2022
Chúa biết mọi sự
23.11 Thứ Tư trong tuần thứ Ba Mươi-Tư Mùa Quanh Năm
Kh 15:1-4; Tv 98:1,2-3,7-8,9; Lc 21:12-19
Chúa biết mọi sự
Vào những ngày cuối năm Phụng Vụ, các bài Tin Mừng thường nói về những bước đường lên Jerusalem của Chúa Giêsu nhộn nhịp hơn, gấp rút hơn. Bên cạnh đó, số phận của người môn đệ cũng được gắn liền với thân phận của Thầy mình, vì “tôi tớ không hơn chủ, trò không hơn Thầy….” “Họ đối xử với Thầy thế nào, cũng sẽ đối xử với anh em như vậy”. Bài Tin Mừng hôm nay, Thánh sử Luca cũng nói lên điều này.
“Trước khi các sự ấy xảy ra…” (12a) Ở đây đang tiếp nối với các sự kiện mà Chúa Giêsu đã tiên báo ở câu 9, câu 10 và câu 11. Đó là : “chiến tranh, loạn lạc, động đất, ôn dịch, đói kém…” Nhưng trước khi có những thay đổi của trời đất… thì anh em sẽ bị bắt, bị ngược đãi, bị nộp, bị bỏ tù…. vì danh Thầy (c.12). Một cuộc bách hại được khởi đi ngay từ những ngày đầu của cộng đoàn Ki-tô hữu ở Giêrusalem. Bách hại như là một điều đương nhiên xảy ra, số phận của Giáo Hội.
Vì thế, Chúa Giêsu cảnh báo và khuyến khích các Ki-tô hữu đương đầu với thử thách, cần vững tin, đừng nao núng. Đây cũng là âm vang của bài giáo huấn đã nói trước đây (12, 11-12): “Anh em sẽ bị điệu đến trước mặt vua chúa quan quyền…” Nhưng lúc này là cơ hội tất để các môn đệ làm chứng về Thầy mình (c.13). Như Chúa Giêsu đã làm chứng khi ra trước tòa Phi-la-tô. Như Phao lô xuất hiện trước tòa án tại Roma (Cv 23-26), các môn đệ cũng sẽ bước vào con đường ấy.
Trong mọi cơn gian lao quẫn bách, khi đứng trước tòa án người đời, thì Đức Giêsu đã căn dặn các môn đệ một điều cần nhớ rõ, đó là: đừng lo phải bào chữa thế nào (c.14), vì “chính Thầy sẽ giúp anh em ăn nói khôn ngoan, khiến địch thủ không chống chọi hay cãi lại được” (c. 15). Vì danh Đức Ki-tô, chúng ta chịu đau khổ, thì chính Đức Ki-tô sẽ lên tiếng bênh vực, bảo vệ chúng ta, chính Thần Khí của Đức Ki-tô sẽ dạy chúng ta biết phải nói thế nào (12, 12). Đây là một bằng chứng có Thiên Chúa ở cùng chúng ta trong những gian lao khốn khó. Ngài luôn nậng đỡ phù trì chúng ta trong mọi cơn quẫn bách. Chỉ cần một điều: Hãy tin tưởng và trung kiên đến cùng.
“Anh em sẽ bị cha mẹ, anh chị em, họ hàng, bạn hữu bắt nộp. Họ sẽ giết một số trong anh em….” (c. 16). Đây là hình ảnh chia ly phân tán trong một gia đình. Chúa GIêsu hé mở cho chúng ta thấy kẻ bách hại không chỉ hệ tại nơi những người không cùng niềm tin, nhưng là do chính những người thân thiết…” là những người bạn đồng vai đồng vế, cũng tâm phúc chia ngọt sẻ bùi, nay giơ gót đạp con…” (Tv 40,10). Đây chính là số phận của Đức Ki-tô “Ngài đã đến nhà mình, mà người nhà không tiếp nhận” (Ga 1,11). Và những người đã đưa Ngài lên Thập Giá chính là dân tộc của Ngài. Đây là cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối, giữa sự thiện và sự ác. Người môn đệ cần chiến đấu để làm chứng vì danh Đức Ki-tô, có khi phải dùng cả mạng sống để minh chứng cho niềm tin và Tình Yêu vì danh Đức Ki-tô: “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét” (c.17)
“Nhưng dù một sợi tóc trên đầu, anh em cũng không bị mất” (c.18). Một lời hứa, một lời bảo đảm là Thiên Chúa sẽ không ngừng bảo vệ những kẻ yêu mến Ngài: “Ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy…” (12, 8) và Chúa Giêsu khẳng định “Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống” (c. 19). Ở đây, Chúa Giêsu nói về cuộc sống mai sau, đời sống đích thực ở trên trời và các Ki-tô hữu sẽ chiếm được sự sống mới ấy nhờ kiên trì khi bị chống đối.
Có ai đó nói rằng: “Nếu đường đời bằng phẳng, anh hùng hào kiệt có hơn ai”. Cuộc đời dường như không bằng phẳng. Cuộc đời luôn có sóng gió, có nghi nan, có những bất trắc xảy ra ngoài dự tính. Kẻ chiến thắng là kẻ kiên nhẫn với lòng dũng cảm vượt qua. Người thất bại là thấy khó bỏ cuộc, thấy khổ lẩn trốn. Chỉ có những ai dám đương đầu với gian nan mới mong có ngày thành công.
Chúng ta được mời gọi khám phá những giá trị cao quý ẩn chứa trong những khó khăn đau khổ xảy đến cho mình. Mỗi khi bạn đối diện với những “thập giá” đó của đời bạn, mời bạn ngước nhìn lên thập giá của Đức Ki-tô để được tiếp sức bởi sự lạc quan của Tin Mừng bởi vì thập giá Chúa Ki-tô chính là sự khôn ngoan và sức mạnh của Thiên Chúa (1Cr 1, 18-25); trên thập giá, Chúa đã tiêu diệt kẻ thù cuối cùng là sự chết (1Cr 15, 26).
Chúa Giêsu Ngài cũng kêu gọi chúng ta hãy kiên nhẫn trong đức tin. Cho dù có phải trả giá bằng những bách hại, bằng những khốn khó, bằng những thua thiệt. Cho dù có phải trả giá vì sự bỏ rơi của cha mẹ, anh em, bạn bè . . . Nhưng phần thưởng chúng ta thật lớn lao trên quê trời. Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Ngài luôn nâng đỡ và phù giúp chúng ta trước những khó khăn cuộc đời.
2022
Không còn hòn đá nào trên hòn đá nào
22.11 Thánh Cêcilia, Đttđ
Kh 14:14-19; Tv 96:10,11-12,13; Lc 21:5-11
Không còn hòn đá nào trên hòn đá nào
Cêcilia là một nữ quý tộc Rôma đã dâng hiến trái tim mình cho Đức Chúa Giêsu. Thánh nữ muốn làm hiền thê của Đức Chúa Giêsu, nhưng thân phụ ngài lại sắp xếp để Cêcilia kết hôn với một chàng quý tộc ngoại đạo
Vị nữ thánh bổn mạng nền thánh nhạc này sống vào thời Giáo hội sơ khai. Muốn biết về tiểu sử thánh nữ Cêcilia, chúng ta hãy cùng trở về với thế kỷ thứ 4. Cêcilia là một nữ quý tộc Rôma đã dâng hiến trái tim mình cho Đức Chúa Giêsu. Thánh nữ muốn làm hiền thê của Đức Chúa Giêsu, nhưng thân phụ ngài lại sắp xếp để Cêcilia kết hôn với một chàng quý tộc ngoại đạo. Người ta nói rằng trong lúc cử hành hôn lễ, cô dâu đáng yêu này đã ngồi tách biệt ra.
Trái tim ngài dâng lên Chúa Giêsu những lời hát và cầu xin Người trợ giúp. Khi Cêcilia và Valêrianô, vị hôn phu của ngài, ở một mình, Thánh nữ Cêcilia mới lấy hết can đảm mà nói cùng Valêrianô rằng: “Anh Valêrianô! Em có điều muốn nói với anh! Anh phải biết em có một vị thiên thần của Thiên Chúa hằng canh giữ em. Nếu anh để em giữ trọn lời hứa là chỉ làm hiền thê của Đức Chúa Giêsu mà thôi, thì vị thiên thần của em sẽ yêu mến anh như ngài đã yêu mến em.”
Valêrianô đã nghe lời thuyết phục của Cêcilia và đã tôn trọng lời hứa trinh khiết của ngài; đồng thời anh cũng trở thành một Kitô hữu. Người em trai của Valêrianô, Tiburtiô, cũng học hỏi đức tin Công giáo nơi Cêcilia. Thánh nữ đã trình bày về Đức Chúa Giêsu cách rất tuyệt vời đến nỗi chẳng bao lâu, Tiburtiô cũng xin chịu phép Thanh tẩy. Cả hai anh em đã cùng nhau làm nhiều việc từ thiện. Khi bị bắt vì tội danh là Kitô hữu, hai anh em đã can đảm thà chịu chết còn hơn là chối bỏ đức tin mới lãnh nhận. Thánh nữ Cêcilia đã âu yếm chôn cất thi hài của hai anh em trước khi chính ngài cũng bị bắt giữ. Thánh nữ đã hoán cải nhiều quan chức, những người trước đây đã bắt ngài hy sinh tế các tà thần.
Khi bị ném vào lửa đỏ, Thánh nữ Cêcilia đã chẳng hề hấn gì. Sau cùng, người ta đã sai một tên đao phủ đến chém đầu Cêcilia. Người đao phủ đã chặt xuống cổ Thánh nữ ba phát, nhưng Cêcilia không chết ngay lúc ấy. Thánh nữ quỳ xuống nền nhà cách bất động. Tuy vậy, qua việc chìa ra ba ngón của một bàn tay và một ngón bên bàn tay kia, Thánh nữ Cêcilia vẫn tuyên xưng niềm tin vào một Thiên Chúa Ba Ngôi, nghĩa là Ba Ngôi cùng hiện diện trong một Thiên Chúa.
Đức tin của Thánh nữ Cêcilia thật là mạnh mẽ và đã thuyết phục được người khác tin theo Đức Chúa Giêsu. Tình yêu của Thánh nữ cũng thật lớn lao và vẫn trung thành với Đức Chúa Giêsu ngay cả khi phải đối diện với những mối nguy hiểm. Chúng ta hãy cầu xin cùng Thánh nữ Cêcilia ban cho chúng ta cũng một đức tin và tình yêu đã làm cho ngài nên thánh.
Trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, chúng ta được nghe về một ngôi nhà khác – Đền thờ tại Jerusalem. Được “Trang trí với đá quí”, đối với người Dothái, nó đáng yêu, cho đến những chi tiết cuối cùng (Lc 21, 5). Vì vậy, khi Chúa Giêsu nói tiên tri, “Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào.” (21, 6) đã gây sốc và khiến cho những người nghe khó chịu.
Những người Do Thái mong đợi Vị Cứu Thế – Đấng sẽ đến để bảo vệ đền thờ – đã không dự đoán được sự hủy diệt của nó. Nhưng Chúa Giêsu đã làm tiêu tan mong đợi của họ khi Người nói với họ rằng nó sẽ bị hủy diệt. Tuy nhiên, Người đến để thiết lập một ngôi Đền thờ mới trường tồn. Ngôi đền thờ đó là Giáo Hội, và Người chính là viên đá góc – là nền tảng. Phần còn lại của tòa nhà được làm bằng những viên đá sống động là chúng ta. Chúng ta còn quý hơn cả “những viên đá quí” được sử dụng trong Đền Jerusalem, và mỗi người chúng ta được mời gọi để đóng một vai trò quan trọng trong Giáo Hội.
Bởi vì chúng ta là một đền thờ sống động trong Đức Kitô, vì vậy, chúng ta cần sống như thế nào để làm nên một sự khác biệt, không chỉ trong cuộc sống của chúng ta, mà còn trong anh chị em của chúng ta. Chúng ta tăng thêm vẻ đẹp và sức mạnh cho toàn thể Giáo Hội qua những công việc hằng ngày, qua cách cư xử của chúng ta. Chẳng hạn như khi chúng ta biểu lộ sự kiên nhẫn đối với một trong những đứa con của mình, hoặc dành một vài phút để kiểm điểm đời sống trên trang Kinh Thánh hàng ngày – điều không chỉ làm sinh động mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa nhưng còn lôi kéo chúng ta đến gần Chúa Giêsu hơn.
Thiên Chúa luôn luôn có nhiều hơn và nhiều hơn nữa những điều Người muốn thấy thực hiện trong Giáo Hội và Người cũng ban thêm ân sủng nhiều thêm hơn nữa cho chúng ta để thực hiện công việc của Người. Vì vậy, ngày hôm nay, chúng ta phải tự hỏi: “Tôi có thể làm một điều gì dù nhỏ thôi để xây dựng Giáo Hội của Chúa?” Hãy lắng nghe những gì Chúa Thánh Thần nói: nó có thể là một điều gì đó nhỏ bé, nhưng ngay cả như thế, nó cũng sẽ làm hài lòng Chúa và Người sẽ chúc lành cho dân Người.
Cuối cùng, chúng ta hãy cầu nguyện xin Chúa Giêsu sẽ tiếp tục hướng dẫn và bảo vệ Giáo Hội cũng như tất cả mọi người trong đó. Chúng ta hãy cùng nhau đóng góp ngày một nhiều hơn nữa cho sự phát triển Ngôi Đền thờ ‘Giáo hội’ của Chúa Giêsu.
2022
Dâng mình cho Chúa như Đức Mẹ
21/11 Lễ Đức Mẹ dâng mình và Đền Thánh
Kh 14:1-3,4-5; Tv 24:1-2,3-4,5-6; Lc 21:1-4
Dâng mình cho Chúa như Đức Mẹ
Những cha mẹ đạo đức thường dâng con mình cho Chúa, trong lúc mang thai cũng như sau khi sinh. Đối với một số người Dothái, họ có thói quen dâng con cho Chúa lúc chúng còn thơ ấu. Họ đem con đến Đền thờ, cho chúng ở lại đó phục vụ các tư tế trong việc phụng tự. Chúng ta gặp thấy nhiều cuộc dâng hiến như thế, như trường hợp của Samuen và nhiều vị thánh khác. Riêng Đức Maria, Phúc âm không nói gì về thời thơ ấu của ngài, nhưng truyền thống nói rằng lúc lên ba tuổi, cha mẹ đã đem dâng ngài trong đền thờ.
Hôm nay Hội thánh mừng ngày kỷ niệm Đức Mẹ dâng mình đó. Lễ này mới được Hội thánh công nhận và phổ biến rộng khắp vào thế kỷ 14. Việc Đức Mẹ dâng mình chắc chắn rất đẹp lòng Chúa, vì ngài đã được Vô nhiễm nguyên tội ngay từ buổi đầu thai, vì Chúa đã định chọn Mẹ cưu mang và sinh Con của Ngài. Và Mẹ đã dâng mình cách trọn vẹn, trọn hảo.
Chính trong đền thờ, Mẹ chuẩn bị sứ mạng làm Mẹ Thiên Chúa. Mười hai năm trời Mẹ suy niệm, cầu nguyện, sống gần gũi thân mật với Chúa. Theo thánh Giêrônimô, chương trình sống một ngày của Mẹ ở trong đền thờ gồm có kinh nguyện, suy gẫm, học hỏi Lời Chúa, hát thánh vịnh. Mẹ làm các việc thiêng liêng đạo đức đó với cả lòng sốt sắng nhiệt thành, nêu gương cho mọi người khác.
Người còn đang nói với đám đông, thì có mẹ và anh em của Người đứng bên ngoài, tìm cách nói chuyện với Người. Có kẻ thưa Người rằng: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, tìm cách nói chuyện với Thầy.” Người bảo kẻ ấy rằng: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi? ” Rồi Người giơ tay chỉ các môn đệ và nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi.”
“Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi”.
Cuộc đời Đức Mẹ là một cuộc hành trình trong yêu thương. Hành trình đó được khởi đi từ sự ý thức về một Thiên Chúa yêu thương, để rồi qua đó, Mẹ cũng ý thức sống trọn vẹn cho tình yêu Thiên Chúa qua việc dâng mình thuộc trọn về Chúa. Và chính khi sống trong tình yêu thương đó, Mẹ đã sẵn sàng đáp lời “Xin vâng”, cũng như sẵn sàng chịu bao đau khổ, bao khó khăn trong trọn cuộc sống Mẹ. Nhìn vào cuộc đời Mẹ, mấy ai có thể nghĩ rằng một thiếu nữ mỏng dòn yếu đuối lại có thể vượt qua tất cả những điều đau khổ trong cuộc đời. Thế nhưng, chính khi Mẹ sống trong tình yêu của Thiên Chúa thì tất cả những đau khổ, những khó khăn trong cuộc đời chẳng có thể làm cho Mẹ suy sụp, chẳng thể làm cho Mẹ nản chí hay từ bỏ.
Khi sống trong ân sủng và tình yêu thương của Thiên Chúa, Mẹ đã biết sống theo những điều Thiên Chúa muốn, bởi vì điều đó không chỉ làm đẹp lòng Thiên Chúa nhưng còn mang lại niềm hạnh phúc lớn lao cho Mẹ nữa. Chính vì thế mà đoạn Tin Mừng hôm nay tưởng chừng như một lời nói vô tình của Chúa Giêsu đối với Mẹ, nhưng thật ra đó lại là một lời khen ngợi, một dấu chỉ của sự yêu thương mà Chúa Giê su đã dành cho Mẹ mình.
Bởi Ngài biết rằng, Mẹ Maria không chỉ là một người mẹ của tình mẫu tử thông thường, nhưng vượt trên tất cả, Mẹ còn là một người mẹ sống trọn vẹn theo thánh ý Thiên Chúa, đó mới thực sự là điều quan trọng và là điều thiết yêu hơn cả. Cuộc đời Mẹ cho dù phải trải qua những bước thăng trầm sóng gió, nhưng Mẹ vẫn không hề chùn bước, vì Mẹ đã luôn “ghi nhớ và suy niệm trong lòng” nhằm vâng theo thánh ý Chúa và sống trọn vẹn thánh ý Chúa.
Ý thức về tình yêu Thiên Chúa là ý thức về những hồng ân cao cả của Ngài. Điều đó đã giúp Mẹ có đủ tình yêu thương để đồng hành với Chúa Giêsu trên đường khổ giá, có đủ sức mạnh để tha thứ cho những kẻ làm hại Con mình, có đủ nghị lực để vượt qua tất cả những sóng gió và có đủ can trường để yêu thương tất cả mọi người. Mẹ đã không dừng lại nơi một tình mẫu tử máu thịt, nhưng đã vượt lên trên tất cả để sống trọn vẹn tình mẫu tử thiêng liêng, tình mẫu tử gắn liền với thánh ý của Thiên Chúa. Chỉ có như thế, Mẹ mới có thể thấu hiểu được và sống cùng với những trái ý những thách đố trong cuộc đời Mẹ. Để rồi, khi về trời, Mẹ vẫn hiểu được con cái của Mẹ dưới trần này, và Mẹ vẫn mãi đồng hành với đoàn con trong bất kỳ hoàn cảnh trái ngang nào của cuộc sống.
Mẹ luôn lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa, đó chính là điểm đặc sắc nhất của đời sống Mẹ. Theo thánh Augustinô: “Thánh Mẫu Maria đã thực hiện hoàn toàn ý định Chúa Cha, và vì thế, việc ngài được làm môn đệ Đức Kitô thì có giá trị hơn là việc được làm Mẹ Đức Kitô. Do đó, Đức Maria thật diễm phúc vì đã mang Chúa trong lòng trước khi sinh ra Người”.
Như thế, Đức chính Maria là Đền Thờ của Thiên Chúa. Việc Mẹ dâng mình vào đền thánh là thể hiện ngôi Đền thờ sống động trong tâm hồn.
Chúng ta cũng thế, chúng ta là đền thờ sống động của Chúa, nên chúng ta biết noi gương Mẹ, dâng mình cho Chúa, lắng nghe và thực hành Lời Chúa hằng ngày trong đời sống.
2022
Niềm tin đời sau
19.11 Thứ bảy Tuần XXXIII
Niềm tin đời sau
Con người sinh ra từ đâu? Sống ở trên đời này để làm gì? Chết rồi sẽ đi về đâu? Đó là những câu hỏi luôn làm bận tâm và bám chặt vào thân phận con người. Các nhà khoa học, những nhà y khoa và các triết thuyết tôn giáo cũng đã tìm hiểu và đưa ra nhiều những câu trả lời khác nhau về cuộc sống mai hậu của loài người. Và dù có đưa ra được những bằng chứng, những công trình nghiên cứu hay những giáo lý riêng của mình đi chăng nữa, thì đó vẫn chỉ là những quan điểm khác nhau. Con người vẫn còn khắc khoải, chờ mong một câu trả lời rõ ràng và xác đáng.
Niềm tin Ki-tô giáo khác hẳn những triết thuyết và các giải thích của những trường phái trên. Niềm tin ấy cho biết một cách cụ thể trong bài Tin mừng ngày hôm nay như thế này, sau khi nhóm Sa-đốc chất vất Chúa Giê-su về sự sống đời sau, họ đưa ra bằng chứng về người phụ nữ đã lấy bảy anh em trong một gia đình, vậy sau khi chết, ai sẽ là người chồng đích thực của bà. Câu trả lời của Chúa Giêsu là, hạnh phúc vĩnh cửu đời sau, trên thiên đàng không còn chuyện dựng vợ gả chồng.
Và Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống chứ không phải của kẻ chết. Thật thế, căn bản của niềm tin vào sự sống lại là chính Chúa Giê-su. Có nghĩa là người Ki-tô hữu chúng ta phải để niềm tin này nuôi dưỡng mọi công việc chúng ta làm, và phải biết sống làm sao ở đời này để xứng đáng thừa hưởng cuộc sống mai sau.
Hay nói cách khác, niềm tin vào sự sống lại nơi người Ki-tô hữu là một ân ban, là một quà tặng Thiên Chúa dành riêng cho chúng ta. Vì thế, ngay tại thế này, chúng ta có nhiệm vụ làm cho quà tặng ấy được sinh hoa kết trái ngay nơi tâm hồn mình. Bằng chứng là chúng ta phải chịu trách nhiệm về mọi tư tưởng, hành động của mình trong đời sống hàng ngày. Hay nói rõ hơn, mọi việc chúng ta làm phải luôn hành động theo luật Chúa dạy và luật tự nhiên.
Luật Chúa dạy là mến Chúa, yêu người. Đây là hai thực tại đan xen lẫn nhau, đòi người Ki-tô hữu cùng lúc thực hành song song để tạo ra hoa trái sinh động. Tôi không thể yêu Chúa nếu như tôi không tôn trọng sự sống, cũng như tôi không thể yêu người nếu như tôi không thực sự mến Chúa.
Câu chuyện chàng thanh niên giàu có trong Tin mừng là một ví dụ điển hình. Anh muốn đi theo Chúa, muốn được hưởng kiến niềm vui Nước Trời, thế nhưng khi được Chúa đề nghị bán hết của cải cho người nghèo, anh lại không dám. Anh chỉ muốn được ở bên Chúa. Anh không quan tâm đến người khác. Như vậy, ơn gọi của anh bị thiếu mất vế sau. Trong lịch sử Giáo hội, hẳn những con người thể hiện hoàn trọn hai vế ấy hẳn là các thánh nhân. Họ không những đã thực hành Lời Chúa dạy một cách hoàn trọn, họ còn yêu thương, giúp đỡ con người một cách đầy đủ. Họ đã giới thiệu Chúa cho mọi người và đưa mọi người về cùng Chúa. Trái tim của họ đầy tràn tình yêu Chúa và cũng nồng nàn hơi ấm tình người.
Đó là những người đã chu toàn đầy đủ mười điều răn Chúa dạy và họ xứng đáng được diện kiến tôn nhan Chúa, sự chết không làm gì được, họ sống một cuộc đời hạnh phúc bất diệt ngay tại thế này. Những mẫu gương ấy chính là nền tảng mẫu mực đưa chúng ta vươn tới niềm hy vọng. Niềm hy vọng được sống trường tồn vĩnh cửu với Chúa Ki-tô phục sinh.
Bên cạnh việc chu toàn 10 điều răn, người Ki-tô hữa còn được thúc đẩy tuân giữ những luật tự nhiên. Xét như những gì là thực tại gần gũi, chúng ta cần bảo vệ môi trường sống, không phá hủy rừng, sử dụng nguồn nước và không khí có trách nhiệm. Xét về mặt luân lý, chúng ta không được can thiệp vào sự sống, không được chọn những cách thức can dự vào sự sống như sử dụng cái chết êm dịu, hay trợ tử; tất cả những việc làm đó đều đi ngược lại luật tự nhiên mà Thiên Chúa đã ấn định. Thiên nhiên, sự sống là quyền của Thiên Chúa, con người được thụ hưởng và có nhiệm vụ cộng tác nhưng không có quyền định đoạt hay phá bỏ.
Tiếc thay con người ngày nay thường nhân danh một chủ thuyết hay một cơ chế nào đó mà họ táng tận lương tâm hủy hoại mạng sống của đồng loại một cách không thương tiếc như tàn phá môi trường sống một cách vô tội vạ, hay lạm dụng chính sức lao động của đồng loại mình để tìm kiếm, đào bới những tài nguyên dẫn tới cạn kiệt. Nơi suy nghĩ của họ, tiền bạc, quyền hành và lợi tức vượt trên tất cả, và hậu quả là những người dân vô tội phải lãnh nhận là mưa lũ, ngập lụt.
Với người Ki-tô hữu, sự sống đời sau được khởi sự từ đời sống này. Một đời sống lấy chính Chúa và đời sống tha nhân làm trung tâm điểm của đời sống mình. Một đời sống được gọi mời phụng thờ Chúa và tôn trọng những giá trị tự nhiên, vì mọi sự đều là của Chúa, thuộc về Chúa. Một khi tuân giữ và thực thi nền giáo lý như vậy, chắc chắn người Ki-tô đã được hưởng trọn niềm vui đời sống mai hậu ngay nơi đời sống thực tại này.