chúa bỏ qua phép xã giao thông thường: Ngài dặn các môn đệ đừng để phân tán vì những việc chào hỏi vô bổ dọc đường. Lệnh lên đường nói những điều “đừng làm” để nhấn mạnh vào những điều “hãy làm”. Thay vì chỉ “la cà” trên đường thì hãy vào thành, đến các ngôi nhà, nơi tụ họp đông người. Thay vì cậy dựa vào “túi tiền, bao bị, giày dép” là những phương thế vật chất, thì hãy chú tâm vào việc loan báo sứ điệp Tin Mừng, đó là sứ điệp: “Bình an cho nhà này” và “Triều đại Thiên Chúa đã đến gần.”
Chúng ta vừa đọc lại bài tường thuật của thánh sử Luca nói về việc Chúa sai nhóm mười hai Tông Ðồ ra đi rao giảng Tin Mừng và chữa lành bệnh tật. Ðây là cuộc sai đi trước biến cố phục sinh để thực tập, để chuẩn bị cho cuộc sai đi quyết định sau phục sinh, khi đó Chúa sẽ nói với các ông một cách vĩnh viễn: “Mọi quyền hành trên trời dưới đất đã được trao ban cho Thầy. Vậy, các con hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ mọi điều Thầy đã truyền cho các con, và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,18-20).
Hai lần sai đi này, trước và sau Phục Sinh, trước và sau biến cố vượt qua của Chúa Giêsu, rất quan trọng và bổ túc cho nhau. Nếu lần sai đi thứ hai sau Phục Sinh, mà không có lần sai đi thứ nhất trước Phục Sinh thì người ta dễ dàng rơi vào cám dỗ quả quyết rằng, những đồ đệ của Chúa Giêsu tự bày việc cho mình để thành lập cộng đoàn Giáo Hội do sáng kiến riêng chứ không phải do ý muốn của Chúa Giêsu . Ngược lại, nếu lần sai đi thứ nhất trước Phục Sinh mà không có lần sai đi thứ hai sau Phục Sinh thì người ta cũng dễ dàng rơi vào cám dỗ khác nữa, cho rằng Chúa Giêsu đã thất bại trong dự án của Ngài sau khi bị giết chết trên thập giá. Nhưng các sách Phúc Âm đã ghi lại cho chúng ta hai lần sai đi trước và sau Phục Sinh, và điều này làm nổi bật ý định của Chúa Giêsu. Vượt qua giới hạn của thời gian, Chúa đã kêu gọi, huấn luyện và sai các tông đồ ra đi rao giảng Tin Mừng, vì Chúa muốn rằng sứ mệnh rao giảng của Chúa cần được tiếp tục mãi trong thời gian nhờ những con người được mời gọi cộng tác với Chúa, làm công việc của Chúa với những quyền năng do Chúa ban cho.
Hãy làm cho Triều Đại Thiên Chúa mau đến: Ý định muôn đời của Thiên Chúa là làm sao cho mọi người nhận biết và tin vào Đức Kitô, để được hưởng ơn cứu độ. Ý định này không thể hoàn tất bởi một mình Đức Kitô; nhưng là do nỗ lực góp phần của tất cả mọi người. Chính Chúa Giêsu đã chỉ định bảy mươi hai người khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến. Nhiệm vụ của các ông cũng giống như Gioan Tẩy Giả, là chuẩn bị tâm hồn con người sẵn sàng để tiếp rước Đức Kitô.
Trước khi sai đi, Người dặn dò các ông những điều quan trọng: “Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói. Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường.” Mục đích chính mà Chúa sai các môn đệ đi là để rao giảng Tin Mừng, các ông phải loại bỏ tất cả những gì ngăn cản việc rao giảng Tin Mừng, như các cám dỗ: tìm kiếm lợi nhuận của cải vật chất, ăn ngon mặc đẹp, ham uy quyền danh vọng, ngay cả việc tán gẫu nhảm.
Phản ứng của những người nghe giảng Tin Mừng: Người loan báo Tin Mừng là người mang bình an cho dân chúng. Chúa Giêsu dặn các môn đệ: Vào bất cứ nhà nào, trước tiên anh em hãy nói: “Bình an cho nhà này!” Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không thì bình an đó sẽ trở lại với anh em.
Những người tiếp nhận: Trong sự quan phòng của Thiên Chúa, cả người rao giảng lẫn người nghe đều có liên hệ hỗ tương với nhau: nhà rao giảng mang Lời Chúa và sự bình an đến cho dân chúng; để đền bù lại, dân chúng lo sức khỏe cho nhà rao giảng bằng cách cung cấp lương thực và những nhu cầu vật chất. Mỗi người một phần vụ giúp cho việc loan truyền Tin Mừng. Vì lý do này mà Chúa dặn các môn đệ: ”Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia. Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em. Hãy chữa những người đau yếu trong thành, và nói với họ: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông.”
Những người từ chối: ”Nhưng vào bất cứ thành nào mà người ta không tiếp đón, thì anh em ra các quảng trường mà nói: “Ngay cả bụi trong thành các ông dính chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin giũ trả lại các ông. Tuy nhiên các ông phải biết điều này: Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần.” Thầy nói cho anh em hay: trong ngày ấy, thành Sodom còn được xử khoan hồng hơn thành đó.” Từ chối nhà rao giảng Tin Mừng là phải lãnh nhận hậu quả nặng hơn hậu quả của dân thành Sodom. Theo Sáng Thế Ký, thành Sodom đã bị lửa từ trời xuống thiêu rụi thành tro bụi.
Sự hiện diện và sứ mệnh của Giáo Hội qua các thời đại trong lịch sử nhân loại đều nằm trong chương trình của Chúa ngay từ đầu và do ý Chúa muốn, chứ không do sáng kiến của con người. Hơn nữa, chúng ta thấy tác giả Phúc Âm thánh Luca mô tả sứ mệnh của các tông đồ được Chúa sai đi bằng hai cụm từ rao giảng và chữa lành bệnh tật. Nói theo ngôn ngữ ngày nay, chúng ta có thể nói rằng đây là sứ mệnh toàn diện ôm trọn cả con người xác hồn. Rao giảng và chữa lành, công bố sự thật ban ơn cứu rỗi của Chúa và chăm sóc cho cuộc sống phần xác được lành mạnh, đó là cứu rỗi và phát triển luôn đi đôi với nhau. Người đồ đệ của Chúa khi làm công việc của Chúa là công bố sự thật của Chúa, phân phát ơn cứu rỗi đã được Chúa thực hiện. Khi làm công việc này không thể nào lơ là hay đóng kín trước những việc phục vụ cho công cụ phát triển xã hội, phục vụ lợi ích tốt lành cho anh chị em chung quanh. Nhà thờ để thờ Thiên Chúa, nhà thương chăm sóc bệnh nhân, nhà săn sóc người cao niên, nhà học tập cho người trẻ, nhà ở cho người nghèo, nhà cứu trợ cho anh chị em gặp nạn, đó là những nhà, những loại công tác nằm trong sứ mệnh của người đồ đệ của Chúa.
Lịch sử hai ngàn năm qua của Giáo Hội cho thấy những đồ đệ của Chúa còn luôn trung thành với lệnh truyền của Chúa: rao giảng và chữa lành, mặc dù không thiếu những sai sót lỗi lầm mà giờ đây những đồ đệ chân thật của Chúa không ngần ngại ăn năn xin tha thứ và dốc quyết thực hiện tốt đẹp hơn trong tương lai.
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy nhiệm vụ của người Kitô hữu là gì. Chúa Giêsu đã gọi bảy mươi hai môn đệ và sai họ đi từng hai người một để rao giảng Tin mừng. Chúa nói với họ: “Mùa gặt thì nhiều, nhưng người làm việc thì ít. Vậy, hãy xin chủ mùa gặt sai thêm người ra làm việc trong ruộng mình”. Chúa Giêsu muốn chúng ta hiểu rằng, Tin mừng là món quà quý báu mà Chúa ban cho nhân loại. Nhiều người đang khao khát được biết đến Chúa và được sống trong tình yêu của Ngài. Nhưng không phải ai cũng có cơ hội được nghe Tin mừng hoặc được gặp những người sống theo Lời Chúa. Chính vì vậy, chúng ta cần phải là những người truyền giáo, là những người loan báo Tin mừng cho muôn dân.
Để làm được điều đó, chúng ta được mời gọi có lòng tin vào Chúa và sự dũng cảm để chia sẻ niềm tin của mình. Chúa nói với các môn đệ: “Đừng mang theo túi tiền, bao bì hay giày dép”. Điều này có nghĩa là chúng ta không cần phải lo lắng về những vật chất hay những tiện nghi khi loan báo Tin mừng. Chúng ta chỉ cần tin tưởng vào sự che chở của ơn Chúa. Khi có Chúa, chúng ta sẽ có mọi thứ cần thiết để sống và làm việc cho Ngài. Khi có Chúa, chúng ta sẽ được an bình và hạnh phúc trong cuộc sống.
Nhưng trước hết, chúng ta cần phải là những môn đệ trung thành của Chúa. Chúng ta được mời gọi sống theo lời dạy của Chúa, tuân giữ các điều răn của Ngài, thường xuyên cầu nguyện và tham dự các bí tích của Hội thánh. Chúng ta cũng yêu thương Chúa trên hết và yêu thương tha nhân như chính mình. Bởi vì, chỉ khi có Chúa trong mình, chúng ta mới có thể loan báo Tin mừng cho người khác. Chỉ khi sống theo Lời Chúa, chúng ta mới có thể làm chứng cho sự hiện diện của Ngài trong thế giới này.
2024
LẮNG NGHE TIẾNG CỦA THIÊN THẦN
2.10 Thứ Tư Thiên Thần Hộ Thủ
G 9:1-12,14-16; Tv 88:10-11,12-13,14-15; Lc 9:57-62
LẮNG NGHE TIẾNG CỦA THIÊN THẦN
Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người một Thiên thần Hộ thủ để đồng hành với chúng ta, cho lời khuyên và bảo vệ, một thiên thần mà chúng ta nên lắng nghe với sự hiền lành và tôn trọng.
Hôm nay Giáo Hội nhắc nhớ chúng ta về người bạn thân thiết của mỗi người, đó là vị Thiên thần Hộ Thủ của chúng ta. Mỗi người từ giây phút đầu tiên được thụ thai trong lòng mẹ đều được Thiên Chúa cắt cử một vị Thiên thần để che chở hộ phù bằng một cách thế chúng ta không chờ đợi và cũng chẳng tưởng tượng được. Đây là chân lý Giáo Hội muốn nhắc nhở và mời gọi chúng ta chiêm ngắm hôm nay.
Thiên thần hộ thủ luôn luôn bảo vệ chúng ta, đặc biệt là khỏi sự dữ. Đôi khi, chúng ta tin rằng chúng ta có thể giấu diếm nhiều thứ, những sự xấu xa, nhưng đến cuối cùng luôn được phơi bày ra ánh sáng. Thiên thần hộ thủ ở đó để cố vấn cho chúng ta và ‘che chắn cho chúng ta’ như một người bạn. Một người bạn mà chúng ta không thấy nhưng nghe được. Một người bạn đến một ngày sẽ ở cùng chúng ta trong niềm vui bất diệt của Thiên đàng.’
Ngày xưa người ta tin rằng Thiên thần là những thần linh giữ vai trò quan trọng trong việc liên lạc giữa thế giới Thiên Chúa và con người; niềm tin này đã được thấy nói trong Cựu Ước, cho dùng không được giải thích rõ ràng.
Trong Cựu Ước, Thiên thần là sứ giả trợ lực của Thiên Chúa (St 16,7 ; 21,17 ; Xh 14,19 ; 2 V 19,35). Trong những tác phẩm cuối (như sách Đanien) có kể tên các vị Thiên thần; qua tên đó chúng ta thấy được công tác của họ.
Trong Tân Ước, các Thiên thần cũng giữ một vai trò trong đời sống Đức Giêsu và Hội Thánh tiên khởi. Nếu có những sức lực của satan, của ma quỷ, thì cũng có những Thiên thần lành, trợ lực, hướng dẫn và bảo vệ con người. Niềm tin vào Thiên thần Hộ Thủ dựa vào đoạn Tin Mừng Mt 18,10.
Loài người ham muốn vị trí “lớn nhất”, Đức Giêsu lại đẩy về một cực khác, là “nhỏ nhất”. Như thế, Nước Trời là Nước của “trẻ nhỏ” và chỉ có “trẻ nhỏ” mà thôi. Do đó, ai cũng là người “lớn nhất”:
Ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất trong Nước Trời.
Như vậy trong Nước Trời, sẽ không còn sự phân biệt cao thấp hay lớn bé theo kiểu của người đời, như chính Chúa đã sẽ nói rằng, anh em chỉ có một Cha và một Thầy, còn tất cả đều là anh chị em với nhau, ở đời này cũng như ở đời sau (Mt 23, 8-12). Và để các môn đệ đừng hiểu lệch lạc những khái niệm “trẻ nhỏ”, Đức Giêsu đem một em bé tới đặt giữa họ và đồng hóa mình với em nhỏ: Ai tiếp đón em nhỏ này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy.
Chúng ta được mời gọi chiêm ngắm hình ảnh tuyệt đẹp này, được thánh sử Máccô ghi nhận: “Kế đó, Người đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó” (Mc 9, 36). Và Ngài sẽ thực sự trở nên “em bé” đối với Cha và loài người trên Thập Giá. Vì thế, Chúa chữa lành chúng ta không chỉ bằng lời nói quyền năng, nhưng còn bằng cái chết của Ngài trên Thập Giá, vốn cũng là một Lời, “Lời Thập Giá” (1Cr 1, 18).
Các thiên thần sa ngã (Gđ 6; 2Pr 2,4; Kh 12,9), được mô tả trong Kinh thánh như những thần dữ hay ma quỷ (Mc 5,13; Mt 25,41), tìm cách hủy diệt chúng ta (1Pr 5,8). Nếu chúng không thể thuyết phục chúng ta từ bỏ đức tin và lòng trung thành với Đức Kitô, chúng sẽ cố gắng làm cho chúng ta trệch hướng khỏi thực hiện ý Chúa bằng cách làm chúng ta sao lãng với những điều tốt lành làm cho chúng ta mệt mỏi chán chường, hay làm cho chúng ta ra thờ ơ với những việc của Chúa.
Các thiên thần không chỉ là những vị có cánh đến từ trời cao, các ngài ở bên cạnh chúng ta giây phút này đây, các ngài không ngừng hiện diện với chúng ta để nhắc nhở chúng ta về tình yêu của Thiên Chúa, các ngài không ngừng gợi lên trong chúng ta những tâm tình trong sạch và cao quí, và xua đuổi khỏi chúng ta những tư tưởng ám muội, bất chính, để chúng ta lắng nghe tiếng nói của các ngài, chính là để tiến bước trên đường ngay nẻo chính và chúng ta sẽ được hạnh phúc đích thực.
Thiên Chúa ban cho chúng ta sự trợ giúp của các đạo binh thiên thần và ban cho chúng ta những vũ khí thiêng liêng, khiên thuẫn đức tin và áo giáp công chính (Ep 6,1-11), để chống lại ma quỷ và sự lừa dối của nó. Qua ơn sủng Chúa Thánh Thần, chúng ta cũng tham dự với ca đoàn thiên thần trên trời để hát mừng ngợi khen Thiên Chúa. Bạn có cám ơn Chúa về sự hướng dẫn và bảo vệ của Người không?
Các Thiên thần không chỉ là những vị có cánh đến từ trời cao, các ngài đang ở bên cạnh chúng ta trong giây phút này đây, các ngài không ngừng nhắc nhở chúng ta về tình yêu của Thiên Chúa, các ngài không ngừng gợi lên cho chúng ta những tâm tình trong sạch và cao quí cũng như xua đuổi khỏi những tư tưởng mê muội và bắt chính. Chúng ta lại chẳng kinh nghiệm thấy như vậy ngay trong cuộc sống hàng ngày sao ? Những tia sáng làm cho đức tin sống động ? Những tác động bất chợt đưa chúng ta tới sự thánh thiện ? Những phút giây tâm hồn muốn hiến trọn cho Chúa ? Những giây phút thoát hiểm nguy trong đường tơ kẽ tóc…
Nếu biết lắng nghe tiếng nói của các ngài, chúng ta sẽ tiến bước trên đường ngay nẻo chánh và sẽ gặp được hạnh phúc đích thực. Với trang Tin mừng chúng ta suy niệm trong ngày kính nhớ các Thiên thần bản mệnh hôm nay, một lần nữa Giáo hội mời gọi chúng ta mặc lấy tâm tình của trẻ thơ.
Trẻ thơ luôn biết ngạc nhiên và ngây ngất trước những điều kỳ diệu của cuộc sống, trẻ thơ thích nghĩ đến chuyện thần tiên. Thế giới của người lớn cũng còn là thế giới thần tiên, bởi vì mỗi người đểu có một Thiên thần bản mệnh gìn giữ bao bọc và hướng dẫn. Thế giới ấy sẽ thực sự thần tiên khi con người biết lắng nghe sự hướng dẫn của vị Thiên thần hộ mệnh và cảm nghiệm được tình yêu bao bọc chở che của Thiên Chúa. Hãy để cho Thiên Chúa yêu thương, còn gì đơn sơ cho bằng những giây phút ấy.
Thiên Thần Hộ Thủ không ngừng nhắc nhở chúng ta về tình yêu của Thiên Chúa, các ngài không ngừng gợi lên cho chúng ta những tâm tình trong sạch và cao quý cũng như xua đuổi khỏi những tư tưởng tội lỗi, mê muội và bất chính. Nếu biết lắng nghe tiếng nói của các ngài qua tiếng lương tâm, chúng ta sẽ tiến bước trên đường ngay nẻo chính và sẽ gặp được hạnh phúc đích thực
2024
YÊU CHÚA VÀ THA NHÂN NHƯ TERESA HÀI ĐỒNG GIÊSU
1.10 Thứ Ba Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, Đtts
G 3:1-3,11-17,20-23; Tv 88:2-3,4-5,6,7-8; Lc 9:51-56
YÊU CHÚA VÀ THA NHÂN NHƯ TERESA HÀI ĐỒNG GIÊSU
Trong số những vị tiến sĩ Hội Thánh, thánh Têrêsa Giêsu Hài Ðồng và Thánh Nhan, là vị trẻ nhất, nhưng con đường thiêng liêng cho thấy là thật trưởng thành, và những trực giác đức tin được diển tả trong các tác phẩm của thánh nữ, là thật bao la rộng rải và sâu xa, đến độ làm cho thánh nữ có được chổ đứng của mình giữa những bậc thầy thiêng liêng vĩ đại.
Trong tình yêu hăng say đối với công cuộc rao giảng Phúc âm, thánh Têrêsa chỉ có một lý tưởng mà thôi, như chính thánh nữ đã nói như sau: Ðiều mà chúng ta xin Chúa, là được làm việc cho danh Chúa được cả sáng, là yêu mến Chúa và làm cho Chúa được yêu mến” (thơ 220). Con đường mà thánh nữ đã đi qua để đạt đến lý tưởng sống nầy, không phải là con đường của những công việc to lớn, được dành riêng cho một số ít, nhưng ngược lại là con đường vừa tầm tất cả mọi người, con đường nhỏ, con đường của sự tin tưởng và phó thác hoàn toàn chính mình cho ân sũng của Chúa.
Ðây không phải là con đường tầm thường, bị hạ thấp xuống, như thể đây là con đường ít đòi hỏi hơn. Trong thực tế, đây là con đường rất đòi hỏi, như Tin Mừng Chúa luôn luôn là một điều đòi hỏi. Ðây là con đường trong đó người ta được thấm nhuần trong ý thức phó thác đầy tin tưởng vào tình thương nhân từ của Thiên Chúa, Ðấng làm cho nhẹ đi cả sự dấn thân thiêng liêng nghiêm khắc nhất.
“Tôi thích chấp nhận sự buồn tẻ của việc hy sinh âm thầm hơn là trải qua những trạng thái xuất thần. Nhặt một cây kim vì tình yêu cũng có thể hoán cải một linh hồn.” Ðó là những lời của thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu, một nữ tu dòng Camêlô thường được gọi là “Bông hoa nhỏ,” người đã sống một đời âm thầm trong tu viện ở Lisieux, nước Pháp.
Quả thế, những hy sinh âm thầm của ngài đã hoán cải các linh hồn. Không mấy vị thánh của Thiên Chúa nổi tiếng như vị thánh trẻ trung này. Cuốn tự truyện của ngài, Chuyện Một Linh hồn, được cả thế giới đọc và yêu chuộng. Tên thật của ngài là Thérèse Martin, gia nhập tu viện năm 15 tuổi và từ trần năm 1897 lúc 24 tuổi.
Ðời sống tu viện dòng kín Camelô không có sức cuốn hút bởi các biến cố lớn, mà phần lớn chỉ gồm sự cầu nguyện và làm các công việc trong nhà. Nhưng thánh Têrêsa có được trực giác sâu sắc về sự thánh thiện của những bông hoa tình yêu nhỏ bé để cứu chuộc quãng thời gian thường ngày ấy, bất kể có nhàm chán đến đâu. Ngài nhìn thấy sự đau khổ có khả năng cứu chuộc trong chính sự đau khổ âm thầm, sự đau khổ chính là sứ mạng tông đồ của ngài. Thánh nữ nói ngài gia nhập tu viện Camêlô là “để cứu vớt các linh hồn và cầu nguyện cho các linh mục.” Và không lâu trước khi chết, ngài viết: “Tôi muốn dùng thời gian ở thiên đàng để làm những điều tốt lành cho trần gian.”
Thánh Têrêsa quả rất xứng đáng được tôn phong hiển thánh ,làm bổn mạng các xứ truyền giáo và là tiến sĩ Hội Thánh như lời Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói:”.Tôi muốn long trọng loan tin về việc tôn phong tiến sĩ tại Roma ngày 19.10.1997 vì sứ điệp của thánh nữ Têrêsa,vị thánh trẻ rất hiện diện trong thời đại chúng ta,đặc biệt thích hợp với giới trẻ các con. Nơi trường Phúc Âm,thánh nữ mở cho các con sự trưởng thành Kitô giáo.Thánh nữ mời gọi các con hãy có lòng quảng đại vô biên;Ngài mời gọi các con ở lại trong tấm lòng Giáo Hội như những môn đệ và chứng nhân trung thành của tình Yêu Chúa Kitô “.
Và ta thấy sống trên đời, ai cũng muốn tìm cho mình một chỗ đứng, khẳng định cho mình một vị thế trong xã hội. Đó là chuyện rất thường tình trong xã hội và nó cũng len lỏi vào trong suy nghĩ của các tông đồ. Chính vì vậy, các ông đã đến hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy ai là người lớn nhất trong Nước Trời?” Hẳn khi hỏi câu hỏi này không phải các ông muốn mở rộng kiến thức nhưng là hy vọng sẽ có tên của mình trong hàng ngũ những người lớn nhất trong Nước Trời mai sau.
Trước sự chờ đợi và mong ngóng của các môn đệ, Chúa Giêsu lại nói: “Nếu anh em không trở lại nên như trẻ nhỏ thì sẽ chẳng được vào Nước Trời”. Câu trả lời của Chúa khiến các ông sửng sốt và hơi thất vọng vì Chúa đã không đi thẳng vào trọng tâm câu hỏi của các ông. Đồng thời nảy sinh nơi các ông một thắc mắc lớn là làm sao một người lớn thế này có thể trở lại như một trẻ nhỏ? Thật ra, Chúa không bảo các ông trở lại trẻ nhỏ về phương diện thể chất nhưng là trở nên bé nhỏ thật sự về mặt tinh thần.
Được vào Nước Trời ắt hẳn là khao khát của mỗi người chúng ta nhưng nếu chúng ta không trở lại nên như trẻ nhỏ thì khó có thể mà vào được. Biết là thế nhưng mấy ai đã tín thác hoàn toàn vào Chúa như một trẻ nhỏ. Theo Chúa thật nhưng chúng ta sợ nhiều điều, sợ mình bé nhỏ sẽ bị người ta bắt nạt, sợ khiêm nhường sẽ bị người ta coi thường.
Tin Mừng hôm nay là một sự khích lệ cho mỗi người hãy can đảm biến đổi con người “già nua, chai sạn” để tâm hồn được trẻ hoá, trở nên như một đứa trẻ đơn sơ, ngoan ngoãn, thật sự nhỏ bé trước Thiên Chúa và khiêm tốn trước mọi người. Để rồi từ đó luôn ý thức thân phận mỏng manh, yếu ớt của bản thân nên chỉ còn biết cậy dựa vào một mình Chúa như một trẻ thơ hạnh phúc và bình an khi nép bên lòng mẹ.
Têrêsa đã hiểu được bí quyết nên thánh theo thánh kinh:” trở nên người lớn nhất phải trở nên bé nhỏ nhất”. Đây là kinh nghiệm sống của Têrêsa trong cuộc sống hằng ngày. Con đường nên thánh của Người là con đường thơ ấu thiêng liêng. Muốn đi con đường ấy, bí quyết thật giản dị: “ Hãy dâng mình yêu Chúa, hãy chấp nhận đau khổ hy sinh vì Chúa, hãy chia sẻ tâm tình của Chúa cứu độ đang đau khổ trong các chi thể của Hội Thánh để cứu rỗi thế gian”.
Hãy yêu Chúa và yêu tha nhân thật nhiều. Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đang mời gọi mọi người nên thánh bằng con đường tình yêu, con đường thơ ấu thiêng liêng…Nên thánh không phải là làm những việc vĩ đại, nhưng con người trở nên thánh bằng con đường nhỏ bé thiêng liêng. Têrêsa đã ví chiếc thang máy bác lên Trời là tình yêu. Con người chỉ có thể đạt được Nước Trời khi họ sống bé nhỏ và yêu thương
2024
BÁO TRƯỚC CÁI CHẾT
28.9 Thứ Bảy trong tuần thứ Hai Mươi-Năm Mùa Quanh Năm
Gv 11:9-12; Tv 90:3-4,5-6,12-13,14,17; Lc 9:43-45
BÁO TRƯỚC CÁI CHẾT
Có thể nói tất cả các vấn nạn của con người đều được gắn liền với khổ đau. Và cũng vì không chấp nhận khổ đau mà con người gây ra bao tội ác khác: vì không muốn đối diện với thực tại khổ đau mà người ta tìm quên trong men rượu, ma túy và mọi thứ kích thích khác; vì không muốn chấp nhận những hệ luỵ của việc sinh ra một người con mà người ta đang tâm huỷ diệt những bào thai vô tội; vì không chấp nhận những đau khổ của tuổi già, bệnh tật mà người ta tìm đến giải pháp an tử… Không chấp nhận đau khổ, không đón nhận với lòng mến thì hậu quả là thế đấy. Các môn đệ Đức Giêsu cũng đã không muốn chấp nhận một Đức Kitô chịu đóng đinh thập giá mặc dù Ngài đã hé lộ cho họ thấy niềm hy vọng Phục sinh đằng sau cái chết trên thập giá đó.
Sống trên cuộc hồng trần này, mầu nhiệm về khổ đau luôn là điều bí nhiệm. Các nhà hiền triết, các bậc thánh nhân, các nhà tiên tri và tri thức thần bí… từ ngàn đời đã trăn trở tìm kiếm để cho đau khổ một ý nghĩa. Sách sáng thế cho thấy đau khổ là hậu quả tất nhiên của tội lỗi, của việc con người không vâng phục những lời dạy bảo của Thiên Chúa, hay nói khác đi đầu mối của nó chính là sự kiêu ngạo, bất tuân đường lối, thánh ý Người.
Đối với niềm tin Ki-tô của chúng ta, đau khổ còn luôn có một giá trị trong việc tìm kiếm và thi hành thánh ý Chúa – thánh ý đã muốn cho con người được hạnh phúc nhờ sống yêu thương như chính Thiên Chúa là tình yêu. “Đang lúc mọi người còn bỡ ngỡ về tất cả các việc Chúa Giêsu làm, thì Người phán cùng các mộn đệ rằng: “Phần các con, các con hãy ghi vào lòng những lời này là: Con Người sẽ phải bị nộp vào tay người đời”” (c. 43b – 44).
Người ta bỡ ngỡ, kinh ngạc về điều gì? Chúng ta hãy đọc lại những trình thuật bên trên của cùng chương 9: Sau lời tuyên tín của thánh Phê-rô: “Ngài là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa” (Lc 9, 20b), Đức Ki-tô “tiên báo cuộc thương khó lần nhất”; Khoảng tám ngày sau, Ngài hiển dung trên núi cao (Ta-bo) (x. Lc 9, 28 – 36); rồi hôm sau, Đức Giê-su chữa lành bệnh đứa trẻ bị bệnh kinh phong khiến mọi người đều kinh ngạc trước quyền năng cao cả của Thiên Chúa (x. Lc 9, 37 – 43) – và chính lúc này đây, Đức Giê-su “tiên báo cuộc thương khó lần hai” cho các môn đệ, nhưng “các ông vẫn không hiểu.” Tin mừng nói “các ông không hiểu, vì nó còn bị che khuất” (mắt các ông còn bị ngăn cản).
Tại sao mắt các ông lại bị ngăn cản? Thưa, vì những vinh quang đã làm mờ mắt các ông. Dù gì khi theo Đức Giê-su, các môn đệ hiển nhiên vẫn có những tính toán; như Phê-rô đã có lần thưa với Đức Giê-su: “Thưa thầy, chúng con đã bỏ tất cả mọi sự mà theo thầy, chúng con sẽ được gì?” (Mt 19, 27). Cũng thế, khi tuyên xưng Đức Giê-su là “Đấng Ki-tô của Thiên Chúa”, trong lòng các môn đệ vẫn mơ đến một Đấng Ki-tô – Messia của trần thế ‘đầy quyền lực và vinh quang’ sẽ khôi phục và làm cho Israel trở thành tiếng tăm lẫy lừng; và điều hiển nhiên là các ông sẽ có một tương lai huy hoàng với chức tước và bổng lộc vì lý do đó mà “Mắt các ông bị ngăn cản!” Và điều Đức Giê-su nói: “Con Người sẽ phải bị nộp vào tay người đời” (c.44b) khiến các ông không thể hiểu được, “không thể lĩnh hội được”.
Không chỉ với các môn đệ, ngày nay đối với chúng ta, đau khổ, thập giá vẫn luôn là điều khó hiểu. Nhất là chúng ta không thể hiểu nổi tại sao người công chính cứ gặp gian nan, khốn khó, thất bại và bị bách hại, còn phường gian ác lại cứ nhởn nhơ sung sướng.
Hơn nữa, trước mặt người đời, Thập giá luôn là điều khờ dại; vì con người sự thường ai mà không thích thảnh thơi, dễ dãi, ai mà không thích được thành đạt, ca ngợi, tôn vinh, ai mà không thích sung sướng, vui vẻ…. Nhưng Đức Giê-su đã cho thấy một chân lý khác – chân lý của “một hạt lúa mì không thể sinh hoa kết trái nếu không phải chịu mục nát và thối rữa đi” và có “gieo trong lệ sầu mới gặt trong hân hoan vui sướng”.
Chính vì vậy mà khi các môn đệ đang phơi phới hân hoan, và mơ tưởng những ‘vinh quang phù phiếm’ thì Đức Giê-su tuyên bố: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời”; Đồng thời người cho biết ai muốn làm môn đệ bước theo dấu chân Người không thể không ôm ẵm, vác thập giá hằng ngày mà đi theo Người. (x.Lc 9, 23). Các môn đệ đã không hiểu không dám hỏi và cũng chẳng muốn đối diện với điều xem ra ‘ngược đời’ ấy. Và chỉ Thần khí của Đấng phục sinh – Thánh Thần của Thiên Chúa mới làm cho các môn đệ hiểu để rồi như Đức Giê-su các ngài đã giơ tay ôm ẵm Thập giá để loan truyền Tin mừng tình yêu của Thiên Chúa.
Như các môn đệ sau biến cố ‘vượt qua và Phục sinh’, chúng ta hãy cầu xin Chúa Thánh Thần mở trí, mở mắt tâm hồn để hiểu được con đường thập giá tình yêu mà Đức Giê-su đã chọn để làm giá cứu chuộc muôn người;
Đồng thời xin Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta đủ tình yêu và sức mạnh để đi trọn con đường thử thách gian nan; Bởi vì như thánh Phao-lô, người đã coi cuộc đời này là một trận chiến, một thao trường mà chúng ta phải chiến đấu để dành cho được ngành lá thiên tuế – ngành lá chiến thắng; Do đó mà không có sự dễ dãi, thoải mái hay hưởng thụ ích kỷ cho người môn đệ. Nhưng hạnh phúc đích thực chỉ có cho người biết gieo rắc tình yêu thương, Mà đường yêu thương là con đường hy sinh và dâng hiến.
Người tín hữu hôm nay cũng vậy, chỉ muốn thấy Giáo hội ‘hoành tráng’, chỉ mong ‘Chúa ra tay dẹp tan phường gian ác’, và vì thế mà thập giá của Đức Giê-su lần hồi trở nên xa vời, khó được đón nhận. Nhiều khi bạn và tôi đang phấn khởi vì những niềm vui và những thành công, thì thình lình, đau khổ và thất bại ập đến. Không phải Chúa làm chúng ta ‘mất hứng,’ mà Ngài đang dẫn chúng ta trở lại đúng con đường của mình.