2022
Tôn kính Đền Thờ
18.11 Thứ Sáu Tuần XXXIII
Kh 11:4-12; Tv 144:1,2,9-10; Lc 20:27-40
Tôn kính Đền Thờ
Mỗi khi nhìn thấy hay nhắc tới nhà thờ, trong cảm thức, chúng ta luôn hiểu rằng: nhà thờ là biểu tượng của Giáo Hội. Nơi nhà thờ, chúng ta sẽ dễ dàng gặp Chúa và gặp nhau. Nhà thờ là điểm hội tụ mọi thành phần dân Chúa để tôn thờ Thiên Chúa và chia sẻ bác ái với nhau.
Tuy nhiên, dù nhà thờ vật chất có to lớn, tráng lệ thế nào đi chăng nữa, nếu nó không được xử dụng đúng mục đích là tôn thờ Thiên Chúa và xây dựng tình huynh đệ giữa con người với nhau… thì nhà thờ ấy vô nghĩa!
Hôm nay, Tin Mừng cho thấy, Chúa Giêsu đã nổi nóng và đánh đuổi con buôn ra khỏi đền thờ, vì họ đã xử dụng sai mục đích của nơi thờ phượng. Vì thế, Đức Giêsu đã nói: “Nhà Ta là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi lại biến thành sào huyệt của bọn trộm cắp”.
Khi đánh đuổi con buôn ra khỏi đền thờ, Đức Giêsu đã thánh hiến đền thờ và trả lại cho nó ý nghĩa nguyên tuyền là nơi để thờ phượng Thiên Chúa chứ không phải là chốn trục lợi, kinh doanh, trao đổi, buôn bán…
Trong Tin mừng Gio-an 4, 23 – 24, khi Chúa Giê-su nói với thiếu phụ Sa-ma-ri: “Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem…Nhưng giờ đã đến – và chính là lúc này đây – giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.” Hay ta nói cách cụ thể hơn là: “Thờ Phượng trong tinh thần và chân lý.” Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta đồng tình với những kẻ đắc ý vì sự lười biếng khô đạo của mình. Họ chủ trương ‘Đạo tại tâm’ cần gì phải đi lễ, đi nhà thờ, hoặc đọc kinh gia đình sáng tối…, vì đó là sự phô trương bề ngoài, là đạo đức giả… miễn là trong tâm tôi tin có Chúa và thần phục tôn thờ Người là được rồi.
Thực sự đó chỉ là những luận điệu giả trá biện minh cho đời sống đức tin kém cỏi của họ. Đúng là có rất nhiều người (nếu không nói là đa số tín hữu, nhất là tín hữu Việt Nam) thích đi nhà thờ, tham gia phong trào nọ, đoàn thể kia, nhưng đời sống đức tin đích thực không có. Họ đi lễ, đọc kinh nhiều, nhưng đời sống lại không có bác ái, không thi hành đức thương yêu như Chúa dạy. Thái độ của họ giống như những người Biệt phái mà Chúa trách ‘đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài… mà nuốt hết tài sản của bà góa’ (Mt 23, 5 – 14); Họ cũng gian tham và có những kẻ lòng dạ độc ác lừa đảo, đánh lận con đen, hoặc trong gia đình còn xào xáo gây gương mù, gương xấu…. Cũng bởi vì thế mà có những người bố đỡ đầu cho tân tòng lừa con thiêng liêng của mình chiếm đoạt đất đai, khiến anh ta tuyên bố bỏ đạo; có những vị chức sắc làm việc lâu năm trong Ban hành giáo lăng nhăng vợ bé hoặc lạc vào những ‘hang động làng chơi’ để cho vợ con ngậm đắng, nước mắt ngắn dài; có những người vào nhà thờ kinh kệ lâu giờ, khóc lóc thảm thiết, nhưng vừa bước ra khỏi đã mắng chửi những ai làm mất lòng mình, nói hành, nói xấu, vu oan giá họa…. Những người ấy Chúa Giêsu đã nói: “Những kẻ tôn kính ta bằng môi bằng miệng còn lòng chúng lại xa ta” (Mt 15,8)
Từ hình ảnh cao quý của đền thờ vật chất, chúng ta khám phá ra ý nghĩa cao trọng của đền thờ tâm hồn. Mỗi người đều là đền thờ tâm hồn cho Thiên Chúa ngự. Đền thờ ấy, không được để cho tính tự kiêu, tự phụ, ích kỷ, bất nhân, dửng dưng, vô cảm ngự trị, vì chúng không thuộc về đặc tính của Thiên Chúa và không phải lựa chọn của chúng ta. Đền thờ tâm hồn chúng ta sẽ có giá trị và xứng đáng để được Chúa ngự vào khi chúng ta tin Chúa tuyệt đối, sống yêu thương, bác ái với người nghèo, cư xử thắm đượm tình huynh đệ với anh chị em… Nếu chúng ta đi ngược lại những điều trên, hẳn ta sẽ dễ rơi vào tình trạng tôn kính Thiên Chúa trên môi trên miệng, còn tâm hồn thì xa Thiên Chúa.
Thực sự Chúa Giê-su không dạy ta không cần đến nhà thờ, vì chính Người đã vào Đền Thờ để phụng sự Thiên Chúa (c. 45), nhưng Người muốn chúng ta thờ phượng Thiên Chúa bằng cả con người, cả cuộc sống chúng ta – phải trí lòng như một, lý thuyết đi đôi với hành động; phải xây dựng Đền thờ Thiên Chúa đích thực trong tâm hồn mình. Nơi đó, mỗi người có thể tôn thờ, phụng sự Thiên Chúa bằng việc ca tụng Chúa vì tình thương và những điều kỳ diệu Người làm trong cuộc sống; bằng việc lắng nghe và sẵn sàng thực thi ý muốn của Người, sống theo sự thật, thực thi công bình và bác ái. Xây dựng Đền thờ đích thực trong tâm hồn để chúng ta có thể bước vào Đền Thờ – Nhà của Thiên Chúa mà không ngại ngùng, hổ thẹn. Chúng ta có thể đến với Chúa như người con thảo đến với cha của mình để cùng với anh em, bên cha bồi đắp tình huynh đệ…
2022
Cuộc gặp lịch sử
15.1 Thứ Ba trong tuần thứ Ba Mươi-Ba Mùa Quanh Năm
Kh 3:1-6,14-22; Tv 15:2-3,3-4,5; Lc 19:1-10
Cuộc gặp lịch sử
Câu chuyện về việc gặp gỡ của Cha Giêsu với ông Giakêu trong Tin Mừng hôm nay thật thú vị và đầy ý nghĩa, đánh dấu một khúc quanh mới trong cuộc đời Giakêu. Thật sự, khi trèo lên cây sung để xem Cha Giêsu, Giakêu chỉ làm theo sự thỏa mãn hiếu kỳ là muốn nhìn thấy mặt ông Giêsu kỳ lạ nào đó. Ông đã làm theo sự phán đoán nhận định khôn ngoan về khả năng thể lý thấp bé của mình là phải leo lên cây để nhìn Chúa Giês cho rõ. Đơn giản là thế! Ông thật đơn sơ như một đứa trẻ, chẳng sợ tiếng dèm pha, đàng đàng là một vị trưởng thuế vu, vậy mà lúi húi leo lên cây, ngồi núp để quan sát Chúa Giêsu.
Giakêu là một trưởng nhóm thu thuế của thành Giêricô, ông giàu có vì lạm thu bất chính. Ông bị coi là người tội lỗi, bị khai trừ và khinh bỉ. Chúa Giêsu không nhìn ông bằng con mắt ấy, Ngài nước nhìn trên cây sung, một cái nhìn thân thiện, có sức cảm hóa tâm hồn; một cái nhìn chân tình và yêu thương ấy đã khiến ông nhìn lại mình và quyết tâm đổi mới.
Ngài nói với ông: “Này Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”. Hạnh phúc quá bất ngờ: Ngài không chỉ biết ông đang ở trên cây mà còn biết cả tên ông. Ngài không chỉ muốn đến thăm mà còn xin ở lại. Ông chỉ có ao ước nhỏ nhoi là nhìn thấy Ngài, nhưng Ngài lại cho ông cả một ân huệ lớn lao vượt quá lòng ông mong ước. Ông chỉ muốn thấy kẻ đã chữa cho anh mù Bartimêô là người thế nào, nhưng chính Đấng ấy lại chữa lành đôi mắt tâm hồn ông.
Da-kêu, một con người đầy tội lỗi trong cái nhìn của người dương thế. Ông đáng bị lên án, bị nguyền rủa và bị chúc dữ. Bởi vì, ông là kẻ tiếp tay cho những người bóc lột tài sản của dân chúng, đẩy họ vào chốn lầm than cơ cực, cho nên, ai cũng nhìn ông với con mắt khinh chê, nhục mạ và đầy giận dữ.
Đang khi đó, Chúa Giêsu là một con người được đông đảo dân chúng yêu mến và kính trọng bởi những lời giảng dạy đầy uy quyền và hết sức hấp dẫn. Sự hấp dẫn này không những chỉ thu hút những con người hiền lành và đạo hạnh, nhưng nó còn làm cho một người đầy tội lỗi như Da-kêu cũng phải quan tâm và mến phục.
Và rồi, hai con người hoàn toàn đối lập nhau về nhiều mặt đã tìm đến nhau bởi một mối dây duy nhất là sự thiện ý. Da-kêu tỏ ra đầy thiện ý trong cái mong mỏi gặp gỡ thầy Giê-su mà mọi người đang tán tụng. Việc ông trèo lên cây chứng tỏ ông đang khao khát tìm đến một thứ hạnh phúc bền vững hơn, sâu xa hơn so với những hoa lợi mà ông nhận được trong công việc thu thuế hằng ngày.
Còn Chúa Giêsu, Ngài tỏ ra đầy thiện ý trước khát vọng của con người, đặc biệt là những người tội lỗi. Ngài đã đi bước trước để đến với Da-kêu và gọi chính tên ông: “Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông” (Lc 19,5b), một cái gọi làm cho bao người giật mình và thắc mắc. Nhưng ai thắc mắc thì cứ thắc mắc, Chúa Giê-su vẫn cứ yêu thương, vẫn ban ơn cứu độ, vẫn làm cho người ta phải hoán cải. Da-kêu đã thật sự hoán cải trước tiếng gọi tình yêu của Thiên Chúa.
Nhưng thú vị hơn cả là Chúa Giêsu đang đi ở dưới đất, chung quanh một đám đông vây bủa, nhốn nháo, ồn ào….vậy mà Chúa lại ngước mắt lên cây, tìm một điều gì đó…..làm đám đông phải kinh ngạc… . Giữa Một đám đông hỗn độn trong thành phố buôn bán sầm uất rộng lớn Giêricô, vậy mà Chúa Giêsu đã nhìn thấy ông Giakêu, người thấp lùn núp trên nhánh cây, và gọi đích thị tên ông: Giakêu xuống mau, hôm nay tôi phải ở lại nhà ông…. Chúa ngước mắt lên nhìn ông Giakêu, ánh mắt gặp nhau lần đầu tiên mà dạt dào niềm cảm thông dường như thấu hiểu được nỗi niềm chứa đựng bên trong của Giakêu. Chúa nhìn ông…..một cảm giác ngạc nhiên, ngỡ ngàng nhưng đầy thân thương, chân thành và ấm áp tràn chảy trong sâu thẳm tâm hồn của Giakêu để rồi ông quyết định một hành vi sám hối thật sự.
Khắc khoải một lần nhìn thấy Chúa Giêsu và Giakêu đã gặp, ông đã không chỉ gặp một con người Giêsu thể lý bằng xương bằng thịt, nhưng quan trọng và cốt lõi hơn hết là cuộc gặp gỡ của tình yêu thương, sự hoán cải tận căn và tìm ra được hướng đi của cuộc đời. Với cuộc chạm trán bất ngờ này, Chúa Giêsu đã trở nên ý nghĩa hơn những tài sản vật chất mà Giakêu đã gắng công tìm kiếm, gắn bó và bị trói buộc bao lâu nay. Ông trở nên thanh thoát và sống tràn đầy, trách nhiệm hơn với những người chung quanh. Một lần được gặp gỡ Đức Giêsu, cuộc sống của Giakêu đã thay đổi, Giakêu phải chuộc lại những lỗi lầm, phải đền bù những bất công đã gây ra trong cuộc sống.
Quả thật, thái độ của Da-kêu là thái độ mà mỗi người chúng ta cần phải có trước sự hiện diện thường hằng của Thiên Chúa trong đời sống chúng ta. Thiên Chúa vẫn đang ở đó, Ngài chờ đợi chúng ta quay trở lại với Ngài, khi chúng ta đã lầm lỡ bước chân vào con đường tội lỗi. Quả thật, thiện ý là một yếu tố rất quan trọng để chúng ta có thể nhanh chóng đón nhận được hồng an tha thứ mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Dù chúng ta có là người tội lỗi đến đâu đi nữa, thì Thiên Chúa vẫn như một người Cha nhân hậu, luôn mòn mỏi mong chờ người con “lầm đường lạc lối” trở về.
Do đó, nếu chúng ta có thiện ý trước tình yêu của Thiên Chúa đối với tội lỗi chúng ta, chắc chắn chúng ta sẽ nhận được ơn tha thứ và bình an, để tiếp tục sống và làm lại cuộc đời trong ánh sáng mới của tình yêu Chúa. Bởi vì, chỉ với sự trợ giúp của Thiên Chúa, chúng ta mới có thể trở thành một con người biết sống quảng đại và hy sinh, yêu thương và phục vụ, để từ đó mỗi ngày càng trở nên thánh thiện hơn trong đời sống chúng ta
Quả thật, nếu thực sự trong cuộc đời mỗi người gặp được Chúa như Giakêu, thì chắc chắn cuộc sống của chúng ta sẽ thay đổi. Càng gặp được Chúa trong sâu thẳm của cõi lòng, cuộc sống của mỗi người tất yếu sẽ liêm chính và công bằng bác ái hơn với những người khác.
2022
SỨC MẠNH CỦA LÒNG TIN
14.1 Thứ Hai trong tuần thứ Ba Mươi-Ba Mùa Quanh Năm
Kh 1:1-4; Tv 1:1-2,3,4,6; Lc 18:35-43
SỨC MẠNH CỦA LÒNG TIN
Trong cuộc sống, khi chúng ta đứng trước một việc gì hay một vấn đề nào đó cần giải quyết thi điều quan trọng để có thể giải quyết thành công là lòng tin của mình. Một học sinh đứng trước kỳ thi muốn đạt được điểm cao thì phải tự tin vào chính khả năng của mình. Một kỹ sư công trình cũng tương tự như thế, khi đứng trước một công trước một công trình cần được thi công thì ông ta phải tin tưởng vào chính khả năng của mình và đồng nghiệp thì chắc chắn công trình đó sẽ được làm một cách tốt nhất. Vì vậy, lòng tin là một điều hết sức quan trọng trong cuộc sống giúp ta luôn hoàn thành tốt mọi công việc và có mối tương quan rất với mọi người.
Lòng thương xót của Ngài trải rộng trên thế giới này và không một thế lực hoặc mãnh lực nào có thể ngăn cản hoặc dập tắt lòng thương xót ấy. Như Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói: Thiên Chúa không bao giờ mệt mỏi để tha thứ, chỉ có chúng ta cảm thấy mệt mỏi khi kêu xin lòng tha thứ mà thôi. Có lẽ chúng ta cần có bài học từ anh mù thành Giêrikhô hôm nay và sự kiên trì do lòng tin thúc đẩy mà anh đã không ngừng kêu lên : Xin dủ lòng thương con.
Câu 35 mở đầu bài Tin Mừng nói về địa điểm cuối cùng của cuộc hành trình lên Giêrusalem của Chúa Giêsu. Đây là nơi thánh sử Luca giới thiệu trực tiếp nhân vật tiêu biểu : anh mù thành Giêrikhô – một con người ngồi ăn xin ở vệ đường. Tác giả không nói anh bị mù từ lúc mới sinh hay bị mù do tai nạn, nghề nghiệp; nhưng chỉ nói anh đang hành nghề, một nghề chỉ biết trông chờ vào lòng thương xót bố thí của người khác. Ai cho nhiều cho ít, của tốt của xấu, anh đón nhận hết và cam chịu mọi lối hành xử của con người.
Nhưng anh có một linh cảm khá tốt. Anh nghe và biết có một đám đông sắp đi qua. Anh hi vọng trong đám đông sẽ có vị quyền cao chức trọng. Người đó sẽ dủ lòng thương mà bố thí cho anh những đồng tiền có mệnh giá to hoặc của cải có giá trị lớn hơn. Nghĩ thế, anh bèn cất tiếng hỏi thăm tình hình. Có người tốt bụng báo cho anh biết : có một nhân vật nổi tiếng sắp đi ngang qua. Đó là : Chúa Giêsu thành Nagiarét. Anh này có đôi tai thính và trí nhớ tuyệt vời. Chắc hẳn anh đã nghe người ta nói về con người Giêsu này, về lòng thương xót của Người đối với những bệnh nhân, người tội lỗi, kẻ cô thân goá bụa; về uy quyền của Người trên ma quỷ và các thần ô uế. Đột nhiên, anh kêu lớn : Lạy ông Giêsu, Con Vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi (38).
Đau xót cho anh khi đám đông nghe thấy lời van xin ấy: người thì quát tháo ầm ĩ, kẻ thì doạ nạt buộc anh câm lặng. Lúc này, anh chẳng còn biết sợ là gì và sợ ai. Anh càng kêu to hơn nữa “ Lạy Con Vua Đavít, xin dủ lòng thương..”. Lời van xin được lập đi lập lại với cường độ tăng dần. Anh tuyên xưng tước hiệu của Chúa Giêsu là Con Vua Đavít, ý nói lên vương quyền của Người – là Đấng Mêsia được Thiên Chúa sai đến giải phóng con người khỏi sự khống chế của ma quỷ, bệnh tật. Khi tuyên xưng Chúa Giêsu là Con Vua Đavít, anh cũng đặt trọn niềm tin vào Người, hy vọng trông chờ lòng thương xót nơi Người sẽ chữa lành anh, như Người đã làm cho bao người khác.
Trong đoạn Tin mừng của ngày hôm nay, thánh Luca cho chúng ta thấy sức mạnh của lòng tin như thế nào khi nó được đặt vào một giá trị cao nhất là chính Chúa Giêsu. Một người ăn xin bị mù ở Giê-ri-khô đã hô vang khi nghe người dân nói Chúa Giêsu đi ngang qua: “Lạy ông Giê-su, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!” (Lc 18,38). Dù bị người dân la mắng nhưng ông ta vẫn hô vang thêm một lần nữa. Qua đây, chúng ta thấy được sự khao khát được đón nhận tình thương của Chúa mạnh mẽ như thế nào nơi người đàn ông này. Ông ta đã tin tưởng hoàn toàn vào quyền năng của Chúa Giê-su. Vì ông tin rằng chỉ có tình thương của Chúa mới đem lại cho ông cuộc sống mới là không còn sống trong bóng tôi nữa. Chính sự can đảm bày tỏ lòng tin của mình, ông đã được Chúa cứu: “Anh nhìn thấy đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh!” (Lc 18,42).
Thật vậy, nơi mỗi người chúng ta ai cũng bị mù. Chúng ta không bị mù về thể xác nhưng chúng ta lại bị mù về tinh thần, mù về phần linh hồn. Chúng ta đã để cho tiền tài, danh vọng. lạc thú… làm mù limh hồn chúng ta. Từ đây nó cũng kéo theo thân xác chúng ta luôn dẫn thân vào cái gì là khoái lạc, nhục dục, những gì là trụy lạc. Hơn thế nữa, chúng ta còn dày xéo tha nhân, sống ích kỷ và chỉ biết thu góp cho chính mình. Chúng ta đã đánh mất đi phẩm giá của mình và người khác. Cái mù này thật sự còn ghê gớm hơn cái mù thể lý.
Đã đến lúc lời kêu cứu của anh lọt đến tai con người Giêsu cũng là lúc niềm tin nơi anh lên tới đỉnh điểm. Chẳng phải là bây giờ Người mới nghe thấy, nhưng thực ra trái tim Người đã hướng về anh lâu rồi “ Này Ta đứng ngoài cửa và gõ. Ai nghe và mở cửa, Ta sẽ vào dùng bữa với kẻ ấy”( Kh 3,20). Thật thế, Chúa Giêsu dừng lại và truyền dẫn anh đến. Một lệnh truyền từ Đấng Cứu Thế được ban ra và được thực hiện.
Khi anh tới gần, Chúa Giêsu đã hỏi : anh muốn tôi làm gì cho anh ? Trước câu hỏi của Vị Cứu Tinh mà anh đã hết lòng tin tưởng, anh trả lời không đắn đo trước sau, không lựa lời bóng bẩy chau chuốt, nhưng là một lời đáp trong qui phục yêu mến biểu lộ ước mơ mong chờ “ Lạy Ngài, xin cho tôi nhìn thấy” (41). Chúa Giêsu cũng trả lời cách trực tiếp “Anh hãy thấy đi” và Người giải thích nguyên do mà anh được nhìn thấy, đó là “ lòng tin của anh đã cứu chữa anh” (42). Thật vậy, con mắt thể xác vừa được nhìn thấy, thì đôi mắt hồn đã rộng mở và bừng sáng. Anh đi theo Người và tôn vinh Thiên Chúa. Niềm tin của anh đã đưa anh tới ơn cứu độ và sự vui sướng hạnh phúc nội tâm đã khiến anh trở thành người ca tụng, tán dương tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa. Nhờ anh mà toàn dân cùng cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa (43). Có thể nói, khi anh lãnh nhận hồng ân từ Thiên Chúa cũng là lúc anh loan truyền tình thương ấy đến anh em mình, những người đang sống xung quanh anh.
Vậy chúng ta có dám như người Giê-ri-khô trong tin mừng đã đặt trọn vẹn lòng tin của mình nơi Chúa Giê-su để xin Ngài chữa lành? Chúng ta sẽ phải làm gì để chữa trị sự mù lòa của linh hồn chúng ta? Chúng ta hay năng chạy đến với Chúa Giê-su nơi bí tích Hòa giải để đón nhận sự chữa lành của Ngài.
Chúng ta hãy năng chạy đến với Thánh lễ để lãnh nhận chính mình máu Chúa Giê-su để Ngài luôn đồng hành cùng với ta trong cuộc sống đầy cạm bẫy tội lỗi của thế gian và cũng để lắng nghe lời Chúa dạy mà sống mổi ngày một tốt, một vui và hạnh phúc hơn. Chúng ta hãy đặt trọn lòng tin của mình vào Chúa hơn là của cải của thế gian để từ đây ta được Ngài chữa lành và tăng sức mạnh cho ta trong cuộc sống này. Vì Chúa Giê-su đã từng nói, chỉ cần anh em có lòng tin bằng hạt cải thôi, anh em bảo cây cải này xuống biển mà mọc thì nó cũng sẽ làm.
2022
Chúa biết cả
13.1 Chúa Nhật thứ Ba Mươi-Ba Mùa Quanh Năm
St 3:19-20; Tv 98:5-6,7-8,923; Lc 21:5-19
Chúa biết cả
Trong những tuần lễ cuối cùng của năm Phụng Vụ, Hội Thánh cho chúng ta đọc những bài đọc nói về ngày cánh chung. Bài đọc I trong sách tiên tri Malakia loan báo cái ngày mà những người làm điều ác sẽ bị thiêu đốt, còn những người lành thánh sẽ được Mặt Trời Công Chính cứu chữa. Đến bài đọc II, thánh Phaolô cảnh cáo dân thành Thêsalonica không chịu lo làm ăn mà cứ ăn không ngồi rồi để chờ đợi ngày ấy, phải làm tròn bổn phận mình trong tinh thần sẵn sàng, đó là Thánh Ý Chúa.
Chu kỳ Năm Phụng vụ mở ra với ngày tháng dần trôi đang từ từ khép lại. Chúng ta đang ở Chúa Nhật áp chót của năm, cũng như Chúa Nhật cuối cùng của Năm Thánh Lòng Thương Xót. Nhưng tâm điểm vẫn là Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể làm người, chịu chết và sống lại, lên trời và sẽ trở lại trong vinh quang như lời Người đã phán. Sống đời Kitô hữu là sống niềm tin và hy vọng vào Chúa, nhất là trung thành với Đức tin đã lãnh nhận ngày chịu phép Rửa Tội, chúng ta sẽ được bình an trong ngày Chúa đến.
Chúa Nhật thứ XXXIII thường niên C làm chúng ta nhớ lại, khởi đầu Năm Phụng vụ, Giáo hội đã kêu gọi con cái mình chuẩn bị tâm hồn đón Chúa Kitô đến lần thứ nhất mang ơn cứu độ là chính Người đến cho nhân loại. Chúa Nhật hôm nay, Giáo hội lấy lại lời Chúa Giêsu báo trước về ngày giờ Chúa đến lần thứ hai, giúp chúng ta nghĩ về những thực tại mai hậu của con người là: sự chết, sự phán xét, thiên đàng và luyện ngục. Nhưng trước khi những việc ấy xảy ra thì sẽ có các tiên tri giả, nên lời Chúa mời gọi chúng ta cảnh giác và sống trong tỉnh thức cũng như hy vọng, nhất là bền đỗ đến cùng trong niềm tin cậy vào Chúa (x. Lc 21, 5 – 19).
Trong Tin Mừng Chúa Giêsu nói rõ ràng hơn về ngày Giêrusalem bị tàn phá, nhưng đó cũng là ngày sau hết, nên phải cẩn thận đề phòng những tiên tri giả, họ sẽ lừa phỉnh để chúng ta có thể phản bội Thiên Chúa.
Hãy kiên trì dù có thể bị đau khổ thể xác, hoặc bị người ta thù ghét vì mang danh Kitô hữu hay bị bắt bớ gông cùm, cũng hãy bền đỗ thì sẽ cứu được linh hồn mình. Thiên Chúa sẽ che chở, sẽ hướng dẫn trong bàn tay yêu thương của Ngài, nên hãy phó thác cho Ngài tất cả.
Trong thực tế, những gì mà Chúa Giêsu tiên báo liên quan đến ngày tận thế đã, đang và chắc chắn sẽ xảy ra. Chẳng hạn gần với thời của Người là Đền Thánh Giêrusalem đã bị phá tan bình địa vào năm 70 sau đó như Người tuyên bố. Các biến cố khác như chiến tranh, giặc giã, đói khát, động đất, chết chóc, nước này nổi lên chống đối nước kia… đang không ngừng ập đến trong nhân loại từ nơi này đến nơi khác dưới mọi hình thức, rõ ràng nhất là sự tận cùng đời người của mỗi chúng ta. Hằng ngày có không biết bao nhiêu nhân mạng tan biến đi thành tro bụi trên trái đất này. Như thế, điều Chúa Giêsu tiên báo về ngày tận thế không phải là sự dọa nạt, nhưng thức tỉnh chúng ta, hướng chúng ta về cuộc sống an bình, hạnh phúc trong sự đợi chờ của niềm tin và lòng cậy trông vững vàng vào sự quan phòng và quyền năng Thiên Chúa.
Chúa nhắc nhở rằng: “Dù một sợi tóc trên đầu các con cũng sẽ chẳng hư mất” (Lc 21,18). Chúng ta hoàn toàn ở trong tay Thiên Chúa! Những nghịch cảnh chúng ta gặp vì đức tin và vì lòng gắn bó với Tin Mừng là những cơ hội để làm chứng tá; những nghịch cảnh ấy không làm chúng ta xa Chúa, nhưng thúc đẩy chúng ta càng phó thác vào Chúa, sức mạnh của Thánh Linh và ơn thánh của Ngài.
Lời Chúa nói đây: “Các con cứ bền đỗ đến cùng, các con sẽ giữ được linh hồn các con” (Lc 21,19).
Những lời trên của Chúa Giêsu chứa chan niềm hy vọng. Lời ấy như tiếng mời gọi chúng ta sống hy vọng và kiên nhẫn, chờ đợi những thành quả của ơn cứu độ, tín thác nơi ý nghĩa sâu xa của cuộc sống và lịch sử: những thử thách và khó khăn là điều thuộc về một kế hoạch rộng lớn hơn; Chúa là chủ tể lịch sử, Ngài hướng dẫn mọi sự đến chỗ viên mãn. Dầu có những xáo trộn và tai ương làm chao đảo thế giới, nhưng kế hoạch từ nhân và thương xót của Thiên Chúa sẽ viên mãn! Và đây là niềm hy vọng của chúng ta: tiến bước như thế trên con đường này, trong ý định của Thiên Chúa sẽ được hoàn thành. Ðó là niềm hy vọng của chúng ta.
Người Kitô hữu chúng ta, trước mọi nghịch cảnh, phải sống theo niềm tin đích thực vào Thiên Chúa. Phải luôn trung thành trong đức tin của mình và làm chứng cho Nước Chúa, Nước vĩnh cửu, bất diệt ở bên kia thế giới nầy. Phải kiên trì, trung thành trong bổn phận hằng ngày thì mới mong kiên vững trước nghịch cảnh. Nếu không kiên trì trong việc tầm thường hằng ngày thì khó mà kiên trì trong lúc gặp nguy biến.
Nếu ngay bây giờ, từng giây phút, chúng ta cố gắng sống trung thành trong đức tin, trong bổn phận, thì “khi nào tậnt hế?”, điều đó không thành vấn đề. Vì “ai kiên trung bền đỗ đến cùng, người ấy sẽ được cứu thoát và được sống đời đời”.
Niềm tin tưởng vào Chúa lại đến trong vinh quang, sẽ không làm cho chúng ta bị tê liệt, hay thất vọng chán ngán, trái lại sẽ làm cho chúng ta thêm hăng hái, thêm phấn khởi để chu toàn những bổn phận trần thế của mình bởi vì hiện tại sẽ xác định cho tương lai. Ngày mai của chúng ta có tươi sáng hay không là do tất cả những gì chúng ta đang cố gắng xây dựng trong hiện tại, trong hôm nay, bởi vì tương lại phải được bắt đầu từ hiện tại và ngay mai phải được bắt đầu từ hôm nay.