2024
CHỌN PHẦN TỐT NHẤT
8.10 Thứ Ba Thứ Ba trong tuần thứ Hai Mươi-Bảy Mùa Quanh Năm
Gl 1:13-24; Tv 139:1-3,13-14,14-15; Lc 10:38-42
CHỌN PHẦN TỐT NHẤT
Tin mừng theo thánh Luca 10,38-42 kể cho chúng ta một câu chuyện rất đơn giản nhưng cũng đầy cảm động.
Theo Tin mừng Gioan thì cô Mácta và Maria là hai người chị của anh Ladarô. Gia đình này gồm những người bạn khá thân tình của Chúa Giêsu, cư ngụ ở Bêtania gần Giêrusalem. Dù vậy, sự kiện Chúa Giêsu đến nhà hai người phụ nữ là Mácta và Maria rồi giảng dạy ở nhà họ thực ra vẫn là một sự kiện có phần bất thường.
Tuy nhiên chính sự việc có vẻ bất thường này lại rất đáng để chúng ta chú ý vì nó cho thấy Chúa Giêsu không hề phân biệt đối xử nhưng Ngài nhìn đến với từng con người, dù là đàn ông hay đàn bà; họ đều là đối tượng được Thiên Chúa ưu ái, yêu mến cho nên Ngài sẵn sàng đến nhà của hai người phụ nữ và giảng dạy ở đó.
Và khi Chúa Giêsu cùng với các môn đệ đến gia đình này thì trong việc tiếp đón, hai chị em Mácta và Maria đảm nhận những nhiệm vụ khác nhau: cô Mácta thì giữ vai trò của người chủ trong gia đình, lo lắng chuẩn bị bữa ăn cho khách, còn cô Maria thì giữ vai trò tiếp chuyện với khách. Sự phân vai trong nhiệm vụ này cũng là bình thường vì nhà có hai chị em.
Tuy nhiên cách miêu tả của thánh Luca trong bài Tin mừng lại vượt ra khỏi cái khung cảnh cụ thể trong thực tế và nhắm đến những mục tiêu thần học, tức là vượt xa hơn việc miêu tả một sự kiện lịch sử. Do đó, chúng ta cần giải thích sự khác biệt trong vai trò cũng như trong cách hành xử của Mácta và Maria theo cái nhìn và với mục tiêu thần học hơn là theo quan điểm lịch sử.
Ở câu 39, tác giả Luca khắc họa hình ảnh của cô Maria như là một người môn đệ ngồi bên chân Chúa và lắng nghe lời Ngài. Kiểu nói ‘ngồi dưới chân’ là kiểu nói được thánh Luca dùng trong diễn từ của thánh Phaolô ở Cv 22,3 (=ngồi dưới chân Gamalien) để chỉ tư cách của người môn đệ; người môn đệ là người ngồi dưới chân của thầy mình. Rồi động từ ‘lắng nghe’ lại được tác giả chia ở thời vị hoàn có ý diễn tả sắc thái liên tục và kéo dài của thái độ lắng nghe. Như vậy bằng cách nói cô Maria ngồi dưới chân Chúa và lắng nghe lời Ngài, tác giả muốn khắc họa cô Maria như là điển hình của người môn đệ.
Cô Mácta lại được Luca mô tả với những đường nét khác: tất bật phục vụ khách. Sự tất bật phục vụ của cô Mácta cũng được tác giả nhấn mạnh với mục tiêu khắc họa một cách rõ nét hơn, sự khác biệt và thậm chí là sự đối nghịch của cô Mácta so với tư thế môn đệ chăm chú lắng nghe của cô Maria.
Vì thế, có thể nói trong câu chuyện của Luca, cô Mácta là hình ảnh điển hình của những thành viên trong cộng đoàn Hội thánh luôn nhiệt thành hoạt động và coi những hoạt động đó có vai trò quan trọng hơn hẳn so với thái độ của những người môn đệ luôn giữ tâm hồn ở trong tư thế lắng nghe Lời.
Đó chính là ý nghĩa và chủ đích thần học của tác giả Luca trong cách ông khắc họa những đường nét của nhân vật Maria và của Mácta trong câu chuyện. Chúng ta cần phải hiểu theo ý nghĩa này hơn là chỉ giải thích theo nghĩa lịch sử.
Rồi tác giả kể tiếp có lẽ với một chút bực mình: cô Mácta không nói gì với em mình cả. Đây là vấn đề. Cô tiến lại bên Chúa Giêsu và nói với Ngài, chứ không nói với em mình: “Thưa Thầy, em con để con phục vụ một mình mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay”.
Tại sao Mácta lại muốn Maria giúp một tay, có phải để cô cũng được nghe lời dạy của Chúa Giêsu hay là bởi vì khách đông quá cô không thể phục vụ một mình? Chúng ta không biết lý do và có lẽ cũng không cần chú ý đến lý do tại sao cô Mácta lại muốn em mình giúp một tay vì đó không phải là điểm nhấn của câu chuyện.
Trước lời yêu cầu của cô Mácta, Chúa Giêsu phản ứng như thế nào? Tác giả Tin mừng ghi lời Chúa đáp: “Mácta, Mácta ơi, chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi”.
Trước hết, trong câu trả lời này của Chúa Giêsu, chúng ta chú ý cách Chúa Giêsu gọi tên Mácta 2 lần: “Mácta, Mácta”. Trong Kinh thánh, cách gọi tên 2 lần này luôn luôn là dấu hiệu báo trước một sự việc quan trọng, thậm chí là nghiêm trọng. Ví dụ như ở St 22,11 Thiên Chúa gọi Ápraham: “Ápraham, Ápraham!” Thiên Chúa gọi ông 2 lần như vậy là để ngăn ông sát tế Isaác con trai của ông. Lúc ấy, Ápraham đã đặt cậu con trai của mình trên bó củi, ông rút dao tính giết Isaác sát tế cho Thiên Chúa thì ngay lúc đó thần sứ của Thiên Chúa gọi: “Ápraham! Ápraham!”. Đó là một chuyện hết sức quan trọng. Ở một chỗ khác, chúng ta cũng thấy xuất hiện cách gọi tên 2 lần này, đó là khi Thiên Chúa gọi: “Samuel! Samuel!” và Chúa gọi đến ba lần. Đó là trong Cựu ước. Sau này, Chúa Giêsu phục sinh cũng gọi thánh Phaolô trên đường Đamát: “Saun! Saun!”. Trong Kinh thánh dù là Cựu ước hay Tân ước, chúng ta thấy cách gọi 2 lần đó là một dấu hiệu cho thấy có chuyện quan trọng.
Trong đoạn Tin mừng Luca chúng ta đang phân tích đây cũng vậy. Khi Chúa Giêsu gọi cô Mácta 2 lần liên tiếp: “Mácta! Mácta!” tức là đang có một chuyện rất nghiêm trọng xảy ra. Và quả thực, phản ứng và lời nói của cô Mácta ở đây cho thấy cô đang ở trong một tình trạng rất đáng ngại. Tại sao đáng ngại? Đáng ngại không phải là vì cô ta đang tất bật lo lắng việc này việc kia mà vấn đề là qua lời cô nói với Chúa Giêsu, Mácta cho thấy cô đã không hiện diện và đã không làm việc trong tư thế của một người môn đệ, mà trái lại, xem ra cô đang làm ngược lại.
Cô Maria ngồi bên chân Chúa mà lắng nghe Ngài, đó là cô đang hiện diện trong tư thế của một môn đệ lắng nghe lời Chúa Giêsu. Khác với Maria, cô Mácta đang đi thì dừng lại (nghĩa là đang trong tư thế đứng), cô đứng bảo Chúa Giêsu cần phải làm gì: “Em con để con làm việc một mình mà Thầy không thấy sao?” rồi sau đó cô nói Chúa Giêsu cần phải nói gì: “Xin thầy bảo em con giúp con một tay”.
Cô Mácta trong thực tế đang đóng vai một vị tôn sư dạy cho Chúa Giêsu biết Ngài phải làm gì và phải nói gì. Cô đang đứng vào vị trí bậc thầy và đẩy Chúa Giêsu xuống vị trí của người môn đệ cần được cô dạy cho biết phải nói gì và phải làm gì. Khi trật tự bị đảo lộn đến mức độ nguy hiểm như vậy thì chúng ta hiểu được phản ứng của Chúa Giêsu thể hiện qua cách gọi: Mácta! Mácta!
Sự nghiêm trọng không nằm ở chỗ cô ta tất bật không ‘chịu’ nghe lời của Chúa mà nằm ở chỗ là cô ta xếp Chúa ở vị trí một học trò trong khi Mácta trở thành một cô giáo, một bậc tôn sư dạy cho Chúa biết phải làm và nói gì. Đó là một tình cảnh rất nghiêm trọng, khác hẳn với thái độ của Maria ngồi dưới chân Chúa và lắng nghe lời Ngài trong thái độ của một người môn đệ.
Rồi Chúa nói tiếp: “Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi”. Ở đây, Chúa Giêsu đặt đối lập giữa một bên là lo lắng nhiều chuyện với bên kia là chỉ có một chuyện cần thiết; đặt đối lập giữa hai chuyện này để làm nổi bật vẻ đẹp của thái độ lắng nghe lời Ngài giảng dạy.
Mối bận tâm về Nước Thiên Chúa phải chiếm vị trí ưu tiên tuyệt đối so với mọi sự khác, cho dù những sự ấy không hề bị phủ nhận cũng không hề bị đánh giá thấp. Nhưng mối bận tâm về Nước Thiên Chúa vẫn phải là mối bận tâm chiếm vị trí ưu tiên tuyệt đối. Đó chính là ý nghĩa của lời Chúa Giêsu nói với cô Mácta: “Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi”. Chỉ có chuyện về Nước Thiên Chúa mới là chuyện cần thiết nhất.
Rồi Chúa khẳng định Maria đã chọn phần tốt nhất. Phần tốt nhất ở đây không phải là chẳng làm gì cả mà phần tốt nhất mà Maria đã chọn là hiện diện trong tư thế của một môn đệ. Lắng nghe lời của Chúa Giêsu, hiện diện trong tư thế của một môn đệ của Chúa Giêsu, đó mới là phần tốt nhất chứ không phải là ở nhưng không, không làm gì cả. Maria đã chọn phần tốt nhất tức là chọn hiện hữu, và tất nhiên ở trong cả hoạt động nữa, trong tư thế của một môn để lắng nghe lời của Chúa Giêsu, đó chính là phần tốt nhất.
2024
HIỆU LỰC LỜI KINH MÂN CÔI
7.10 Thứ Hai Đức Mẹ Mân Côi
Gl 1:6-12; Tv 111:1-2,7-8,9,10; Lc 10:25-37
HIỆU LỰC LỜI KINH MÂN CÔI
Mỗi khi tháng Mười về, những người con thảo của Đức Mẹ lại rộn ràng với những điệu vãn lời kinh để cùng tôn vinh Mẹ và cùng Mẹ suy ngắm cuộc đời Chúa Cứu thế. Mỗi lời kinh “Ave Maria” được sánh ví như một đóa hồng dâng kính Đức Mẹ. Lời kinh Mân Côi muốn diễn tả với chúng ta biết bao điều tốt đẹp.
Cách đây 1000 năm, đạo quân Thổ Nhĩ Kỳ đe dọa trầm trọng thế giới công giáo. Tình hình càng thêm bi thảm hơn nữa vào thế kỷ XVI. Họ tiến vào châu Âu và quyết tâm dứt điểm bằng một cuộc hải chiến tại vịnh Lépante. Trong khi đạo quân Công giáo với một lực lượng yếu kém hơn nhiều xông ra chiến trận, thì tại Rôma, Đức Giáo Hoàng đã tổ chức những hiệp hội Mân Côi, liên tục lần chuỗi, dâng lên Mẹ những lời kinh thắm thiết để xin Mẹ nâng đỡ phù trợ. Và sau cùng đạo quân công giáo đã chiến thắng. Để tạ ơn Đức Mẹ và để ghi nhớ cuộc chiến thắng này, Đức Thánh Cha Piô V đã thiết lập lễ Mẹ Mân Côi mà chúng ta mừng kính ngày hôm nay.
Còn với chúng ta thì sao? Đôi khi chúng ta cảm thấy mệt mỏi, ngán ngẩm khi phải lần chuỗi. Sở dĩ như vậy là vì chúng ta chưa lần chuỗi cho đúng cách. Tại một giáo xứ nọ, thầy giúp xứ hướng dẫn một số em vào nhà thờ để lần hạt chung với nhau. Tại mỗi ngắn, thầy bèn trao cho các em xem một bức hình liên hệ. Chẳng hạn năm sự Mừng thứ nhất thì ngắm, Đức Chúa Giêsu sống lại. Các em sẽ nhìn thấy bức hình lộng lẫy: Chúa Giêsu phục sinh, khải hoàn ra khỏi mồ, còn những tên lính canh thì hoảng sợ vứt bỏ khí giới trước luồng ánh sáng chói loà.
Dĩ nhiên chúng ta không thể làm như vậy mỗi khi lần hạt, nhưng chúng ta có thể nghĩ tưởng trong đầu óc, nhờ đó mà chúng ta như được tham dự vào chính những biến cố mà mỗi ngắm, mỗi mầu nhiệm của kinh Mân Côi gợi lên. Trong tháng 10 cũng như trong suốt cả cuộc đời, chúng ta hãy dâng lên cho Mẹ những lời kinh Mân Côi sốt sắng, là như những bông hồng tươi xinh, để xin Mẹ nâng đỡ và phù trợ cho chúng ta luôn mãi.
Với lời thưa “Xin Vâng” của Đức Mẹ, điều vô cùng kỳ diệu xẩy ra: Thiên Chúa đến ở với loài người. Thiên Chúa vô hạn đến ở trong thân xác hữu hạn. Thiên Chúa vô thủy vô chung đi vào lịch sử để trở nên có sinh có tử. Đây là đại hạnh của con người. Nhân loại khổ đau có Thiên Chúa đến cùng chia sẻ nâng đỡ, chữa lành. Nhân loại đi trong đêm tối có Thiên Chúa đến dẫn đường chỉ lối. Nhân loại bơ vơ có Thiên Chúa đồng hành. Còn hơn thế nữa, Thiên Chúa không chỉ đến để đồng hành, để an ủi nhưng Thiên Chúa còn đến biến đổi thân phận con người. Thư Galata cho biết Thiên Chúa sinh làm con loài người để ta được nâng lên làm con Thiên Chúa. Thiên Chúa chịu nghèo để ta được giầu có vì được thừa kế gia tài, được hưởng vinh phúc của Thiên Chúa.
Những điều kỳ diệu ấy chỉ được thực hiện nhờ thái độ của Đức Mẹ. Khi thưa với thiên thần: “Này tôi là tôi tớ của Chúa”, Đức Mẹ đã cộng tác trọn vẹn với Thiên Chúa để chương trình của Thiên Chúa được thực hiện. Vào thời Đức Mẹ nô lệ có nghĩa là không có quyền gì hết. Nô lệ hoàn toàn thuộc quyền sử dụng của chủ. Chủ có thể bán đi. Chủ có quyền hành hạ, giết chết nô lệ mà không có tội trước pháp luật. Nô lệ không có quyền sống cho mình, mà sống vì chủ, cho chủ. Khi xưng mình là “tôi tớ”, Đức Mẹ từ bỏ tự do, từ bỏ quyền sống của mình để hoàn toàn cho Thiên Chúa sử dụng. Từ đó Chúa ở trong Đức Mẹ. Đức Mẹ đi đâu cũng có Chúa ở cùng. Vì thế sự hiện diện của Đức Mẹ là hiện diện của Chúa. Đức Mẹ đi đến đâu là sinh ơn phúc đến đấy. Đến thăm bà Isave đem ơn cứu độ cho thánh Gioan Baotixita khiến thánh nhân nhảy mừng từ trong lòng mẹ. Đến tiệc cưới Cana làm cho đám cưới ngập tràn niềm vui vì được thưởng thức thứ rượu ngon chưa bao giờ có.
Từ khi về trời Đức Mẹ vẫn tiếp tục viếng thăm con cái trần gian. Lavang, Lộ đức, Fatima… không sao kể xiết những ơn lành Chúa xuống qua tay Đức Mẹ. Tuy Lavang, Lộ đức đều là chứng tích việc Chúa và Đức Mẹ đồng hành với con người trong những nỗi khổ đau. Nhưng Fatima mới tỏ tường là nơi Chúa và Đức Mẹ can thiệp vào lịch sử nhân loại. Thực vậy vào tháng 5 năm 1917, tại Fatima, Đức Mẹ tiên báo nước Nga sẽ gieo rắc lạc thuyết vô thần khắp thế giới. Đúng tháng 10 năm đó cách mạng vô sản nổ ra tại Nga và thế giới bị chia đôi. Một nửa theo lý thuyết cộng sản vô thần gay khổ đau cho biết bao người. Tuy nhiên Đức Mẹ cũng chỉ cho ta con đường thoát khỏi sự dữ này bằng cách cầu nguyện cho nước Nga và tuân giữ 3 mệnh lệnh là : ăn năn sám hối, lần hạt Mân Côi và tôn sùng đền tạ Trái Tim Đức Mẹ. Có thực hành lời Đức Mẹ dậy, nhân loại mới thoát khỏi cơn thịnh nộ của Chúa, thế giới mới được hòa bình. Sứ điệp Fatima quả đã đi vào lịch sử thế giới, hướng dẫn lịch sử thế giới và chữa trị những vết thương của thế giới.
Nếu chương trình của Chúa cần có Đức Mẹ “xin vâng”, thì trong chương trình của Đức Mẹ cũng cần một người con quảng đại dâng hiến toàn thân cho Đức Mẹ sử dụng. Người đó chính là Đức Cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II có lòng yêu mến Đức Mẹ nồng nàn. Ngài đã viết Tông huấn “Kinh Mân Côi” để tôn vinh Đức Mẹ. Ngài là vị Giáo hoàng lần hạt chung với dân chúng. Ngài đã lập thêm Năm Sự Sáng cho tràng chuỗi Mân Côi. Nhưng nhất là Ngài dâng hiến toàn thân cho việc phụng sự Đức Mẹ. Khẩu hiệu của ngài là “Totus Tuus”, trích từ câu nói của thánh Louis Grignon de Monfort:Totus Tuus ego sum et omnia mea Tua sunt (Con là tất cả của Mẹ và mọi sự của con đều là của Mẹ).
Ngài đã dâng nước Nga cho Đức Mẹ. Và đáp lại Đức Mẹ đã thực hiện những lời hứa và những bí mật Fatima trong cuộc đời của ngài. Việc nước Nga được ơn trở lại dưới triều Giáo hoàng của ngài là bằng chứng rõ rệt nhất về lời hứa Fatima: “Trái Tim Mẹ Sẽ Thắng”. Theo sau nước Nga là các nước Đông Âu khác. Bản đồ thế giới được vẽ lại. Tình hình thế giới đổi mới khác hẳn. Quả thật Chúa và Đức Mẹ đã can thiệp vào lịch sử thế giới.
Tuy nhiên Đức Thánh Cha phải chịu đau khổ. Và thị kiến chị Lucia thấy người áo trắng bị ám sát đã ứng nghiệm trong đời ngài. Ngài bị bắn đúng ngày 13-5-1981. Tay thiện xạ Ali Agca đứng sát ngài và nhắm bắn trúng chỗ hiểm. Nhưng ngài thoát chết trong gang tấc. Ngài biết Đức Mẹ đã cứu ngài. Nên ngài đến hành hương Fatima tạ ơn Đức Mẹ và đặt đầu viên đạn lên triều thiên Đức Mẹ để tôn vinh quyền phép của Đức Mẹ. Vết thương hành hạ suốt đời đã biến cuộc đời ngài thành cuộc đền tạ Trái Tim Mẹ không ngưng nghỉ.
Đã nhiều năm trôi qua kể từ ngày Đức mẹ hiện ra tại Fatima, nhưng sứ điệp Fatima vẫn còn mang tính thời sự và cấp thiết. Vì hiện nay biết bao lạc thuyết vẫn lan tràn gieo đau thương chết chóc cho con người. Đức Mẹ vẫn luôn đồng hành với ta như Người đã cùng cầu nguyện với các tông đồ trong nhà Tiệc ly. Đức Hồng Y Fulton Sheen diễn giải lời thiên thần Gabriel: “Này cô Maria, cô có đồng ý đem xương thịt cho Con Thiên Chúa không? Liệu Thiên Chúa có trở nên loài người qua thân xác của cô không?”. Hôm nay Đức Mẹ cũng hỏi ta: “Con có đồng ý cho ta thân xác của con để ta hiện diện với các con, đồng hành với các con không”. Nếu ta đồng ý Đức Mẹ sẽ nhờ thân xác ta mà hiện diện trong thế giới, sẽ uốn nắn thế giới và lịch sử sẽ thay đổi. Ta hãy noi gương ĐTC Gioan Phaolô thưa với Mẹ: Lạy Mẹ, tất cả của con là của Mẹ, xin Mẹ hãy dùng con theo ý Mẹ để Thiên Chúa được vinh danh và nhân loại được hạnh phúc.
Tháng Mân Côi, Giáo hội mời gọi chúng ta hướng về Mẹ Maria là mẹ của Chúa Giêsu cũng là mẹ của chúng ta. Xưa bên cây thập giá Chúa đã trao phó thánh Gioan cho Mẹ. Qua Gioan, Mẹ Maria đã nhận làm mẹ của cả nhân loại. Từ nay Mẹ là mẹ của từng người chúng ta. Từ nay Mẹ sẽ bao bọc chúng ta như mẹ đã từng bao bọc hài nhi Giêsu. Từ nay Mẹ Maria sẽ chăm sóc chúng ta như xưa đã chăm sóc cho Chúa Giêsu con Mẹ. Từ nay Mẹ Maria sẽ đứng bên cuộc đời chúng ta như Mẹ đã đứng kề bên thánh giá Chúa. Từ nay cái đau của chúng ta cũng là nỗi đau của Mẹ. Vì tình mẹ mãi mãi là thế. Hết mình vì con. Chấp nhận khổ vì con. Một tình yêu quên cả chính mình để hết lòng chăm sóc đoàn con như tình mẹ trần thế mà ca dao đã từng nói: “Đêm mùa thu mẹ ru con ngủ – Năm canh dài thức trọn năm canh”.
Thế nhưng, Mẹ Maria đã được gì khi làm mẹ chúng ta? Mẹ có vui khi làm mẹ nhân loại hay không? Nếu vui tại sao mỗi khi Mẹ hiện ra ở nơi này, nơi kia Mẹ đều khóc, đều trầm ngâm, đều lo lắng cho sự an nguy của con cái? Mẹ đều khóc cho nhận thế tội tình. Mẹ đều khóc vì những đứa con sa đàng tội lỗi nhưng không chịu quay trở về. Phải chăng mẹ cũng đang đau khổ khi nhìn thấy những người con vì danh vọng ở đời, vì vinh hoa phú quý mà đánh mất tình mẹ? Phải chăng kịch bản “lá sầu riêng” đang diễn tả nỗi lòng của Mẹ thiên quốc? Nếu đúng vậy, Mẹ cũng đang bảo chúng ta: “Con ơi! Chẳng lẽ chỉ vì một chút bổng lộc trần gian mau qua mà con đã vội quên tình mẹ? Và không lẽ chỉ vì những vinh hoa trần thế mau qua mà con đã từ chối mẹ sao? Hãy nhận mẹ làm mẹ để mẹ tiếp tục yêu con, để mẹ tiếp tục hy sinh cho con, và để mẹ tiếp tục che chở bảo vệ con”.
Xin cho mỗi người chúng ta biết nhận ra tình thương của mẹ để sám hối ăn năn về những lỗi lầm của mình. Xin giúp chúng ta đừng vì vinh hoa phú quý mà lạc xa tình mẹ. Ước gì chúng ta luôn trân trọng tình mẹ, luôn gắn bó với mẹ, luôn cậy dựa vào mẹ để nhờ Mẹ và qua Mẹ chúng ta lãnh nhận được muôn vàn ơn lành hồn xác của Chúa.
2024
Niềm Vui Ðích Thực
5.10 Thứ bảy Thứ Bảy trong tuần thứ Hai Mươi-Sáu Mùa Quanh Năm
G 42:1-3,5-6,12-16; Tv 119:66,71,75,91,125,130; Lc 10:17-24
Niềm Vui Ðích Thực
Tin Mừng hôm nay thuật lại sự vui mừng hớn hở của Bảy mươi hai môn đệ sau khi trở về từ một chuyến truyền giáo thành công rực rỡ. Chia sẻ niềm vui với các ông nhưng Chúa Giêsu nhắc nhở các học trò của mình rằng: Đừng vui mừng vì sự thành công của mình, cũng như đừng vui mừng vì ma quỷ khuất phục các ông nhưng hãy vui mừng vì nước Thiên Chúa đang dược mở rộng và mình được ghi tên làm công dân Nước Trời.
Chúa Giêsu chọn 72 môn đệ và sai họ ra đi rao giảng Tin Mừng; họ gặp nhiều chống đối, nhưng cũng gặt hái được nhiều thành công. Tin Mừng hôm nay thuật lại rằng sau một thời gian ra đi rao giảng, các ông hớn hở trở về nói lên niềm vui của mình, vì đã nhờ quyền năng của Chúa mà xua trừ được ma quỉ, nhưng Chúa Giêsu muốn cho các ông thấy rằng Ngài đến là để giải phóng con người nô lệ và đưa họ tới tự do đích thực.
Chúa Giêsu đã chọn ra nhóm Mười Hai và sai đi rao giảng về Nước Thiên Chúa và chữa lành các bệnh tật. Các ông là những tông đồ thân tín, sống gần gũi bên Thầy Giêsu.
Sau đó, nhìn thấy lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì vẫn còn quá ít, nên Đức Giêsu lại sai thêm nhóm Bảy Mươi Hai môn đệ lên đường để tiếp nối công việc gieo gặt lúa cho Cánh Đồng Nước Trời.
Sau khi lên đường đi khắp mọi nơi theo lệnh truyền của thầy Giê-su, nhóm Bảy Mươi Hai đã gặt hái được nhiều kết quả tốt đẹp. Họ vui vẻ, hớn hở, trở về và khoe những thành tích mà mình đã đạt được với Chúa Giêsu: Nghe chúng con nói đến danh của Thầy, ma quỷ quá khiếp sợ và phải khuất phục chịu thua chúng con luôn.
Chúa Giêsu liền bảo các ông: Mặc dù Thầy đã ban cho các con quyền năng để đạp lên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực Kẻ Thù, mà chẳng có gì làm hại được các con. Nhưng Thầy cũng thấy Xa-tan nham hiểm, độc ác… Chúng nhanh như một tia chớp từ trời sa xuống, vì thế các con chớ vội mừng vì quỷ thần phải khuất phục các con. Nhưng hãy mừng vì tên của các con đã được ghi trên Nước Trời.
Thật vậy, đời sống thiêng liêng của các Ki-tô hữu là một cuộc chiến đấu trường kỳ chống lại nhiều hình thái cám dỗ của ma quỷ. Trong mọi cuộc chiến, chắc chắn sẽ có lúc chiến thắng vang dội nhưng cũng có lúc thua trận tơi tả. Do đó, Chúa Giê-su bảo các môn đệ hãy luô luôn tỉnh thức và cảnh giác với những mưu chước cám dỗ của ma quỷ. Chớ có vui mừng trên chiến thắng. Nhưng hãy thật sự vui mừng vì được mình Cứu Rỗi nhờ Lòng Thương Xót Chúa, hãy thật sự vui mừng vì được ghi tên trong Nước Trời, được chiêm ngưỡng Nhan Thánh Chúa đời đời. Đó mới là điều thật sự đáng mừng, đáng mừng hơn là đã chiến thắng quỷ thần một vài lần.
Giải phóng con người khỏi ách nô lệ và đưa con người vào tự do đích thực, đó là sứ mệnh mà Giáo Hội tiếp tục thực thi trong thế giới này. Chúng ta có thể nhận ra sứ mệnh ấy qua diễn văn Ðức Gioan Phaolô II đọc tại trụ sở Liên Hiệp Quốc vào ngày 5/10/1995. Ðức Thánh Cha ghi nhận rằng con người càng ngày càng tìm kiếm tự do và đây chính là điểm nổi bật của thời đại chúng ta. Sự tìm kiếm tự do ấy đặt nền tảng trên các quyền phổ quát của con người. Chính vì phản ứng lại những hành vi man rợ đối với phẩm giá con người, mà chỉ ba năm sau khi thành lập, Liên Hiệp Quốc đã công bố bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Ðây là một gia sản chung của nhân loại, nó bắt nguồn từ chính bản tính của con người, trong đó có phản ánh những đòi hỏi khách quan và không thể hủy bỏ được của một luật luân lý phổ quát.
Sống theo những khát vọng cao thượng nhất của mình, con người có thể làm được những điều xem ra vượt quá khả năng của nó. Ðó là sứ điệp chúng ta có thể đọc thấy trong Tin Mừng hôm nay: các môn đệ ra đi với hai bàn tay trắng, họ không có một khí giới nào khác ngoài sự siêu thoát và niềm tin vào quyền năng của Chúa Giêsu. Vậy mà khi nói về những thành quả của họ, chính Chúa Giêsu đã thốt lên: “Ta đã thấy Satan như tia chớp từ trời rơi xuống”. Ðó chính là sức mạnh của những người mà Chúa Giêsu gọi là những kẻ bé mọn.
Ngày nay, người Kitô hữu cũng có thể thực hiện được những điều cả thể ấy nếu họ cũng biết trang bị cho mình một niềm tin vào quyền năng của Chúa, nhất là nếu họ biết sống theo những khát vọng cao thượng nhất của con người. Những khát vọng đó là gì, nếu không phải là tự do, công bằng, bác ái, liên đới. Nếu họ thực sự sống theo những khát vọng thâm sâu ấy và sống tín thác nơi Thiên Chúa ngay cả khi gặp thất bại khổ đau, lúc đó họ mới có thể hưởng được niềm vui đích thực mà các môn đệ Chúa Giêsu đã bày tỏ khi gặp lại Ngài.
Ước gì mỗi người chúng ta luôn nếm được niềm vui đích thực ấy trong cuộc sống hằng ngày.
2024
KHIÊM NHƯỜNG NHƯ THÁNH PHANXICO
4.10 Thứ Sáu Thánh Phanxicô thành Assisi, Tu Sĩ
G 38:1,12-21; Tv 139:1-3,78,9-10,13-14; Lc 10:13-16
KHIÊM NHƯỜNG NHƯ THÁNH PHANXICO
Đức Giêsu ca tụng đường lối của Cha, Ngài mặc khải cho những người bé mọn. Những người “khôn ngoan thông thái” thường tự mãn cậy sức mình, nghĩ mình đã ngon cơm, lấy mình làm đủ đầy không cần người khác, “Tôi không như người thu thuế kia…” Một khi con người tự mãn vì sức riêng, cảm thấy đủ khôn ngoan hiểu biết, đủ nhân đức, đóng kín cửa lòng thì đâu cần đến Đấng Cứu Độ? Các ông Kinh sư và Pharisêu ngày xưa như những chuyên viên Kinh Thánh, mà chẳng nhận ra Đấng Cứu Thế đang ở giữa họ đấy thôi!
Còn những “người hèn mọn” là người khiêm nhường thật, biết làm nhỏ đi cái tôi, nhận thấy thực trạng thế giá thật của mình. Đức Maria, người Nữ Tỳ khiêm hạ của Thiên Chúa; bà góa nghèo bỏ tiền vào thùng; các môn đệ ít học… Thánh Phanxicô Assisi ta mừng kính hôm nay, thánh Đa Minh, thánh Têrêsa Hài Đồng dám buông mình trong tay nhân lành Chúa… Tất cả đều sẵn sàng mở rộng lòng mình, đón Chúa vào cuộc đời mình, phó thác tin tưởng, cậy dựa hoàn toàn nơi Chúa và lấy Chúa là niềm vui hạnh phúc ngập tràn của lòng mình. Càng mở rộng lòng ra, ta càng đón nhận được ơn mặc khải của Chúa, càng thấy và “biết” nhiều hơn, trong khi những người “thông thái” có khi “trố mắt” nhìn mà chẳng thấy chi, lắng tai mà không nghe được gì. “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho.” “Biết” ở đây là cái biết bên trong, biết bằng con tim chứ không phải thông hiểu kiến thức hay biết bề ngoài. Biết rõ và cảm nhận được trong tình yêu tha thiết và lòng muốn khát khao.
“Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.” Đức Giêsu mời gọi tất cả những ai đời nhọc nhằn khốn khó hãy đến với Người, để tâm hồn được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Hai nguồn mạch cung cấp sự nghỉ ngơi dưỡng sức này là Lời Chúa và Thánh Thể. Nếu ta biết khát khao tìm đến và “ở lại” sẽ tìm được sự an dưỡng thực sự. Mọi gánh nặng sẽ trở nên nhẹ nhàng vì lòng yêu mến. Khi yêu người ta quên cả đớn đau, không lấy làm khó nhọc nặng nề nữa dù phải trải qua khó khăn vất vả. Hãy ở lại trong Chúa mà kín múc tình yêu, vì Thiên Chúa chính là Tình Yêu.
Hôm nay Giáo Hội mừng kính thánh Phanxicô Assisi, ngài đã chọn cuộc sống hèn mọn, khó nghèo và trở nên hình ảnh sống động của Chúa, Đấng luôn mặc khải cho những người bé mọn. Ngài là mẫu gương khiêm nhu thanh thoát, sống quên mình, mà Chúa đã dùng để diễn tả tinh thần của các mối phúc. Đức Thánh Cha Phanxicô khi vừa nhận chức, ngài đã chọn danh hiệu Phanxicô, vì ngài rất ngưỡng mộ gương thánh thiện và lối sống nghèo khó của thánh nhân. Xin Chúa cho chúng con biết sống đơn sơ, phó thác và hiền hòa, noi theo gương thánh nhân mà thiết tha gắn bó, hăm hở bước theo Chúa với lòng chan chứa an vui và đầy tràn tình yêu mến.
Chúng ta đã từng biết thánh Phanxicô Assisi là mẫu gương sống động về phương thức tốt nhất canh tân Giáo hội là sống thánh thiện, hệ tại sự can đảm trở về Tin Mừng và phải bắt đầu từ chính mình. Trong bài suy niệm này tôi muốn suy tư thêm về một phương diện trở về Tin Mừng, về một nhân đức của thánh Phanxicô. Theo Dante Alighieri, tất cả vinh quang của thánh Phanxicô tùy thuộc việc ‘Ngài hạ mình nên bé nhỏ’, chính là khiêm nhường. Nhưng sự khiêm nhường của thánh Phanxicô hệ tại điều gì?
Trong các ngôn ngữ Thánh Kinh như Do thái, Hy lạp, La tinh và Anh văn, ‘khiêm nhường’ có hai ý nghĩa nền tảng: nghĩa khách quan cho thấy sự hạ mình, bé nhỏ hay nghèo nàn và nghĩa chủ quan cho thấy sự cảm nhận tình trạng bé nhỏ của mình. Chúng ta hiểu nhân đức khiêm nhường theo nghĩa chủ quan.
Trong lời Magnificat Đức Mẹ Maria nói: ‘Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới’, Mẹ thưa sự khiêm nhường theo nghĩa khách quan, chứ không theo nghĩa chủ quan. Do đó rất thích hợp từ ngữ được dùng trong nhiều ngôn ngữ là ‘phận hèn mọn’, chứ không là khiêm nhường. Hơn nữa ai cũng thấy rằng một khi Đức Maria ca ngợi sự khiêm nhường của mình và cho rằng Thiên Chúa chọn mình thì chính việc ấy tiêu hủy sự khiêm nhường của Mẹ. Và tạm thời giả như Đức Maria không nhìn nhận nơi mình nhân đức nào khác ngoài sự khiêm nhường như thể Mẹ đề cao mình thì chính việc ấy lại không phải là sai lầm trầm trọng về nhân đức ấy sao?
Nhân đức khiêm nhường có sắc thái đặc biệt: nó có nơi người nghĩ mình không có, và không có nơi người nghĩ mình có. Chỉ một mình Chúa Giêsu có thể công bố mình ‘có lòng khiêm nhường’ và thật sự là như vậy. Chúng ta sẽ thấy đó là đặc tính duy nhất của đức khiêm nhường nơi Thiên Chúa – làm Người. Vậy Đức Maria không có đức khiêm nhường sao? Mẹ chắc chắn là người khiêm nhường, khiêm nhường sâu thẳm, nhưng chỉ Thiên Chúa biết, còn Mẹ thì không biết. Thực sự rõ ràng điều ấy làm nên giá trị tuyệt vời của đức khiêm nhường: đó là hương thơm đức khiêm nhường chỉ được đón nhận từ Chúa, chứ không từ người đang tỏa lan hương thơm ấy. Thánh Bênađô viết: ‘Người khiêm nhường thật muốn mình được coi là thấp hèn, chứ không muốn được tuyên bố là khiêm nhường’.
Lòng khiêm nhường của thánh Phanxicô thuộc hướng ấy. Trong nhãn quan này, tập Những Bông Hoa Nhỏ đề cập tới một giai đoạn có ý nghĩa và trong cốt lõi của nó, thực sự mang tính lịch sử.
“Một lần kia khi thánh Phanxicô trở về từ cánh rừng sau khi cầu nguyện, trên đường, người anh em Masseo muốn thử xem ngài khiêm nhường thế nào, nên vừa gặp ngài, Masseo hỏi giọng như khiêu khích: ‘Tại sao theo, tại sao theo, tại sao theo?’ Thánh Phanxicô đáp: ‘Bạn muốn nói gì vậy?’ Masseo nói: ‘Con nói tại sao cả thế giới theo thầy, và xem chừng ai cũng muốn trông thấy thầy, nghe thầy, và vâng theo thầy? Thầy không phải là người có thân hình đẹp đẽ, không giỏi giang, không quyền quí, vậy tại sao ai cũng muốn theo thầy?’ Nghe vậy, thánh Phanxicô quay sang Masseo, rất vui tươi nói: ‘Bạn muốn biết tại sao, muốn biết tại sao, muốn biết tại sao cả thế giới theo thầy? Điều ấy dạy tôi rằng ánh mắt cực thánh của Chúa không nhìn thấy giữa các tội nhân một ai thấp hèn, khốn khó hay tội lỗi nặng nề hơn tôi’.
Lòng khiêm nhường của thánh Phanxicô được tỏ lộ từ hai nguồn, từ tính chất thần học và từ tính chất Kitô học. Ta cùng tập trung vào nguồn thứ nhất. Chúng ta nhận thấy trong Kinh Thánh những hành vi khiêm nhường không đến từ con người, từ sự coi mình khốn cùng hay tội lỗi, nhưng duy nhất từ Thiên Chúa và sự thánh thiện của Người. Tỉ như tiếng Tiên Tri Isaia thốt lên, ‘Tôi là người môi miệng ô uế’ khi bất ngờ chứng kiến sự tỏ hiện vinh quang và thánh thiện của Thiên Chúa trong thánh điện (Is 6, 5); cũng tựa như thánh Phêrô thưa lên Chúa Giêsu sau mẻ cá lạ lùng: ‘Xin Thầy xa con, vì con là kẻ tội lỗi’ (Lc 5n8)
Chúng ta đang đi vào điểm cốt lõi của khiêm nhường, tình trạng mà tạo vật ý thức về mình đứng trước Thiên Chúa đang hiện diện. Khi người ta đo đạc mình với bản thân, với người khác hay với nhân quần xã hội, người ta chẳng bao giờ có được ý tưởng chính xác mình là ai vì thiếu chuẩn mực. Triết gia Kierkegaard viết: ‘Quả là một dấu ấn vô biên khắc ghi trong chủ thể vào lúc người ấy lấy Chúa làm chuẩn mực!’Thánh Phanxicô khiêm nhường trong tính chất này cách đặc biệt. Một lời ngài rất thường lặp lại: ‘Trước Thiên Chúa, con người có là chi, có chăng là có đó và chẳng có gì hơn nữa