2024
Loan báo Tin Mừng
11.7Thánh Benedictô, Tu Viện Trưởng
Hs 11:1,3-4,8-9; Tv 80:2,3,15-16; Mt 10:7-15
Loan báo Tin Mừng
Thánh Bênêđictô sinh tại Norcia năm 480 trong một gia đình giàu sang quý tộc.
Khi nhỏ, cha mẹ cho ngài được ăn học ở địa phương, để gần gũi với gia đình, để dễ bề đào tạo tính tình đức hạnh theo khuôn mẫu tổ tiên.
Năm 14 tuổi, thánh nhân được gởi đến học ở Rôma. Học ở Rôma được một thời gian, ngài thấy Rôma không phù hợp với mình vì cuộc sống ở Rôma lúc đó rất suy đồi trụy lạc. Để giữ gìn linh hồn mình được luôn trong sạch. Ngài đã trốn khỏi kinh thành, muốn tìm đến một nơi thanh vắng, sống đời ẩn tu tịch mạc. Ý muốn của Ngài đã được Chúa ưng thuận. Miền hoang địa cách Rôma 40 dặm là nơi Ngài đã dừng chân để được sống cuộc đời tịch liêu thân mật với Chúa.
Trong khi còn đi lang thang tìm một hang trú ẩn, Bênêđictô gặp được thầy Rômanô, một tu sĩ cùng chí hướng với mình. Tình yêu và lý tưởng đã kết hợp hai người thành đôi bạn chí thiết. Rômanô chỉ cho Bênêđictô một hang rất kín chưa hề có một vết chân người lui tới. Bênêđictô sống ở đó ba năm. Hằng ngày thầy Rômanô mang bánh cho Ngài. Sau thời gian vắn vỏi sống đời ẩn dật hoàn toàn, Chúa muốn đặt ngọn đèn thánh thiện của Bênêđictô lên nơi cao để soi dẫn cho nhiều người.
Ma quỷ thấy nhân đức của ngài thì luôn tìm đủ cách quấy phá. Đứng trước những cám dỗ của ma quỉ, Ngài luôn làm dấu Thánh giá xua đuổi chúng. Còn những người muốn sống đời nhân đức trọn lành tìm đến, thì Ngài luôn sẵn sàng hướng dẫn giúp đỡ, dạy bảo. Nhờ đó mà danh thơm thánh thiện của ngài lan rộng khắp nơi. Cả những người quý phái ở Rôma cũng đến xin làm môn đệ ngài. Ngài thành lập 12 tu viện nhỏ, để tiếp nhận họ và giúp họ tập rèn nhân đức.
Số người muốn tu luyện theo đường lối thánh nhân mỗi ngày một đông, nên năm 520, ngài phải dời về Montô Cátsinô, thành lập tu viện. Đây là tu viện đầu tiên của thánh Bênêđictô. Chính Ngài soạn tu luật cho tu viện. Sau này tu luật mang tên người được phổ biến khắp châu Âu, nên người được mệnh danh là “Tổ phụ của nếp sống đan tu ở phương Tây.”
Ngày nay hầu như tất cả các nước trên thế giới đã có sự hiện diện của các đan viện sống theo lý tưởng của Ngài. Các tu sĩ của Ngài đã hết lòng yêu mến và tuân giữ ba đặc điểm như ba cột trụ chi phối và nâng đỡ đời sống của mình. Ba cột trụ đó là cầu nguyện, học hành và lao động. Người tu sĩ hằng ngày chuyên cần cầu nguyện, siêng năng học hỏi Lời Chúa và làm việc chân tay để tự nuôi sống.
Bênêdictô qua đời ngày 21 tháng 3 năm 547. Từ cuối thế kỷ VIII, Ngài đã được kính nhớ vào ngày 11 tháng 7. Ngày 24 tháng 10 năm 1964, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI ra tông thư “Sứ giả hoà bình” (Pacis nuntius), đặt người làm bổn mạng toàn châu Âu.
Sau khi Ngài qua đời, các môn đệ của thánh nhân đặt xác thầy mình bên cạnh xác em gái Ngài, trong mộ Ngài đã dọn sẵn cho mình ở dưới bàn thờ thánh Gioan Baotixita.
Cuộc đời trần thế của thánh nhân tới đây kết liễu, nhưng danh thơm và sự nghiệp vĩ đại của Ngài sẽ còn tồn tại như bia đá ngàn thu, Người ta quên sao được bộ tu luật bất hủ của Ngài đã làm hứng khởi bao tâm hồn đạo đức là kim chỉ nam cho những ai muốn nên thánh thiện. Đàng khác sự tiến phát mau lẹ của dòng và con số đông đảo của những tu sĩ rải rác khắp năm châu, phải chăng chính là dấu Chúa quan phòng hằng chúc phúc cho sự nghiệp của đấng thánh qua muôn thế hệ.
Trong cuộc sống nhân sinh, con người dù là ai hay như thế nào… tất cả điều cần đến sự bình an.
Qua trang Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu sai các Tông đồ đi loan báo Tin Mừng. Mặc dù Chúa đã trao ban cho các Tông đồ quyền năng “chữa lành những bệnh nhân, làm cho kẻ chết sống lại, giúp những kẻ phong cùi được sạch, trừ quỷ… ”, nhưng bên cạnh đó, Chúa Giêsu còn trao ban sự bình an của Chúa cho các Tông đồ. Đồng thời, Chúa cũng sai các Tông đồ đem sự bình của Chúa đến cho những người đón nhận và tiếp rước các ông.
Vì thế, một trong những “dấu chỉ” cho thấy người môn đệ Chúa thực hiện tốt lệnh truyền Chúa trao đó là “bình an”: bình an nơi bản thân mình và đem bình an đến cho những người khác. “Khi vào nhà nào, các con hãy chào rằng: Bình an cho nhà này. Nếu nhà ấy xứng đáng thì sự bình an của các con sẽ đến với nhà ấy”.
Qua bí tích Rửa Tội, chúng ta đã trở thành môn đệ của Chúa Giêsu. Chúng ta được Chúa Giêsu mời gọi lên đường loan báo Tin Mừng, đem Chúa đến cho người khác. Chúng ta được mời gọi làm công việc này bằng chính cuộc sống hằng ngày của chúng ta.
Qua đoạn Tin Mừng này như là dịp để chúng ta tự hỏi chính mình rằng, chúng ta có nhận thấy mình được sự bình an khi làm chứng cho Chúa trong cuộc sống hằng ngày không? Chúng ta có làm cho người khác bình an sau khi họ gặp gỡ mình hay không?
Đối với chúng ta ngày nay, mỗi người chúng ta khi nhận phép Rửa tội và phép Thêm sức, chúng ta đều được Chúa mời gọi và sai đi rao giảng Nước trời, tức là rao giảng về Chúa Giêsu, về tình thương của Ngài và những hồng ân của Thiên Chúa, có người bằng việc làm, có người bằng lời nói, nhưng tất cả đều rao giảng bằng chính đời sống của mình.
2024
Sai đi rao giảng Tin Mừng
10.7Thứ Tư trong tuần thứ Mười Bốn Mùa Quanh Năm
Hs 10:1-3,7-8,12; Tv 105:2-3,4-5,6-7; Mt 10:1-7
Sai đi rao giảng Tin Mừng
Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Mátthêu ghi lại việc Chúa Giêsu tuyển chọn 12 Tông đồ và sai các ông đi loan báo Nước trời đã gần đến. Sứ mệnh này không phải chỉ dành riêng cho các Tông đồ hoặc những người có trách nhiệm mà cả chúng ta nữa, những người Kitô hữu, mỗi người một cách, phải loan báo về Chúa Giêsu và kêu mời mọi người vào trong Giáo hội, vào trong tình yêu của Chúa.
Theo truyền thống, bất cứ một bậc thầy nào cũng cần có các môn sinh, môn đệ để tiếp tục lý tưởng và sự nghiệp của mình. Các bậc hiền nhân trong lịch sử và các tiên tri trong Cựu ước có các môn đệ, thánh Gioan Tiền hô cũng có nhiều môn đệ. Chúa Giêsu cũng vậy, trong ba năm giảng dạy, Chúa đã kêu gọi nhiều môn đệ, trong số đó Chúa chọn 12 người làm Tông đồ, để tiếp tục sự nghiệp cứu rỗi nhân loại mà Ngài đã khởi đầu.
Chúa gọi và chọn chứ họ không tự mình được chọn hoặc tự ứng cử, nghĩa là Chúa ở một vị trí cao hơn, Chúa là trung tâm chứ không phải họ được quyền lấy mình làm chuẩn; như thế, điều kiện đầu tiên để trở thành Tông đồ là được Chúa chọn. Các môn đệ ở lại với Người, nghĩa là họ phải được tách ra khỏi đám đông và đến; như thế, điều kiện thứ hai là khi được gọi họ phải được tách riêng ra, nghĩa là phải có sự thay đổi đời sống nên tốt hơn.
Có lẽ chẳng ai trong chúng ta xa lạ với xuất xứ của các Tông đồ: đa số họ là những ngư phủ nghèo nàn, thất học. Họ được chọn từ đám đông giai cấp lao động, trong số họ cũng có hai khuôn mặt tiêu biểu cho sự tranh chấp của xã hội Do thái lúc đó: Mátthêu người thu thuế và Simon nhiệt thành. Nhóm Nhiệt thành cương quyết chống ngoại xâm, sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ lề luật, còn đám thu thuế thì lại chạy theo ngoại bang, hợp tác với những kẻ đang thống trị xứ sở để trục lợi.
Có thể nói, những người mà Chúa Giêsu chọn lựa tiêu biểu cho sự thấp kém trong xã hội Do thái. Chúa Giêsu biết rõ điều đó, nhưng Ngài vẫn tuyển chọn, vì đường lối Thiên Chúa khác với đường lối con người. Điều Ngài cần nơi họ không phải là cái đang là, mà là cái sẽ là. Họ tầm thường khiếm khuyết, nhưng với ơn Chúa, họ sẽ làm nên được những việc phi thường (Mỗi ngày một tin vui).
Chúng ta thấy: mười hai Tông đồ yếu kém về mọi mặt, thế mà đã thay đổi được cả một đế quốc Rôma và cả thế giới sau này nữa. Quả thật, khi Chúa còn sống bên cạnh, các ông còn quê mùa, hay sợ sệt, tham vọng tầm thường, và khi Chúa chết, các ông bỏ trốn vì sợ liên luỵ. Thế mà sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, các ông can đảm, khôn ngoan, đấu lý với hết mọi bậc người, ra tù vào khám vì danh Chúa, và các ông đã xây dựng nước Chúa ngay tại nơi đế quốc đã từng tiêu diệt Thầy mình và cả các ông nữa.
Tại sao họ yếu kém như thế mà dám đương đầu với những thế lực kình địch và biến đổi được cả thế giới như vậy? Thưa, họ đã trở thành những dụng cụ hữu hiệu trong bàn tay Thiên Chúa toàn năng, Ngài làm được mọi sự Ngài muốn. Còn các Tông đồ thì có một đức tin vững mạnh, nếu các ông không tin vào quyền năng Thiên Chúa đã lựa chọn các ông, ở với các ông, hỗ trợ các ông, chắc chắn các ông không bao giờ dám nhận một công việc to lớn và nặng nề như thế.
Chúa cũng sai chúng ta đi vào đời đem Tin mừng của Chúa đến cho mọi người như Chúa đã sai các Tông đồ ngày xưa, đấy là vinh dự và bổn phận của các Kitô hữu.
Nếu công đồng Vatican II khẳng định: “Bản chất của Hội thánh là truyền giáo” thì mọi Kitô hữu cũng chính là những sứ giả Tin mừng, cũng có trách nhiệm như Hội thánh. Những lời Chúa Giêsu nói với các Tông đồ ngày xưa vẫn còn vang vọng nơi chúng ta, vẫn còn có tính cách thời sự của nó. Chúa muốn chúng ta đi vào cánh đồng truyền giáo rộng rãi bao la bát ngát để đem nhiều người về với Chúa. Cảm xúc của Chúa Giêsu đứng trước cánh đồng lúa chín vàng ối “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít” cũng phải là cảm xúc của chúng ta đứng trước tình hình thế giới hiện nay: chúng ta hãy xin Chúa sai nhiều sứ giả Tin mừng đến cánh đồng truyền giáo, đồng thời chúng ta cũng có thể góp phần vào công việc loan báo Tin mừng bằng chính “cuộc sống chứng tá” của chúng ta.
Đoạn Tin Mừng trên là phần khởi đầu cho bài giảng của Chúa Giêsu về sứ mạng truyền giáo. Giáo Hội có sứ mạng tiếp nối công cuộc rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu và đó cũng là sứ mạng của mọi Kitô hữu. Việc truyền giáo không chỉ dành riêng cho các linh mục, tu sĩ hoặc các nhà truyền giáo mà là của mọi tín hữu. Sắc lệnh Tông đồ Giáo dân đã khẳng định rằng: “Ơn gọi Kitô hữu tự bản chất là ơn gọi làm tông đồ”. Chính Đức Thánh Cha Phanxicô đã mời gọi: “Ngày nay còn rất nhiều người không biết Đức Giêsu Kitô. Vì thế, việc rao giảng cho người ngoài Kitô giáo thật là công việc rất khẩn cấp, mà tất cả mọi thành viên của Giáo Hội được kêu gọi để tham dự vào sứ vụ truyền giáo này, bởi vì tự bản tính Giáo Hội là truyền giáo: Giáo Hội được sinh ra để ra đi”.
Cho nên mỗi người Kitô hữu hôm nay phải ý thức hơn về sứ mạng và tầm quan trọng của việc truyền giáo. Sứ mạng cao cả của người môn đệ là người được Đức Kitô sai đi trong Chúa Thánh Thần, để làm chứng nhân cho Nước Trời.
Là Kitô hữu, chúng ta cần có thái độ “ra đi” như ĐGH Phanxicô đã nói trong Tông huấn Evangelii Gaudium. Người mang và sống sứ mạng truyền giáo là người luôn biết “đi ra” khỏi những bận tâm về chính mình để đến với người khác bằng thái độ quên mình, sống chan hoà với những người chung quanh, tinh thần cởi mở, đi đến với người khác, gỡ bỏ những rào cản của nghi kỵ, sợ hãi, thành kiến và óc bảo thủ. Khi đến với người đau khổ, bệnh tật, chúng ta có thể giúp họ can đảm chiến đấu với bệnh tật; khơi lên nguồn sống và niềm hy vọng. Việc đi đến thăm viếng, nâng đỡ, cảm thông sẽ xoa dịu và làm vơi đi nỗi khổ sầu của anh chị em. Quả thực, mỗi chúng ta luôn ý thức và sống sứ mạng truyền giáo như thế, cũng chính là lúc lời loan báo “Nước Trời đã đến gần” lại được vang lên cho mọi người.
2024
Chạnh lòng thương
9.7Thứ Ba trong tuần thứ Mười Bốn Mùa Quanh Năm
Hs 8:4-7,11-13; Tv 115:3-4,5-6,7-8,9-10; Mt 9:32-38
Chạnh lòng thương
Tin Mừng hôm nay thánh Matthêu thuật lại phép lạ, Chúa chữa một người bị câm do quỷ khống chế, khi quỷ bị trục xuất ra thì người ấy nói được. Chúa đã giải thoát anh ra khỏi tình trạng câm lặng để anh có thể nói những điều tốt đẹp. Người ta bảo: “ Nói là gieo, nghe là gặt”. Thật vậy nếu ta nói những điều hay thì chẳng khác gì chúng ta đã gieo những hạt giống tốt vào lòng người nghe, ngược lại nếu chúng ta nói những điều xấu xa, gian dối thì chẳng khác chi chúng ta gieo những giống cây độc vào lòng người khác. Ở đây sau khi chứng kiến phép lạ xảy ra, có nhiều người thán phục quyền năng Thiên Chúa mà thốt nên rằng: “ Ở Ít-ra-el chưa hề thấy thế bao giờ”. Thế nhưng ngược lại bọn Pha-ri-sêu thì lại cho rằng: “ Ông ấy dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ”. Vì thế những lời nói của họ như giống độc làm mù lấp người nghe.
Người ta đem đến cho Chúa Giêsu một người câm bị quỉ ám. Chúa trừ quỉ ra và người câm nói được, dân chúng thấy vậy thì khâm phục quyền năng Chúa, tin tưởng Chúa là Đấng Thiên Sai; còn người biệt phái thì không chịu tin Chúa mà lại tin ma quỉ… Và Chúa đi khắp các thành các làng mạc rao giảng Tin mừng Nước Chúa và chữa lành mọi bệnh tật. Khi thấy dân chúng đông đúc không ai cứu giúp thì Ngài chạnh lòng thương họ. Ngài bảo các môn đệ xin Chúa Cha cho nhiều người đến dìu dắt họ.
Mở đầu Tin mừng là câu chuyện Chúa Giêsu trục xuất một tên quỉ ra khỏi người câm. Toàn dân thì ca tụng, nhưng người biệt phái độc miệng cho rằng: Chúa dùng quyền tướng quỉ mà trừ quỉ. Khi đã không ưa thì dưa có dòi, biệt phái tìm cách để nói xấu Chúa Giêsu, vì giáo lý của Ngài đã vạch trần thái độ kiêu ngạo, dối trá và giả hình của họ. Tuy nhiên, đối với Chúa Giêsu, sự chống đối không quan trọng khi Ngài không phản kháng, mà điều khẩn thiết hơn cả là Tin mừng phải được loan báo cho muôn dân.
Trong ý thức hệ của người Do thái, họ vẽ ra trong tư tưởng của mình một lối sống kiểu Biệt phái giả hình và đòi dân theo, họ quan niệm một thời kỳ cứu độ và một Đấng Messia giàu sang, chứ không phải hoà đồng chung bàn với người hèn kém. Từ đó họ không nhận ra được Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế. Với ý thức hệ như thế, họ không những bị trói buộc trong tư tưởng thiển cận của họ, không nhận ra được dấu chỉ của thời đại, mà còn bắt người khác phải suy nghĩ và hành động như họ. Chính vì thế mà họ gièm pha những lời Chúa Giêsu nói và những việc Ngài làm. Họ tìm cách lèo lái dân thoả hiệp với họ và xuyên tạc sự thật về Chúa Giêsu, trong khi dân chúng ca tụng công việc của Chúa thì họ lại bóp méo xuyên tạc cho đó là việc của tướng quỉ.
Chúa Giêsu chạnh lòng thương trước hiện trạng của con người vất vưởng lầm than, mà những bậc làm “thầy” Do thái không giải quyết được cho họ. Họ như rắn mất đầu, thiếu vắng đời sống tâm linh. Trong bản tính nhân loại, một mình Chúa cần sự cộng tác của các môn đệ cùng làm công việc của Ngài như một “mục tử” và “lương y”. Trước sự bao la của hoạt động tông đồ, điều đầu tiên mà Chúa Giêsu yêu cầu là cầu nguyện: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa”.
Chúa Giêsu sai môn đệ đi rao giảng Tin mừng, vì Chúa muốn rằng sứ mệnh rao giảng của Chúa cần được tiếp tục mãi trong thời gian từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nhờ qua những con người được mời gọi cộng tác với Chúa, làm công việc của Chúa với những quyền năng do Chúa ban cho. Sự hiện diện và sứ mệnh của Giáo hội qua các thời đại trong lịch sử đều nằm trong chương trình của Chúa ngay từ đầu và do ý Chúa muốn, chứ không do sáng kiến của con người.
Bức tranh nhân loại ngày nay thật tăm tối khi sự nghèo khó lại sánh vai bên cạnh sự giàu có và thừa mứa. Dưới gầm bàn ăn của người phú hộ ngày ngày yến tiệc linh đình là vô số những Lazarô đang lê lết quằn quại trong bệnh tật và đau khổ.
Sự hiện diện của những người đau khổ là một tra vấn cho lương tâm Kitô hữu chúng ta. Chính qua chúng ta mà Chúa Giêsu tiếp tục chạnh lòng thương trước nỗi khốn khổ của con người, nhưng cũng chính qua những người khốn khổ mà Chúa Giêsu đến với chúng ta. Trong ngày sau hết, chúng ta chỉ bị xét xử về một điều, chúng ta có nhận ra và yêu thương Ngài nơi những con người khốn khổ không?
Có lần Mẹ Têrêsa đã cầu nguyện với Chúa như thế này: “Xin hãy cho con rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói nhưng bằng gương sống, với sức thu hút mạnh mẽ và sự lôi cuốn của lòng cảm thông, một sự thu hút và lôi cuốn đến từ những gì con làm, bằng chứng rõ ràng cho Tình yêu hoàn toàn đối với Chúa, Đấng hiện diện tràn đầy trong tâm hồn con”.
Nhân loại ngày nay vẫn còn bơ vơ như đoàn chiên không có người chăn. Hãy tập cho mình biết chạnh lòng thương như Chúa Giêsu, để cùng với Chúa làm cho thế giới chúng ta đang sống được ấm áp tình người hơn.
Tin Mừng hôm nay cho thấy tình yêu vô hạn của Chúa Giê-su đối với dân chúng lúc bấy giờ: Ngài tận tình giảng dạy mọi người, rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, ra tay trừ quỷ và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền cho dân chúng. Qua những việc làm cụ thể, tiếp xúc với đám đông dân chúng; Chúa Giê-su đã đau nỗi đau đồng loại (chạnh lòng thương cảm) khi thấy phần đông dân chúng vẫn còn đó những lầm than đói nghèo, họ không được định hướng, họ vất vưởng, bơ vơ lạc lõng tựa như đàn chiên không có người chăn dắt, nuôi dưỡng; như đồng lúa chín vàng nhưng lại thiếu thợ gặt…
Thế giới ngày nay ví như một cánh đồng mênh mông – Lúa chín đầy ra đó mà lại thiếu thợ gặt – Thế giới hôm nay có rất nhiều linh hồn chờ đợi được đón nhận Nước Trời; nhưng người chỉ đường và hướng dẫn cho họ thì vẫn còn thiếu nhiều quá.
Chúa Giê-su xuống thế làm người để cứu thế gian thoát khỏi quyền lực sự dữ và sự chết. Qua đó, Ngài kêu gọi sự cộng tác của con người trong mầu nhiệm Cứu Độ.
Thiết nghĩ, lời kêu gọi của Ngài vẫn còn giá trị và khẩn cấp trong mọi thời đại. Là người Ki-tô hữu, chúng ta có lo lắng và chạnh lòng để Nước Chúa được lan rộng tới các tâm hồn hay không ? Ðức tin của chúng ta có sống động bằng các việc làm cụ thể hay chỉ là kiểu đức tin (chết) nằm trong sổ Rửa tội ?
2024
THIÊN CHÚA YÊU THƯƠNG VÀ KHÔNG LOẠI TRỪ MỘT AI
8.7 Thứ Hai trong tuần thứ Mười Bốn Mùa Quanh Năm
Hs 2:16-18,21-22; Tv 145:2-3,4-5,6-7,8-9; Mt 9:18-26
THIÊN CHÚA YÊU THƯƠNG VÀ KHÔNG LOẠI TRỪ MỘT AI
Chúa Giêsu được sai đến trần gian, Ngài thực hiện chương trình của Thiên Chúa là ban sự sống, là cứu chữa và tìm đến với người bất hạnh đang cần sự an ủi, nâng đỡ. Ngài luôn quan tâm đến hoàn cảnh của con người: cụ thể là người phụ nữ bị bệnh băng huyết, và con gái vị kỳ mục. Tất cả những khổ đau của con người đều có âm hưởng mạnh mẽ trong tâm hồn Chúa Giêsu. Ngài cứu chữa người này, bình phục người kia, hồi sinh người khác, đem lại phẩm giá và sự tôn trọng cho những ai đang bị loại trừ, bị coi khinh. Điều duy nhất Ngài đòi hỏi là lòng tin và sự khiêm tốn của chúng ta nơi quyền năng và lòng thương xót của Ngài.
Đoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại phép lạ kép. Sự việc này diễn ra đối với vị kỳ mục là người có vai vế trong dân có đứa con vừa qua đời tức thì, và cũng diễn ra đối với người phụ nữ đau bệnh đã lâu là một người bé mọn trong dân. Cả hai đại diện cho mọi tầng lớp nhân dân chạy đến với Chúa. Lòng tin của con người vào Thiên Chúa sẽ giúp họ được Chúa nhậm lời bất luận họ là ai, cấp bậc nào đi nữa.
Tin mừng cho biết: một ông trưởng hội đường có con gái mới chết. Ông tin chắc Chúa có thể làm cho nó sống lại được, nên đến xin Chúa cứu giúp. Chúa liền đi theo ông… Dọc đường, một người đàn bà mắc bệnh băng huyết thấy Chúa thì lén sờ vào gấu áo Ngài, với niềm tin sẽ được khỏi bệnh. Và bà đã khỏi bệnh thật… Khi đến nhà ông kỳ lão, Chúa thấy người ta khóc lóc ồn ào thì bảo họ lui ra, rồi Ngài cầm tay đứa bé, nó liền sống lại. Người đàn bà băng huyết được khỏi bệnh và cô gái chết được sống lại đều nhờ lòng tin Chúa. Vì thế, đức tin rất cần cho được ơn cứu vớt phần hồn phần xác.
Ông trưởng hội đường có đứa con gái đã chết. Chính ông xác định như thế. Khi Chúa Giêsu nói nó không chết mà chỉ ngủ thôi thì đám đông nhạo cười Ngài. Ở đây chúng ta thấy đức tin của vị kỳ mục rất mạnh. Trước sự ra đi của đứa con. Tất cả mọi phương thế trần gian đã chào thua. Lịch sử chưa bao giờ nói về một người đã chết được sống lại. Chính Chúa Giêsu cũng chưa cho ai sống lại từ cõi chết, vậy mà ông đến với Chúa, ông nói chắc ăn như bắp: “Xin Ngài đến đặt tay trên nó thì nó sẽ sống lại” (Mt 9, 18).
Còn người đàn bà mắc bệnh loạn huyết: Bệnh bà rất nặng vì đã chữa trị suốt 12 năm mà không khỏi. Khi được nghe biết Chúa xuất hiện bà tin sẽ được khỏi: “Tôi chỉ cần sờ vào áo của Người thôi là sẽ được cứu” (Mt 9, 20). Và đã xảy ra đúng như vậy.
Chúa Giêsu cũng xác nhận cả hai trường hợp được thụ hưởng phép lạ của Chúa là nhờ “đức tin”.
Tin mừng hôm nay ghi lại một vài cử chỉ của Chúa Giêsu đối với con người: một vị kỳ mục đến xin Ngài cứu đứa con vừa chết, người đàn bà mắc bệnh loạn huyết chỉ khấn thầm và sờ đến gấu áo Ngài, cả hai đại diện của đủ mọi tầng lớp mà Chúa Giêsu gặp gỡ hằng ngày. Ngài không loại trừ bất cứ hạng người nào, bất cứ giai cấp nào trong xã hội, bởi vì tất cả đều là đối tượng của Tình yêu Thiên Chúa. Vị kỳ mục tìm đến với Chúa, người đàn bà đã len lỏi giữa đám đông để sờ vào áo Ngài, đó là hình ảnh của sự tìm kiếm mà con người không ngừng thực hiện để đến với Chúa.
Nhưng thật ra, chính Thiên Chúa mới là Đấng đi bước trước để đến với con người. Phép lạ đã diễn ra như một kết quả của lòng tin: “Đức tin của con đã cứu chữa con”, nhưng cũng chính niềm tin đã giúp con người khám phá ra phép lạ Thiên Chúa không ngừng thực hiện vì yêu thương con người.
Khi Chúa Giêsu đang giảng dạy thì ông trưởng hội đường đến bái lạy xin cứu chữa con gái ở nhà. Chúa Giêsu lên đường đi với ông về nhà. Quãng đường không biết bao xa, nhưng vì đám đông đi theo chen lấn, và xuất hiện một bà loạn huyết chen vào “phá đám”, nên chưa đến nơi thì có người đến báo là con ông đã chết. Có lẽ lúc này đức tin của ông trưởng hội đường bị đặt trước một thử thách rất lớn, bởi lẽ ra Chúa Giêsu có thể đến sớm hơn để “bệnh nhân không chết nếu bác sĩ Giêsu đến kịp”. Thế nhưng Chúa Giêsu đã vội trấn an: “Ông đừng sợ, cứ vững tin”. Và vì vững tin mà con gái ông đã được Chúa cho hồi sinh.
Thiên Chúa yêu thương con người không loại trừ một ai và Ngài đã trao hiến Con Một để cứu chuộc hết thảy mọi người. Quan trọng là người ta có dám ký thác cuộc đời, vận mệnh mình vào tay Thiên Chúa hay không mà thôi. Và còn hơn thế nữa, những tưởng con người chạy tới cầu xin Thiên Chúa, nhưng không, chính Thiên Chúa đã đi bước trước đến với con người. Và phép lạ đã diễn ra như một hệ quả của lòng tin: “Ðức tin của con đã cứu chữa con”.
Cũng vậy, hành trình đức tin của một Kitô hữu chúng ta là một chặng đường dài, đôi khi còn bị gián đoạn với bao yếu tố ngoại cảnh mà chúng ta không lường trước được, thậm chí có lúc tưởng chừng như tuyệt vọng. Nhưng nếu chúng ta vững chí như ông trưởng hội đường trong Tin mừng hôm nay thì sẽ được cứu độ