2024
Sám hối để được thứ tha
16.7 Thứ Ba trong tuần thứ Mười Lăm Mùa Quanh Năm
Is 7:1-9; Tv 48:2-3,3-4,5-6,7-8; Mt 11:20-24
Sám hối để được thứ tha
Tin Mừng của ngày hôm nay ghi lại việc Đức Giêsu lên tiếng khiển trách các thành dọc bờ hồ Galilê là Khôradin, Bếtsaiđa và Cáphácnaum. Các thành này đều chứng kiến “phần lớn các phép lạ” Đức Giêsu đã làm. Thế nhưng họ không hối cải. Tại sao vậy? Xin thưa, vì họ kiêu căng. Ta cũng nên biết rằng so với các thành khác, những thành này có trình độ kiến thức Thánh Kinh cao hơn. Khi thấy sự kiêu căng đã khép lòng họ, Đức Giêsu nghĩ tới những kẻ “bé mọn” nhờ khiêm tốn mà nhận được mặc khải của Thiên Chúa. Bởi thế, trong đoạn tiếp liền sau, Đức Giêsu sẽ cảm tạ Thiên Chúa “Vì đã giấu không cho những bậc thông thái biết điều này, nhưng lại mặc khải cho những kẻ bé mọn”.
Sám hối là điều kiện để được cứu độ. Chính vì thế mà ngay ở khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu đã đưa ra lời kêu gọi: hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. Thật vậy, cho dù là dân ngoại như dân của thành Tia và Xiđôn, cho dù là dân tội lỗi nặng nề như dân thành Xơđôm, nhưng nếu biết ăn năn sám hối, họ vẫn được Thiên Chúa yêu thương, tha thứ và cứu độ. Ngược lại nếu không sám hối và hoán cải tâm hồn, thì cho dù là dân riêng được tuyển chọn dân Do Thái, chẳng những không được cứu độ, mà còn bị xét xử nghiêm ngặt hơn.
Tin Mừng hôm nay ghi lại lời quở trách nặng nề của Đức Giêsu đối với một số thành thị ven biển hồ Galilê là Khôradin, Bếtsaiđa và Caphácnaum. Tại đây, Đức Giêsu đã rao giảng và làm nhiều phép lạ, đồng thời Ngài cũng đưa ra lời kêu gọi sám hối, nhưng đâu đâu người ta cũng dành cho Ngài sự dửng dưng, chống đối; đâu đâu người ta cũng bịt tai trước lời mời gọi sám hối của Ngài.
Tin Mừng còn cho chúng ta thấy, Đức Giêsu luôn luôn tỏ ra bao dung đại lượng với những kẻ tội lỗi. Làm như thế, không phải là vì Đức Giêsu muốn dung túng cho sự dữ hay tạo dịp cho những kẻ tội lỗi tiếp tục lún sâu vào con đường hư mất, nhưng là để cho họ có cơ hội sám hối trở về với Ngài và được chữa lành. Mặt khác, họ cũng còn được kéo ra khỏi tình trạng nô lệ tội lỗi, ngõ hầu được sống trong sự tự do của con cái Thiên Chúa.
Đức Giêsu nhắc tới thành Xơđôm và cho biết sở dĩ nó bị hủy diệt vì đã không tin nhận những sứ điệp của Chúa, cũng như phớt lờ những cảnh báo của Ngài. Tuy nhiên cũng nên biết rằng, thành Xơđôm còn nổi tiếng hơn về một thứ tội khác. Sở dĩ nói như vậy là vì danh xưng của nó được đặt tên cho một thứ tội mà hiện nay rất đỗi quen thuộc với chúng ta: Tội đồng tính luyến ái nam. Sodomy (Sodomia, peccatum Sodomiticum hay sin of Sodom) đều dùng để nói về một thứ tội đã xuất hiện từ rất lâu đời trong lịch sử loài người, mà tên gọi của nó gắn liền với địa danh Xơđôm. Thánh Phaolô ít nhất hai lần nói đến thứ tội này trong các thư của ngài (1Cr 6,9 và 1Tm 1,10) và cả hai đều nói đến tội đồng tính nam.
Tiếc rằng, trong bản dịch Kinh Thánh Việt ngữ đã làm giảm bớt sự nổi tiếng của nó. Quả vậy, trong các bản dịch trước đây, Nhóm Phiên dịch Các giờ kinh Phụng vụ đã dùng chữ “kê gian” để chuyển ngữ thứ tội này. Tôi cho rằng, cách dùng thuật từ này để dịch Sodomy là rất hay. Bởi lẽ, theo lối trình bày của thánh Phaolô, thì “Kê gian” là một thuật ngữ để chỉ những tội lỗi của hành vi tính dục được cho là phi tự nhiên, tức là những hành vi tính dục không tạo ra sự sinh sản, cụ thể hơn là những hành vi quan hệ tình dục qua đường hậu môn.
Dẫu thế, khi dùng “kê gian” thì cũng khiến nhiều người không hiểu hoặc hiểu sai về nó. Nói một cách khác, khi nhìn thấy khái niệm này trong Tân ước, chắc chắn là nó không hề có ý gì liên quan tới gian thương, tức buôn gian bán lận; càng không dính dáng gì tới chuyện thống kê gian dối.
Thiên Chúa sẽ xét xử con người, không chỉ dựa vào tội lỗi của họ mà còn dựa vào chính thái độ của họ trước lời kêu gọi sám hối của Đức Giêsu. Nếu con người thành tâm sám hối, thì dù tội lỗi nặng nề đến đâu thì Thiên Chúa vẫn tha thứ; trái lại, nếu con người nhất mực từ chối, họ sẽ bị xét xử cách không khoan nhượng. Còn chúng ta, chúng ta cũng sẽ bị xét xử nghiêm hơn dân thành Xơđôm, hơn cả những thành mà hôm nay Đức Giêsu đã kết án, nếu chúng ta không sám hối trở về với Ngài. Bởi vì, chúng ta không chỉ có lời cảnh cáo của các ngôn sứ, cũng không chỉ được nghe các phép lạ Đức Giêsu đã thực hiện, mà còn biết cả cái chết và sự phục sinh của Ngài, vốn được coi là bằng chứng lớn nhất về lòng thương xót và nhẫn nại của Thiên Chúa dành cho con người ở mọi thời. Như thế, nếu chúng ta khước từ sám hối, chúng ta sẽ tự chuốc lấy án phạt.
Thiên Chúa là Đấng yêu thương và giàu lòng thương xót. Bởi đó, Ngài luôn nhẫn nại đợi chờ con người sám hối trở về để được tha thứ, để được cứu độ. Nhưng chúng ta đừng quên, Thiên Chúa cũng là Đấng rất mực công bằng. Bởi đó, những ai có công sẽ được ân thưởng xứng đáng, còn những kẻ tội lỗi và nhất mực từ chối sám hối sẽ chịu sự xét xử hết sức nghiêm minh.
Có bao giờ chúng ta nghĩ rằng, sở dĩ Chúa còn để chúng ta sống đến ngày hôm nay là vì Ngài muốn dành cho chúng ta một cơ hội để sám hối, trở về với Ngài không? Mỗi người chúng ta hãy tự xét mình và đừng để Thiên Chúa phải chờ đợi chúng ta thêm nữa.
2024
Chúa sẽ đền bù
15.7 Thánh Bonaventure, Gmtsht
Is 1:10-17; Tv 50:8-9,16-17,21,23; Mt 10:34-11:1
Chúa sẽ đền bù
Thánh Bonaventura — một tu sĩ Phanxicô, một thần học gia, một Tiến Sĩ Hội Thánh — vừa uyên bác và vừa thánh thiện. Vì nét linh đạo luôn luôn thể hiện nơi con người và văn bản của ngài, nên lúc đầu ngài được gọi là Tiến Sĩ Ðạo Ðức; nhưng trong các thế kỷ gần đây ngài được gọi là Tiến Sĩ Thánh theo gương “Cha Thánh” là Thánh Phanxicô, vì ngài sống tinh thần đích thực của một tu sĩ Phanxicô.
Sinh ở Bagnoregio, Tuscany một thành phố thuộc miền trung nước Ý năm 1221. Khi còn nhỏ, Bonaventura được chữa khỏi căn bệnh hiểm nghèo qua lời cầu nguyện của Thánh Phanxicô Assisi.
Ðược sự khuyến khích của Thánh Phanxicô và cảm kích trước đời sống gương mẫu của các tu sĩ khác, ngài gia nhập Dòng Phanxicô lúc hai mươi hai tuổi. Sau khi khấn trọn, ngài đến Balê tiếp tục việc học với các giáo sư nổi tiếng là Thánh Alexander ở Hales và Gioan ở Rochelle. Tại Balê, ngài trở nên người bạn chí thân với Thánh Tôma Aquinas và cả hai cùng đậu bằng Tiến Sĩ.
Vào năm 1257, ngài được chọn làm bề trên Dòng khi mới ba mươi lăm tuổi và đã thành công trong việc hòa dịu các xáo trộn trong Dòng vì những bất đồng nội bộ. Ngài rất có công với Dòng và đã viết lại tiểu sử của Thánh Phanxicô. Ngài được Ðức Giáo Hoàng Clementê IV bổ nhiệm làm Tổng Giám Mục của York, nhưng ngài xin đừng ép buộc phải chấp nhận vinh dự ấy. Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô X đã buộc ngài phải chấp nhận một vinh dự cao hơn, đó là chức Hồng Y và Giám Mục của Albanô.
Vào sáng ngày 15 tháng 7 năm 1274, trong khi Công Ðồng Lyon II đang khai diễn, Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô X và các giáo phụ trong Công Ðồng đã phải bàng hoàng khi nghe tin Ðức Bonaventura từ trần. Một người chép sử vô danh đã ghi lại cảm tưởng về ngài: “Một người uyên bác có tài hùng biện, và thánh thiện ngoại hạng, ngài nổi tiếng về sự nhân từ, dễ làm quen, hòa nhã và giầu lòng thương người. Với tất cả các đức tính ấy, ngài được Thiên Chúa yêu dấu và thực sự là một con người. Trong tang lễ của ngài, nhiều người đã nhỏ lệ, vì Thiên Chúa đã ban cho ngài một ơn sủng, đó là bất cứ ai biết đến ngài đều quý mến ngài một cách chân thành.”
Người được Đức Sixtus IV tôn phong hiển thánh ngày 14 tháng 4 năm 1482 và Đức Sixtus V tuyên phong Tiến Sĩ Hội Thánh ngày 14 tháng 3 năm 1588.
Trang Tin mừng hôm nay làm cho chúng ta có cảm tưởng Chúa Giêsu đưa ra toàn là những điều nghịch lý. Tại sao Chúa Giêsu không đem đến hoà bình mà lại đem chiến tranh? Thực sự phải đi sâu vào vấn đề mới có thể hiểu được. Chúng ta đừng tưởng hòa bình là không có chiến tranh. Nhưng đúng hơn hoà bình đích thực chỉ có sau những trận chiến ác liệt. Trận chiến là cuộc phân chia phải-trái, thiện-ác, và quyết liệt là chọn lựa điều thiện. Vì thế, nếu chưa chiến đấu là còn lưỡng lự chưa dứt khoát. Thiên Chúa không chấp nhận tình trạng dở dở ương ương. Nóng thì nóng hẳn, nguội thì nguội hẳn, hâm hâm dở dở, Thiên Chúa sẽ loại trừ.
Chúng ta thấy Chúa đưa ra cho người môn đệ sự lựa chon : “Anh em đừng tưởng Thầy đem đến bình an cho trái đất: Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa con trai với cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. Kẻ thù của mình chính là người nhà” (Mt 10,34-36).
Nghe có vẻ ngược đời, nhưng sự chia rẽ ở đây nói lên một sự lựa chọn cho người môn đệ. Những ai dám sống và hành động theo con đường Chúa Giêsu, thì thường bị người đời coi là dại dột, là ngu xuẩn, là điên rồ, thậm chí còn bị ghen ghét hoặc bị bách hại đủ điều. Vì thế, Người đòi môn đệ phải sẵn sàng chia sẻ sự đau khổ mà Chúa Giêsu phải chịu. Vì thực tế sẽ có sự chia rẽ từ trong gia đình: trong cùng một nhà mà có những người tin Chúa và có kẻ lại không tin. Nhưng ai bền đỗ đến cùng thì sẽ được ơn cứu độ.
Và có thể nói rằng trang Tin mừng hôm nay cho biết hệ quả của bước đường theo Chúa. Theo Chúa, người môn đệ phải chấp nhận nhiều thua thiệt: họ có thể bị chống đối từ ngoài xã hội đến trong gia đình, và một cách nào đó, Chúa Giêsu cũng bị xem là nguyên cớ của các tranh chấp, chống đối. Thật thế, làm sao không có đối nghịch giữa ánh sáng và bóng tối, giữa Chúa Giêsu và thế gian, giữa quyền lực Thiên Chúa và quyền lực thế gian. Bước theo Chúa, người môn đệ phải chọn lựa, và chỉ chọn lựa tình yêu Chúa mới cho họ xứng đáng được gọi là môn đệ Ngài.
Chúa nói rõ về chuyện ưu tiên trong chọn lựa của người môn đệ :“Ai yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy” (Mt 10,37).
Và rồi chúng ta thấy phải chăng Chúa Giêsu đặt ra một điều kiện của Chúa quá khó? Sở dĩ Ngài đưa ra điều kiện như vậy, để nói lên một sự dứt khoát chứ không phải nửa vời. Ngài không khuyến khích việc vô ơn bất hiếu với cha mẹ, hoặc phải sống vô tâm vô tình với người thân, nhưng là Ngài muốn nhấn mạnh đến sự ưu tiên chọn Chúa là trên hết và Ngài đòi hỏi sự so sánh hơn kém khi phải chọn lựa. Nếu phải chọn lựa giữa Chúa Giêsu với cha mẹ và người thân, thì những người quyết tâm theo Chúa phải dám chọn Chúa Giêsu là gia nghiệp.
Bỏ cha, bỏ mẹ, vợ con, anh em là bỏ những cái gì ngoài mình, nhưng Chúa còn đòi hỏi hơn nữa là dám bỏ cả mạng sống nếu phải làm chứng cho Chúa.
Với con người thì so đo tính toán nhưng với Chúa thì đừng so sánh bởi lẽ Chúa quảng đại hơn sự so đo tính toán của con người. Xin Chúa thêm ơn để chúng ta đừng so đo tính toán bất cứ điều gì với Chúa.
2024
LÊN ĐƯỜNG LOAN BÁO TIN MỪNG
14.7 Chúa Nhật thứ Mười Lăm Mùa Quanh Năm
Am 7:12-15; Tv 85:9-10,11-12,13-14; Ep 1:3-14; Ep 1:3-10; Mc 6:7-13
LÊN ĐƯỜNG LOAN BÁO TIN MỪNG
Một trong những ưu tư lớn trong cuộc đời công khai của Chúa Giêsu, đó là tìm những người cộng tác với mình trong công cuộc truyền bá Phúc âm, bởi vì Ngài luôn ý thức rằng: Lúa chín thì nhiều, mà thợ gặt thì ít. Chính vì thế Ngài đã kêu gọi và chọn lựa các môn đệ. Ngài đã để cho các ông sống bên cạnh mình và trực tiếp huấn luyện các ông, bằng cách để cho các ông được nghe những lời Ngài giảng, xem những việc Ngài làm. Và cắt nghĩa cho các ông những điều các ông chưa hiểu.
Rồi hôm nay, Ngài đã sai các ông đi để thực tập truyền giáo. Và trước khi các ông lên đường, Ngài đã căn dặn: Đừng mang theo bao bị, đừng mang theo cơm bánh, đừng mang theo tiền bạc và đừng mặc hai áo, nghĩa là Ngài bảo các ông phải ra đi trong một hoàn cảnh bấp bênh nhất, để tập trung vào việc rao giảng Tin Mừng, cũng như luôn phó thác vào tình thương và quyền năng của Thiên Chúa.
Hành trang của người môn đệ là sự gắn bó mật thiết với Đức Giêsu. Các môn đệ chỉ được sai đi sau khi đã có một thời gian sống bên cạnh Người. Thời gian sống bên Đức Giêsu cần thiết để các môn đệ hiểu biết, cảm thông và nhất là yêu mến, gắn bó mật thiết với Người. Đây chính là hành trang quan trọng nhất. Người được sai đi phải gắn bó mật thiết với Đấng đã sai mình. Sự gắn bó mật thiết là nguồn mạch, bảo đảm tính trung thực, là chìa khoá thành công của sứ vụ. Đức Giêsu đã nêu gương về điểm này khi luôn gắn bó mật thiết với Đức Chúa Cha, Đấng đã sai Người. Sự gắn bó ấy giúp Người hoàn toàn kết hiệp với Đức Chúa Cha, trở nên một lòng một ý với Đức Chúa Cha, luôn cầu nguyện, luôn từ bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa Cha. Chính vì thế, sứ vụ của Người đã thành công tốt đẹp.
Hành trang của người môn đệ là tâm hồn đơn sơ phó thác. Khi chỉ thị cho các môn đệ: “không được mang gì khi đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo”, Đức Giêsu muốn các ông sống trong cảnh nghèo khó để hoàn toàn tin tưởng phó thác vào Chúa. Tiền của, tiện nghi vật chất dễ tạo ra một thứ an tâm giả tạo, dẫn con người đến chỗ tự mãn, tự kiêu, tự phụ cho rằng mọi thành công là nhờ tài sức riêng mình. Vì thế, dễ tha hoá, làm theo ý mình hơn là làm theo ý Chúa, sắp đặt chương trình cho Chúa hơn là tìm thực hiện chương trình của Chúa. Nghèo khó sẽ giúp người môn đệ ý thức sự nghèo nàn thiếu thốn, sự yếu ớt của mình, ý thức đó sẽ giúp người môn đệ biết khiêm nhường, tin tưởng phó thác cho Chúa. Tôi chỉ là hư vô, là cát bụi. Mọi thành công đều của Chúa, nhờ Chúa. Những thành công do tài sức con người sẽ mau tàn. Chỉ có công trình của Chúa mới bền vững. Vì thế đơn sơ phó thác là một hành trang rất cần thiết cho người môn đệ. Không mang theo gì của loài người, chỉ mang theo niềm tin yêu phó thác vào Thiên Chúa, đó chính là mang theo tất cả.
Hành trang của người môn đệ là tình liên đới. Đức Giêsu không sai các môn đệ đi riêng lẻ, nhưng sai từng hai người một. Người biết khả năng con người yếu kém, cần có tập thể nâng đỡ mới hoàn thành sứ mạng. Lời chứng của một cá nhân chưa đủ sức thuyết phục. Cần có sự đồng tâm nhất trí của một tập thể lời chứng mới thực sự đáng tin. Hơn nữa, Đức Giêsu không sai các môn đệ đi làm việc với giấy tờ hay đất đai, nhưng sai các ngài đến với con người. Các ngài phải sống giữa mọi người, nhờ mọi người giúp đỡ, chia sẻ cuộc sống với họ. Phải liên đới với con người. Tình liên đới không những cần thiết để giúp các ngài làm việc tông đồ một cách hữu hiệu. Chính qua tình liên đới mà Tin Mừng dễ dàng được đón nhận.
Hành trang của người môn đệ là trái tim biết cảm thương. Đức Giêsu sai các môn đệ đến với những người đau yếu bệnh tật, hoang đàng tội lỗi, bị quỷ ma hành hạ. Tức là đến với những người kém may mắn ở đời. Những người nghèo hèn yếu đuối. Những người bị xã hội bỏ quên. Để đến với những người anh em bé nhỏ, người môn đệ phải có trái tim biết cảm thương. Các ngài phải mang trái tim của Thiên Chúa luôn chạnh lòng thương khi nhìn thấy đám đông bơ vơ tất tưởi, túng thiếu, đói khát. Phải sẵn sàng băng rừng vượt suối đi tìm một con chiên lạc. Phải mở rộng vòng tay đón nhận đứa con hoang đàng trở về. Phải sẵn sàng tha thứ cho kẻ tội lỗi thật lòng hối cải ăn năn.
Lầm lỗi nặng nề nhất của người tông đồ hăng say và nhiệt thành, đó là họ quá cậy dựa vào tài năng riêng của mình mà quên mất tác động và sự trợ giúp của Chúa, bởi vì không có Chúa, chúng ta không thể làm được gì. Hay như lời thánh Phaolô xác quyết: Phaolô trồng, Apollo tưới, nhưng chính Thiên Chúa mới là Đấng đem lại kết quả.
Đối với chúng ta cũng vậy, một khi đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội và Bí tích Thêm sức, chúng ta cũng được Chúa kêu mời cộng tác với Ngài trong công cuộc truyền bá đức tin, để rồi chúng ta cũng sẽ là những môn đệ của Ngài. Và cách thức để chúng ta thể hiện ơn gọi và sứ mạng của mình một cách hiệu quả nhất vẫn là đời sống gương mẫu của chúng ta.
Vì thế, sau khi công bố tám mối phúc thật, Chúa Giêsu đã truyền dạy: Các con là ánh sáng thế gian. Ánh sáng ấy phải chiếu dãi trước mặt thiên hạ, để mọi người nhìn thấy những công việc của các con mà ngợi khen Cha các con là Đấng ở trên trời.
Việc Chúa Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng và căn dặn các ông nhiều điều, nhắc nhở chúng ta cũng hãy làm tông đồ cho Chúa. Và tất cả chúng ta đều biết cách làm tông đồ tốt nhất, được Giáo Hội đề cao và cổ võ nhất, là làm tông đồ bằng chính đời sống tốt lành của chúng ta. Bởi vì đời sống của một người tín hữu chẳng những sống mà còn mang một sứ điệp, là người phát ngôn của Chúa ở nơi mình sống. Thiên Chúa là tác giả viết thư, còn chúng ta là những dòng chữ sống Thiên Chúa viết trên trần gian này. Đọc bức thư là người ta hiểu được ý tưởng, vấn đề người chủ muốn viết. Cho nên, đời sống của người Kitô hữu thánh thiện, tốt lành có giá trị thuyết phục hơn tất cả những bằng chứng khác.
Chúa Giêsu kêu gọi các thánh Tông đồ, đào tạo họ trong tinh thần truyền giáo và sai họ đi rao giảng Tin Mừng. Tất cả đều nhắm mục đích thực hiện kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã chu toàn sứ mệnh và Người còn kêu gọi ta tiếp tục sứ mệnh của Người nếu ta sống tất cả những ân sủng đã lãnh nhận được từ kế hoạch yêu thương ấy. Ý thức sứ mệnh tông đồ và truyền giáo ta được chia sẻ với Chúa Kitô, ta cố gắng sống cuộc đời Kitô hữu gương mẫu, để không chỉ rao giảng bằng lời nói, nhưng bằng việc làm và qua những giao tiếp đầy tình thương bác ái với anh chị em.
2024
Đừng sợ!
13.7Thứ Bảy trong tuần thứ Mười Bốn Mùa Quanh Năm
Is 6:1-8; Tv 93:1,1-2,5; Mt 10:24-33
Đừng sợ!
Trong cuộc sống của mỗi con người, hằng ngày, hằng giờ con người ta phải đối mặt với biết bao nhiêu những nỗi sợ hãi; nào là sợ nghèo túng, sợ không có công ăn việc làm, sợ ốm đau bệnh hoạn, sợ người thân phản bội, sợ ma quỷ ám hại… Nói tóm, lại là con người luôn sợ đau khổ, bệnh hoạn và sợ chết. Nhưng Tin Mừng ngày hôm nay Đức Giê-su trấn an chúng ta đừng sợ hãi những sự ấy vì nếu một khi chúng tin tưởng và phó thác mọi sự trong quyền năng và sự quan phòng của Thiên Chúa thì Ngài sẽ xua tan tất cả những nỗi lo sợ ấy và làm cho chúng ta có nhiều niềm vui và sự bình an.. Có một nỗi lo sợ chính đáng mà Đức Giê-su chỉ bảo cho chúng ta, đó là phải biết: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục”.
Chúa Giêsu cho các môn đệ biết: Tôi tớ không thể hơn chủ. Người ta đã đối xử tệ bạc với Thầy thì người ta cũng đối xử với các con tệ bạc hơn. Nhưng các con đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn các con. Các con cứ mạnh dạn tuyên bố điều Thầy nói riêng với các con. Mọi sự sẽ có Cha trên trời lo cho các con, vì các con trọng hơn chim sẻ nhiều. Ai nhận Thầy trước mặt người đời thì Thầy cũng nhận người đó trước mặt Cha Thầy. Còn ai chối Thầy thì Thầy cũng chối kẻ ấy.
Cha ông chúng ta thường nói rằng: “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”, nghĩa là con cái và cháu chắt thừa kế nhiều nét giống nhau từ cha mẹ và ông bà mình. Trong bài Tin mừng Chúa Giêsu cũng có ý nói: Chúa Giêsu thế nào thì những ai theo Chúa cũng như vậy. Kitô hữu là những người phải nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu.
Cách so sánh trên đây cho thấy lý do gây ra bách hại, là sự đồng nhất sâu xa giữa Chúa Giêsu và các Tông đồ. Chính khi chịu bách hại, người Tông đồ nên giống Chúa Giêsu hơn. Điều này an ủi, khích lệ và tăng thêm sức mạnh cho các Tông đồ khi phải đương đầu với những khó khăn.
Chúa Giêsu đã đi trên con đường của nghèo khó, thua thiệt, bách hại, thập giá, tha thứ và tha thứ cho đến cùng. Nhưng Chúa Giêsu không chỉ đề ra cho chúng ta thấy một lý tưởng, một con đường để đi theo. Ngài chính là con đường, là sự thật và là sự sống. Chúng ta tin rằng nếu chúng ta kết hiệp với Ngài, chúng ta sẽ được sức mạnh của Ngài để thắng vượt mọi gian nan thử thách. Chúng ta cũng tin rằng bên kia những hao mòn và chết chóc trong thể xác, tâm hồn chúng ta sẽ được mãi mãi kết hiệp với Ngài.
Phản ứng tự nhiên của con người trước khó khăn, bách hại, là lo sợ. Chúa Giêsu đã khuyên các Tông đồ can đảm làm chứng cho Ngài, và Ngài cũng khuyên họ đừng sợ. Đừng sợ những kẻ vu oan, vì không có gì ẩn khuất mà không bị lộ. Trung thành với sự thật đôi khi cũng khiến chúng ta phải trả giá có khi bằng chính mạng sống của mình.
Chúa Giêsu cũng nhắc chúng ta đừng sợ những kẻ chỉ có thể làm hại thân xác, mà không thể giết được linh hồn. Thân xác có thể bị thiệt thòi, nhưng linh hồn sẽ không hề hấn gì, nếu chúng ta vững tin vào Chúa.
Lần thứ ba Ngài nhắc chúng ta đừng sợ là vì chúng ta quí trọng hơn nhiều, nếu Thiên Chúa đã chăm lo cho chim sẻ ngoài đồng, thì huống hồ là con người, ý thức mình được Thiên Chúa yêu thương chăm sóc, chúng ta sẽ dấn thân nhiều hơn để làm chứng cho Chúa.
Chúa Giêsu bảo các môn đệ của Ngài đừng sợ người đời. Những gì Ngài nói với họ trong bí mật, họ phải tỏ lộ cho mọi người biết. Những gì Ngài nói với họ ban đêm, họ phải nói ra giữa ban ngày. Những gì họ nghe rỉ tai, họ phải leo lên mái nhà mà rao giảng. Trong bí mật, giữa ban đêm, rỉ tai, những kiểu nói này có thể gợi lên cho chúng ta “tiếng nói của lương tâm”.
Lương tâm chính là tiếng nói của Thiên Chúa trong sâu thẳm tâm hồn con người. Tiếng nói của lương tâm quả thật không chấp nhận thỏa hiệp và nhân nhượng. Đòi hỏi của tiếng nói ấy triệt để đến độ con người phải sẵn sàng hy sinh cả mạng sống của mình để trung thành sống theo tiếng nói ấy. Không thỏa hiệp với các sức mạnh của gian dối, không vì một chút đặc ân dễ dãi và nhất là quyền lực, của cải, danh vọng, mà bán đứng lương tâm hay thinh lặng đồng loã. Đó là thách đố lớn nhất và cũng là thách đố duy nhất của Giáo hội cho những người có quyền bính trong Giáo hội, cho mọi tín hữu Kitô trong giai đoạn hiện nay.
Người ta thường nói: “Bất nhập hổ huyệt, an đắc hổ tử: không vào hang cọp thì làm sao bắt được cọp con. Muốn đem Tin mừng đến cho người khác thì người tông đồ phải biết dấn thân, và dấn thân cũng có nghĩa như liều mạng. Trong bài Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu nhắc nhở cho chúng ta cái tư tưởng “Đừng sợ”. Chúng ta có thể tìm thấy từ ngữ “đừng sợ” 365 lần trong Kinh thánh. Người tông đồ chỉ có thể tìm được sự can đảm nếu biết tin cậy phó thác cho Chúa.
Trong cuộc sống, có rất nhiều nỗi sợ hãi; Chẳng hạn như sợ nghèo đói, sợ ốm đau, sợ người ta hiếp đáp… Thế nhưng, các nỗi lo sợ kể trên sẽ được Chúa an ủi, bảo vệ chở che và chữa lành nếu như chúng ta biết chạy đến với Chúa và phó thác mọi sự trong quyền năng của Ngài. Nhưng có một nỗi sợ mà chúng ta phải tránh đó là sợ làm mất ân sủng của Chúa; vì đó sẽ làm cho chúng ta mất phần rỗi muôn đời.
Không tuyên xưng Thiên Chúa không có nghĩa là tuyến bố trước mặt mọi người là không biết hoặc không tin nhận có Thiên Chúa. Nhưng mỗi khi ta phạm tội trọng là ta đã chối bỏ Thiên Chúa hay nói cách khác là ta đã loại trừ Thiên Chúa ra khỏi tâm hồn ta rồi. Khi lãnh nhận Bí Tích Thánh tẩy thì cùng một lúc ta nhận được hai ân sủng: Một là được Thiên Chúa tha thứ mọi tội lỗi; Hai là được trở nên con cái Thiên Chúa và như vậy được tiếp nhận sự sống thần linh từ Ngài, hay nói cách khác; được Chúa đến ngự vào tâm hồn mình. Chính vì thế mà khi ta phạm tội, nhất là tội trọng thì chính ta đã phá huỷ Đền Thờ Thiên Chúa trong tâm hồn ta và đồng thời xua đuổi Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của mình.
Như vậy theo tinh thần của bài Tin Mừng hôm nay, là chúng ta phải luôn luôn thức tỉnh giữ mình, phải quyết tâm sống đẹp lòng Chúa, thà chịu chết chứ không thể phạm tội mất lòng Chúa, vì khi ta phạm tội thì ta đã để ma quỷ làm chủ mình và nếu chẳng may chết trong tình trạng mất ân nghĩa cùng Chúa, thì ta phải chịu án phạt đời đời trong hoả ngục. Chính Chúa đã cảnh báo: “Các con đừng sợ kẻ chỉ giết được thân xác nhưng không giết được linh hồn. Các con hãy sợ Đấng có thể ném cả xác lẫn linh hồn xuống hoả ngục”.