2024
NGƯỜI KHÔN XÂY NHÀ TRÊN ĐÁ
27.6 Thứ Năm trong tuần thứ Mười Hai Mùa Quanh Năm
2 V 24:8-17; Tv 79:1-2,3-5,8,9; Mt 7:21-29
NGƯỜI KHÔN XÂY NHÀ TRÊN ĐÁ
Chúa Giê-su khẳng định giá trị đích thực của một con người chỉ được xác định qua việc người ấy nghe lời Chúa rồi có biết đem ra áp dụng, thực hành trong cuộc sống của mình hay không? Chúa Giê-su đã “minh họa” một cách sống động và thiết thực qua hình ảnh “ngôi nhà và mưa gió dông bão” . Khi căn nhà được xây trên một nền tảng vững chắc thì tính mạng con người và của cải trong căn nhà đó sẽ được bảo đảm, vì cho dù thời tiết có khắc nghiệt; mưa có to, gió có lớn thế nào đi chăng nữa thì cũng không sao, bởi căn nhà đó đã được dựng xây trên đá tảng. Ngược lại những ai khi nghe lời Chúa rồi bỏ đó, nghe tai nọ lọt sang tai kia là xong, thì hình ảnh tan hoang của căn nhà không chân móng sụp đổ sau cơn dông tố sẽ là hoàn cảnh của họ.
Hôm nay, Đức Giêsu đưa ra hình ảnh người xây nhà. Nếu người xây nhà khôn ngoan, kinh nghiệm thì sẽ xây nhà mình trên nền đá, còn nếu thiếu khôn ngoan và hiểu biết thì sẽ xây nhà trên những thứ tạm bợ. Tiếp theo, Ngài đưa ra hình ảnh của những trận mưa lớn và nước dâng. Hậu quả là những ai xây nhà trên nền đá sẽ vững vàng, còn xây trên cát sẽ sụp đổ tan tành.
Hình ảnh của người xây nhà trên đá chính là hình ảnh của những người trung thành với giáo huấn của Chúa và tuân theo. Họ gắn bó ngôi nhà cuộc đời của họ trên nền tảng Lời Chúa, gắn bó trong Chúa, nên không có gì và không ai có thể phá đổ được họ.
Còn hình ảnh những người xây nhà trên cát, chính là những người làm việc đạo đức vì hình thức, chiếu lệ, chứ không dựa trên nền tảng Lời Chúa, vì thế họ là những người thất bại tan tành. Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận cũng nói về những hạng người giả hình này như sau: “Ðường Hy vọng dài thăm thẳm, Con đừng làm ‘Thánh lâm thời’: Phong ba dồn dập, nước sơn sẽ phai nhạt và tượng thánh sẽ hiện hình quỷ” (ÐHV. 44).
Chúng ta muốn xây nhà thì phải có nền móng, cột bê tông để nhà thêm vững chắc, trước phong ba bão tố, lụt lội có thể trụ vững… Cho nên ông bà ta có dạy: “Nhà có nền ắt phải vững” (Tục ngữ).
Lời khuyên của cha ông về nhà xây trên nền vững đưa chúng ta về với bối cảnh Tin Mừng Mt 7,21-27: “Nhà xây trên nền đá và nhà xây trên cát”. Nhà ở đây là tượng trưng cho cuộc đời, tượng trưng cho ý nghĩa nơi nương thân cả cuộc sống trong Chúa. Nếu như ngôi nhà vật chất cần được xây dựng trên nền móng bê tông bền vững như đá tảng để có thể đứng vững trước phong ba bão tố lũ lụt…, thì cuộc sống nhân sinh cũng phải được xây dựng trên nền móng đá vững chắc, nền móng đó là niềm tin, tin vào chính Thiên Chúa. Niềm tin vào Ngài là lắng nghe lời Ngài và đem ra thực hành như Chúa Giêsu đã dạy: “Ai nghe những lời Ta nói đây và đem ra thực hành, thì giống như người khôn ngoan, đã xây nhà mình trên đá; mưa có đổ xuống, nước có tràn vào, gió bão có thổi đến và lùa vào nhà đó, nhà vẫn không sập, vì nhà ấy được xây trên nền đá” (Mt 7,24-25). Nghe lời Thầy đem ra thực hành là tạo nền móng vững chắc cho cuộc sống, vì thế Chúa Giêsu đã nói: “Phúc cho ai nghe lời Chúa và đem ra thực hành” (Lc 11,28).
Tin Mừng nhắc nhớ chúng ta hãy tìm lại Đức Kitô là nơi nương náu, là nền móng để chúng ta xây cuộc đời như Thánh Vịnh đã cất tiếng ca nguyện: “Xin Chúa trở thành núi đá cho con trú ẩn” (Tv 30,3b). Xây nhà của kiếp nhân sinh trên đá là khi nghe và sống Lời Chúa, chúng ta hãnh diện xác tín vào Đức Kitô – Đá tảng. Với niềm tin mà chúng ta sống khởi sắc vui tươi. Dựa trên chính Đức Kitô không thể hoài nghi là tiến bước hy vọng trong cuộc đời, không hề thất vọng trước những chờ đợi nơi Thiên Chúa
Xây cuộc sống của kiếp nhân sinh trên đá tảng đó là đứng vững trong đức tin. Tất cả những hoài nghi, ngập ngừng của niềm tin đặt vững vàng trên Đá tảng – Đức Kitô – “Người là đá tảng vững vàng, ở bên Thiên Chúa tôi hằng ẩn thân” (Tv 62,8).
Chính vì thế, chúng ta đặt nền móng đời của kiếp nhân sinh nơi Đức Kitô như Thánh Phaolô đã dạy: “Vì không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Ðức Giêsu Kitô” (1Cr 3,11).
Trên thế giới ngày nay, có nơi người ta ra sức vận động, cổ súy để xây dựng một thứ đạo đức dựa theo tiêu chuẩn của những con người mà họ cho là thần tượng, thành đạt… Thiết nghĩ việc làm này chẳng khác chi việc xây dựng một ngôi nhà trên cát, rồi sẽ có ngày bị mưa dông nước lũ cuốn trôi.
Thánh Phaolô dạy rằng: “Anh em hãy bắt chước tôi như tôi bắt chước Chúa Kitô” (1Cr 11,1). Như vậy mọi chuẩn mực đạo đức được xây dựng đều phải dựa vào và phát triển từ tâm điểm là Đức Ky-tô. Cụ thể là phải nghe lời Chúa và đồng thời mang ra thực hành. Làm được như thế thì chúng ta đã xây dựng căn nhà của mình trên nền đá tảng. Và như vậy thì căn nhà đó mới có khả năng chống chịu, vượt qua mọi cơn thử thách như mưa giông, bão tố trong cuộc đời.
2024
HÃY TRỞ NÊN “QUẢ TỐT”
HÃY TRỞ NÊN “QUẢ TỐT”
Chúa Giêsu bảo các môn đệ phải coi chừng tiên tri giả: bề ngoài thì họ giả bộ hiền lành như con chiên, nhưng thật sự họ ác ôn như sói dữ. Muốn biết họ thật giả, cần phải xem cách sống họ có phù hợp với giáo huấn của Chúa không? Vì cây tốt thì sinh trái tốt, cây xấu thì sinh trái xấu. Cũng vậy, người tốt thì lời nói việc làm của họ cũng tốt, còn kẻ bê tha thì lời nói việc làm của họ cũng bê bối. Vì lòng đầy tràn thì sẽ thổ lộ ra bên ngoài bằng lời nói, việc làm và đời sống hằng ngày.
Lời Chúa hôm nay dạy cách nhận định khách quan. Nhưng trước hết ta cần lưu ý rằng lời dạy này không mâu thuẫn với lời dạy hôm thứ hai là đừng đoán xét người khác. Đoán xét là chỉ mới thấy một số hiện tượng đã vội kết luận và kết án. Còn nhận định khách quan là căn cứ vào kết quả để biết con người. Đoán xét dễ chủ quan, còn nhận định thì phải khách quan. Đoán xét đưa đến việc lên án người khác, còn nhận định chỉ để rút ra suy nghĩ và chọn lựa cho chính mình. Trong cuộc sống, ta không nên đoán xét nhưng phải khôn ngoan nhận định cách khách quan. Nhận định khách quan dựa trên tiêu chuẩn “Xem quả biết cây”.
Tiên tri theo đúng nghĩa là người nói thay Thiên Chúa, là người chỉ nói những gì Thiên Chúa truyền, và đôi khi biến cả đời mình thành sứ điệp của Thiên Chúa. Đó là trường hợp của Giêrêmia khi ông khoác vào người một cái ách và đi giữa phố chợ, để gây ý thức nơi dân Israel về cái ách tội lỗi đang đè nặng trên họ. Đó cũng là trường hợp của Hôsê khi ông cưới một cô gái điếm để tố cáo sự bất trung của dân chúng.
Tiên tri giả là người nhân danh Thiên Chúa để nói những gì không phải là của Chúa và có cuộc sống không phù hợp với sứ điệp của Chúa. Chúa Giêsu đã so sánh tiên tri giả với một thứ cây xấu, cây xấu chỉ có thể sinh trái xấu, và người ta có thể xem quả để biết cây.
Để phân định ai là tiên tri giả, ai là tiên tri thật, chúng ta hãy dựa vào tiêu chuẩn này: Có tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Chúa như đức tin tông truyền từ các Tông đồ dạy không? Càng ngày càng xuất hiện nhan nhản những kẻ xưng mình là “thị nhân”, là “con gái yêu”, là “tiên tri thật”, là “được Chúa sai đi” rồi tự cho mình được “mạc khải”, nhưng thực tế lại rao truyền điều đi ngược lại với đức tin tông truyền mà Chúa Giêsu giao cho các Tông đồ truyền lại cho Giáo hội. Chẳng hạn, trong những năm gần đây có cái gọi là “Sứ điệp từ trời” của một phụ nữ tự xưng là “con gái yêu” của Chúa, rao truyền những điều nghịch đức tin, dựa theo những con số tượng trưng trong Thánh kinh rồi giải thích theo nghĩa đen, lên án Giáo hội trong công đồng Vatican II, bất phục và không tin vào sự kế vị hợp pháp của Đức Thánh Cha… Như thế, chính cái gọi là sứ điệp ấy tự mâu thuẫn với lời Chúa dạy.
Người Kitô hữu nhờ phép rửa cũng tham dự vào chức vụ tiên tri của Đức Kitô. Một cách nào đó, qua ngôn từ và hành động, cuộc sống của họ cũng phải là một sứ điệp của Thiên Chúa cho những người chung quanh. Nếu cuộc sống người Kitô hữu không đủ sức là một sứ điệp của Thiên Chúa, thì hẳn người đó cũng có thể bị coi là một tiên tri giả. Như vậy, tiên tri giả hay Kitô hữu giả là người thiếu sự thống nhất hòa hợp giữa niềm tin và cuộc sống. Người Kitô hữu giả là người mang danh hiệu Kitô, nhưng lại không sống những cam kết của mình. Đó là người chỉ đóng khung niềm tin của mình trong bốn bức tường nhà thờ, mà không thể hiện niềm tin ấy trong cuộc sống hằng ngày qua những gặp gỡ với tha nhân. Đó là người không muốn sống như Đức Kitô, nhưng chỉ buông theo con người cũ của những xu hướng tội lỗi.
Chúa Giêsu tỏ lòng cảm thông và tha thứ cho những yêu hèn và vấp ngã của con người, nhưng Ngài không hề dung chấp cho thái độ giả hình của những người Biệt phái. Ngài gọi họ là những tiên tri giả, những người đội lốt chiên mà bên trong là lòng dạ của sói dữ. Họ trưng bày một bộ mặt đạo đức, nhưng cuộc sống của họ gồm toàn những hành động xấu xa.
Nhiều người tỏ ra bị sốc khi nghe câu tuyên bố của Đức Giêsu: “… cây tốt thì sinh trái tốt, còn cây xấu thì sinh trái xấu. Cây tốt không thể sinh trái xấu, và cây xấu không thể sinh trái tốt”. Thật ra, trong thực tế, vẫn có nhiều người “gần mực mà không đen”, hay “gần đèn mà chẳng rạng”!
Tuy nhiên, điều mà Đức Giêsu nói ở đây đó là hãy biết cách nhận định khôn ngoan chứ không phải xét đoán hời hợt hay mang sẵn lòng hận thù hoặc tính kiêu ngạo. Nhận định tức là căn cứ vào kết quả để biết con người một cách khách quan. Tiêu chuẩn là: “Xem quả biết cây”.
“Cây” ở đây chính là mình, còn “hoa, lá, cành” chính là những việc đạo đức như: dâng lễ, kinh sách, cầu nguyện, tham gia các hội đoàn và những việc lành khác…. Còn “quả” ở đây chính là gương sáng, hy sinh, yêu thương, tha thứ…, tức là từ bi – bác ái, yêu Chúa hết lòng và thương yêu anh chị em cách chân thành.
Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều người trong chúng ta lại có quá nhiều “hoa, lá, cành”, mà “quả” thì không có, hay có nhưng lại bị “sâu”. Tức là hăng say làm việc chỉ vì ham danh, huênh hoang, tự phụ, ích kỷ nên không thể sinh ra “quả” tốt được. Những người đó họ làm mọi việc vì thực dụng cá nhân, không vì yêu mến Chúa và tha nhân, nên họ chẳng khác gì chiếc phèng la kêu inh ỏi, nhưng bên trong thì rỗng tuếch.
Thánh Phaolô cũng khuyên dạy tín hữu thành Corintô như sau: “Giả như tôi nói được các thứ tiếng, giả như tôi được ơn tiên tri như tôi có đem hết tài sản mà bố thí mà không có đức mến thì cũng chẳng có ơn ích gì cho tôi” (x. 1 Cr 13,1-3). Vì thế: “Không phải những ai nói: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời, mà chỉ những ai thực hành ý Chúa mới được vào mà thôi”.
Muốn làm được điều đó, chúng ta phải trở nên những tiên tri thật của lòng mến, chứ đừng trở nên tiên tri giả của tham sân si. Hãy trở nên con chiên hiền lành của Chúa chứ đừng trở nên sói dữ. Không được mang danh và hình ảnh của chiên, nhưng thực ra chỉ là mặt chiên, mà là dạ sói!
2024
KHUÔN VÀNG THƯỚC NGỌC
25.6 Thứ Ba trong tuần thứ Mười Hai Mùa Quanh Năm
2 V 19:9-11,14-21,31-36; Tv 48:2-3,3-4,10-11; Mt 7:6,12-14
KHUÔN VÀNG THƯỚC NGỌC
Chúa Giêsu đưa ra khuôn vàng thước ngọc về bổn phận của mọi người đối với tha nhân. Sự độc đáo nơi nguyên tắc của Ngài: không chỉ không làm những điều tiêu cực, mà còn phải làm những điều tích cực, điều tốt cho anh em, nghĩa là sống bác ái, cho đi với tất cả với lòng quảng đại và yêu mến.
Qua hình ảnh con đường hẹp, cửa hẹp, Chúa Giêsu dạy ta phải khước từ những quyến rũ bất chính của cuộc sống để được vào Nước trời. Muốn theo Chúa Giêsu, chúng ta phải phấn đấu với chính mình và đi trên con đường Ngài đã đi, đó là con đường khổ giá.
Chớ phạm thánh: “Của thánh, đừng quăng cho chó; ngọc trai, chớ liệng cho heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi quay lại cắn xé anh em”. Với lời dạy này Chúa Giêsu, trước hết, được hiểu là Bí tích không thể phát bừa bãi cho kẻ không tin và không có ý ngay lành. Lời này cũng là một sự nhắc nhở cho chúng ta sự cẩn trọng đối với đồ thánh, nơi thánh và tất cả những gì liên quan tới phụng tự. Vì những gì dành cho việc phụng thờ Thiên Chúa là Đấng chí thánh thì cần được trân trọng và gìn giữ. Đặc biệt, mọi Kitô hữu luôn ý thức mình đã được hiến thánh khi chịu các Bí tích, thì hãy luôn giữ mình trong sạch để xứng đáng là nơi thánh cho Thiên Chúa ngự, và xứng đáng đến tham dự cử hành các mầu nhiệm thánh trong đạo.
Khuôn vàng thước ngọc. Trước Chúa Giêsu, sách Tôbia cũng đã viết: “Điều gì con không thích thì cũng đừng làm cho ai cả” (Tb 4, 15). Khổng Tử cũng trả lời cho một đệ tử: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”, nghĩa là điều gì con không muốn thì đừng làm cho người ta. Triết gia Aristote cũng dạy: “Đừng làm lại những điều người khác làm cho ngươi nổi giận”.
Tuy nhiên, các hiền nhân xưa chỉ nói theo mặt tiêu cực. Còn Chúa Giêsu khuyên bảo theo cách tích cực: “Điều gì các ngươi muốn người ta làm cho mình, thì chính các ngươi hãy làm cho họ trước”. Đó là khuôn vàng thước ngọc của Kitô giáo và là “kim chỉ nam” cho những ai theo Chúa. Thật vậy, đừng làm điều ác mà thôi thì chưa đủ, nhưng chỉ khi nào mọi người bắt tay làm điều thiện, làm điều mình muốn người khác làm cho mình, lúc đó xã hội mời hy vọng tốt đẹp được (Hiền Lâm).
Phải đi qua cửa hẹp. Có những con đường chẳng ai muốn đi, bởi vì nó chật hẹp, đầy chông gai. Bởi vì thường người ta muốn đi trên những con đường thênh thang, êm ái, muốn hưởng thụ một cuộc sống đầy tiện nghi, thoải mái. Biết bao nhiêu phát minh khoa học kỹ thuật đều nhằm thỏa mãn khát vọng đó. Thế mà Chúa Giêsu giới thiệu với chúng ta con đường hẹp, con đường ít người muốn đi: “Cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” (Mt 6, 14).
Cửa hẹp và đường chật chẳng ai thích đi, trừ phi họ được Thiên Chúa dẫn vào. Thời Xuất hành, nếu dân Israel không trải qua cảnh cùng cực bên Ai cập, làm sao họ chịu vào sa mạc để tìm về Đất hứa? Kể cả Chúa Giêsu, Ngài cũng từng được Thần khí dẫn vào sa mạc để chịu thử thách (Mt 4, 1), Ngài cũng xin Chúa Cha cất cho Ngài khỏi chén đắng (Mt 26, 42).
Phải cộng tác với Chúa. Để có được những thiện hảo đời này hẳn nhiên không thể thiếu sự cố gắng nỗ lực. Cũng vậy để có hạnh phúc vĩnh cửu thì sự nỗ lực hoàn thiện bằng đời sống đạo đức càng phải trổi vượt hơn gấp bội. Thật thế, Thiên Chúa chuẩn bị cho ta ơn cứu độ, dọn sẵn cho ta Nước trời, nhưng Thiên Chúa muốn con người cộng tác để đạt cùng đích ấy, như thánh Augustinô nói: “Thiên Chúa dựng nên ta Ngài không cần ta, nhưng để cứu chuộc ta Ngài cần ta cộng tác”.
Dĩ nhiên để đạt tới ơn cứu độ và hưởng Nước trời không phải chỉ do sức riêng chúng ta tự nỗ lực, nhưng cần đến sự trợ giúp của ơn Chúa (khác với tự thân nỗ lực giải thoát trong Phật giáo). Việc đi qua cửa hẹp chính là sự hy sinh mỗi ngày, vừa dành thời gian cho Chúa để được trợ lực, vừa thực hành sống đạo đức và bác ái giữa đời.
“Tất cả những gì các con muốn người ta làm cho các con, thì hãy làm cho người ta“. Đây là khuôn vàng thước ngọc để ta thi hành đức ái theo thánh ý Chúa.
Thật vậy, chẳng ai muốn điều xấu đến với mình bao giờ. Vì thế, không có lẽ gì lại mong muốn điều xấu đến với anh chị em mình. Chỉ có ai nuôi lòng hận thù, hay vì ích kỷ thì mới làm điều bất chính cho tha nhân và muốn điều tốt cho riêng mình mà thôi.
Hôm nay, Đức Giêsu đã đưa ra kim chỉ nam cho các môn đệ và cũng cho mỗi người chúng ta là: hãy muốn và làm điều tốt cho tha nhân trước khi thi hành điều tốt cho chính mình. Phải quên đi bản thân để mưu cầu hạnh phúc cho tha nhân trước. Hãy đặt mình vào hoàn cảnh của anh chị em và hãy đối xử với họ như chính mình muốn được đối xử khi ở địa vị của họ.
Lời Chúa hôm nay không chỉ kêu mời chúng ta “hãy làm cho người khác những điều mình muốn họ làm cho mình” mà Ngài muốn chúng ta đi xa hơn nữa là hãy cư xử với tha nhân tốt hơn là họ đáng được cư xử. Không chỉ “yêu tha nhân như chính mình” mà hãy “yêu tha nhân như Chúa đã yêu thương chúng ta”. Đó là yêu vô điều kiện, yêu đến mức hy sinh cả mạng sống.
2024
SỐNG SAO CHO CÓ Ý NGHĨA
24.6 Sinh Nhật Thánh Gioan
2 V 17:5-8,13-15,18; Tv 60:3,4-5,12-13; Mt 7:1-5
SỐNG SAO CHO CÓ Ý NGHĨA
Hôm nay chúng ta mừng kính lễ sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả. Nhưng lời của tiên tri Isaia rất thích hợp để dien tả nhân vật trọng đại này của Thánh kinh, người là một gạch nối giữa Cựu Ước và Tân Ước. Trong hàng ngũ các vị đại tiên tri và số nhưng người công chính thì Gioan “Phép Rửa” đã được sự quan phòng Thiên Chúa đặt để đi trước Đấng Thiên Sai (Messiah) hầu sửa soạn con đường trước cho Ngài bằng cách giảng dậy và làm chứng nhân cho cuộc sống của Đức Kitô.
Trong tất cả các thánh nhân, chỉ riêng có thánh Gioan Tẩy Giả mới được Lich Phụng Vụ của Giáo Hội mừng ngày sinh nhật mà thôi. Chúng ta nghe từ Sách Thánh, bài đọc 1 hôm nay cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa kêu gọi Tôi Tớ của Ngài “từ trong bụng mẹ”. Lời xác nhận này trong ý nghĩa đầy đủ nhất nói về Chúa Kitô, nhưng trong một ý nghĩa rộng hơn cung có thể áp dụng vào trường hợp của Vi Tiền Hô đi trước Ngài. Cả hai đều được sinh ra do kết quả sự can thiệp từ Thiên Chúa: một Đấng được sinh ra bởi một Trinh Nư, Đấng khác sinh ra bởi một bà lao hiếm muộn. Ngay cả khi còn trong lòng mẹ, Gioan đa chỉ điểm cho thấy Đấng se mặc khải cho thế giới về chương trinh yêu thương của Thiên Chúa.
Gioan Tẩy Giả là con của thày tư tế Dacaria và bà Êlisabét, chị họ của Đức Maria. Hai ông bà đã lớn tuổi nhưng vẫn chưa có con. Cả hai không ngừng cầu khẩn xin Chúa ban cho một người con nối dõi tông đường. Nhận thấy lòng đạo đức của họ, Chúa dủ lòng thương sai sứ thần đến báo: “Này Dacaria! đừng sợ, Chúa đã nghe lời khẩn nguyện của ngươi. Vợ người sẽ sinh một con trai và người sẽ đặt tên là Gioan…”
Dacaria hoài nghi, vì thế Chúa để ông bị câm trong suốt 9 tháng trời, cho đến ngày đặt tên cho Gioan. Gioan lớn lên và được giáo dục trong bầu không khí đạo đức. Đến năm thứ 5 đời hoàng đế Tibêriô, tức năm 28 sau công nguyên, có tiếng Chúa gọi Gioan trong hoang địa, tức vùng đồi núi Giuđê Gioan sống khắc khổ: ăn châu chấu, uống mật ong rừng, mặc áo lông lạc đà và ngang lưng thất dây da. Cuộc đời Gioan thật gương mẫu.
Có lần Chúa Giêsu đã công khai nói với dân Do thái: “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy giả”.
Phúc âm thánh Luca (3,1-18) Gioan có sứ mệnh dọn đường cho Chúa cứu thế đến: bạt đồi núi xuống, lấp thung lũng đầy, nắn thẳng đường quanh co. Nghĩa là Gioan tẩy giả dạy người ta ăn năn hối cải và làm việc đạo đức bác ái. Với những người biệt phái giả hình gian dối, thánh Gioan gọi họ là loài rắn lục, không thể thoát cơn thịnh nộ của Chúa, vì cái rìu đã đặt sát gốc cây, cây nào không sinh hoa trái, sẽ bị chặt và quăng vào lửa. Với những người lòng ngay, Gioan khuyên họ phải giàu lòng thương xót, lấy việc bố thí tiền của mà rửa sạch tội mình. Với bạn người thâu thuế, Gioan bảo họ không cần phải đổi nghề, nhưng phải giữ đức công bình, đừng hối lộ, đòi lỡi ngãi, không được phù thu lạm bổ. Với quân nhân, Gioan khuyên họ đừng hà hiếp ai, đừng dọa nạt ai, nhưng bằng lòng về số lương của mình. Với tất cả mọi người, Gioan khuyên họ chiụ phép rửa, để tỏ lòng khiêm tốn ăn năn được ơn tha thứ, được ơn sống một đời đạo đức bác ái hơn, và được thấy ơn cứu độ của Chúa cứu thế.
Ngài đi khắp vùng sông Giođan rao giảng và kêu gọi mọi người ăn năn sám hối. Lời nói và nếp sống khổ hạnh của ngài đã lay chuyển cả những tâm hồn cứng cỏi nhất. Họ đã đến với ngài thật đông đảo để được nghe giảng dạy và được nhận phép rửa. Có người đã lầm tưởng ngài là Đấng Thiên Sai mà dân Do thái hằng mong đợi, nhưng ngài khiêm tốn trả lời: “Phần tôi, tôi rửa anh em bằng nước, sẽ có một Đấng quyền thế hơn tôi, tôi không đáng cởi dây giầy cho Ngài. Ngài sẽ rửa anh em bằng Thánh Thần và lửa.
Trong khi ngài dang rao giảng sám hối thì một vụ tai liếng đã xảy ra tại cung điện Hêrôdê Antipa. Nhà vua đã cưới con gái của Arêta phương nam làm hoàng hậu. Thế nhưng, trong một chuyến đi Rôma, ghé thăm người em cùng cha khác mẹ là Hê-rô-đê Phi-lip-phê, nhà vua lại say mê sắc đẹp của Hêrôdia, người em dâu và tìm cách chiếm đoạt. Hêrôđia có một người con riêng là Salômê có tài múa hát. Câu chuyện tới tai vị Tẩy giả. Với tất cả lòng cương nghị của một người công chính, Gioan cảnh cáo Hêrôđê: “Nhà vua không được cướp vợ em mình” Câu nói đó đã khiến Hêrôđê phải giam Gioan vào ngục. Nhưng Hêrôđia vẫn chưa hài lòng, vì Gioan luôn là mối cản trở cho hành động ngang trái của bà. Bà lìm cách đế giết Gioan. Chính vì thế, trong bữa tiệc sinh nhật của Hêrôđê, lợi dụng khi nhà vua đã ngà ngà say, bà xúi Salômê xin chiếc đầu của Gioan. Thế là Gioan đã phải chết.
Thánh Gioan Tẩy Giả hiểu mình hơn ai hết. Ngài phải đi trước dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Thánh Gioan Tẩy Giả sống đời sống rất khắc khổ: mặc áo lông, đồ ăn là châu chấu và mật ong rừng. Thánh nhân rao giảng sám hối và làm phép rửa. Đám đông dân chúng có nhiều người đã ngộ nhận Ngài là Đấng Mêsia, nhưng Gioan nói:” Tôi, Tôi làm phép rửa anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn Tôi đang đến, Tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa (Lc 3, 16).Thánh Gioan đã phủ nhận vai trò Mêsia mà đám đông dân chúng gán cho Ngài vì gương sáng, lòng đạo đức, sự thánh thiện và những công việc Ngài đang làm. Thánh nhân đã gồm tóm cuộc đời của Ngài trong câu nói:” Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại “. Thánh đã sống đích thực con người của mình, Ngài ý thức rằng:”…Người đến sau tôi nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi”(Ga 1, 15). Thánh Gioan được coi là vị ngôn sứ cao cả nhất trong dân Israen, đã qui tụ, thu hút được đám đông quần chúng nhân dân mà chưa có vị ngôn sứ nào làm được công việc ấy như Ngài. Tuy nhiên, để hoàn tất sứ mạng ngôn sứ cao cả Thiên Chúa trao phó cho Ngài, thánh Gioan Tẩy Giả đã để cho con người mình tan biến đi, nhỏ lại và mất hút trong kiếp tù đầy, trong cái chết chỉ vì Hêrođê, hứa với con gái:xin gì Ông cũng cho dẫu nửa nước đi nữa và thánh Gioan, vị ngôn sứ đã bị rơi đầu vì ích kỷ, thù hận của một người vợ loạn luân của vua Hêrôđê. Thánh Gioan đã tan biến trong cái chết phi nghĩa, tàn bạo của một ông vua tồi tàn, còn Chúa Giêsu lại lớn lên trong vinh quang, trong mầu nhiệm thập giá của Ngài.
Gương can đảm nói lên sự thật cho dù sự thật kéo theo sinh mạng của Ngài, thánh Gioan đã thật hiên ngang loan báo cái chết của Đức Kitô để cứu độ nhân loại. Nhân loại trong đó có mỗi người chúng ta liệu có nhạy cảm và quảng đại, can đảm làm chứng cho Chúa Kitô hay không? Thánh Gioan đã viết:” Sự thật sẽ giải phóng con người “. Mỗi người chúng ta có để cho Chúa lớn lên trong ta hay chúng ta để cho bóng tối, tội lỗi, ích kỷ xâm lấn đời sống chúng ta? Thập giá có là nguồn sống để chúng ta vươn tiến hay chúng ta tránh né và sợ thập giá? Đẩy lùi những cản trở của hận thù, của ích kỷ, của hờn căm, Chúa mới thực sự lớn lên trong ta.