2022
KIÊN TRÌ CẦU NGUYỆN
12.1 Thánh Josaphat, Gmtđ
3 Ga 112:1-2,3-4,5-6; Lc 18:1-8
KIÊN TRÌ CẦU NGUYỆN
Thánh Josaphát sinh khoảng năm 1580, tại Ucraina, trong một gia đình theo Chính thống giáo. Cha mẹ làm nghề buôn bán. Vì bận công việc, hai ông bà ít có thời giờ chăm lo giáo dục và huấn luyện lòng đạo đức cho con. Nhưng bù lại, Josaphát đã được hưởng một sự giáo dục đầy đủ về cả trí lẫn tâm, nhờ tiếp xúc gặp gỡ thường xuyên với một linh mục, có lòng đạo đức, nhờ đó Josaphát đã sớm gắn bó với Giáo Hội Chính thống Ucraina, theo nghi lễ Xilavônia hiệp nhất với Rôma. Ngay từ thơ ấu, Josaphát đã hấp thụ nơi linh mục này tinh thần cầu nguyện và hăng hái làm việc tông đồ.
Nhiều lần sau khi đi học về, cậu Josaphát thường mang ảnh Chuộc tội ra đứng ở nơi công cộng và rao giảng như một “ông cụ non” về sự thương khó của Chúa Giêsu. Ban đầu nhiều người cho cậu bé là kỳ dị, nhưng dần dà họ như bị thôi miên bởi vẻ mặt rạng rỡ và giọng nói đầy cảm động của Josaphát đến nỗi nhiều người đã bỏ cả công việc để đến nghe thuyết giảng. Đúng là một tông đồ miệng còn hôi sữa!
Năm lên mười bảy tuổi, Josaphát nghe như có tiếng gọi dấn thân phục vụ Chúa đắc lực hơn, nên đã mạnh dạn ngỏ ý xin cha mẹ cho vào tu ở một đan viện. Nhưng ông bà thân sinh vốn ham mê công việc buôn bán, lại muốn con lập gia đình để có người nối dõi tông đường, nên đã cương quyết từ chối ý định của con nhưng sau vì thấy Josaphát một mực từ chối đời sống hôn nhân, nên hai ông bà thân sinh bằng lòng cho con tự do đi theo tiếng Chúa gọi.
Josaphát xin vào đan viện thánh Basiliô ở Vilna, với ý hướng dâng hiến cuộc đời cùng với những hy sinh, phạt xác theo nếp sống đan tu đề cầu nguyện cho Giáo Hội. Những tưởng được an tâm để theo đuổi nguyện vọng, ai ngờ thầy lại gặp cảnh trớ trêu: Đan viện nơi thầy Josaphát ở đã mất sự hiệp nhất từ trong nội bộ. Bề trên của đan viện có khuynh hướng ngã theo phe ly khai, kéo theo một số thầy. Thế là nhà dòng đâm ra chia rẽ, kẻ theo Bề trên, người theo thầy Josaphát, khiến thầy mấy lần bị những người thuộc phe đối nghịch làm khó dễ.
Phân vân trước hai ngã đường: Phải trung thành với Giáo Hội Chúa Kitô hay vâng phục Bề trên? Sau những ngày cầu nguyện và suy nghĩ, thầy Josaphát đã quyết định không đứng về phe ly khai. Thầy mạnh dạn lên tiếng: “Trong trường hợp Bề trên công khai làm trái luật Chúa và Giáo Hội, không ai được phép vâng theo!” Ít lâu sau câu chuyện lục đục này của nhà dòng tới tai Đức Giám mục giáo phận, ngài liền cách chức vị Bề trên ấy, sai đi một nơi hẻo lánh để cảnh giác và đặt thầy Josaphát lên làm Bề trên thay thế.
Sau hai năm trong cương vị Bề trên đan viện, thầy Josaphát được thụ phong linh mục. Ngày đêm cha hăng hái lao mình vào việc củng cố sự hiệp nhất trong nội bộ đan viện và trong Giáo Hội Ucraina đã hiệp nhất với Rôma, kêu gọi những anh em ly khai trở về với Giáo Hội mẹ. Ngài cũng hết tâm chăm lo cho những người nghèo khổ có nơi ăn chốn ở . Người thời bấy giờ quen gọi ngài là “Cha của những người khốn khổ”. Năm 1617, ngài được phong làm Tổng Giám mục
Vì nhiệt tâm tông đồ, năm 1623, Đức Giám mục Josaphát lên đường đi Vitebsk để viếng thăm, ủy lạo và cổ vũ tinh thần hiệp nhất của các tín hữu nơi đây. Những thành công hoạt động tông đồ của vị Giám mục vừa mạnh mẽ vừa nhân hậu này đã khiến những người đối nghịch gọi ngài là “tên bắt cóc các linh hồn”. Họ để lòng thù ghét và thừa dịp ngài đến viếng thăm Vitebsk, họ đã hạ sát ngài ở đây.
Đúng như ngài đã linh cảm trước khi lên đường và khi ấy ngài đã cầu nguyện: “Lạy Chúa, con biết những kẻ thù nghịch của Chúa sẽ giết con; nhưng con sẵn sàng hiến dâng mạng sống con cho Chúa. Con chỉ xin Chúa một điều là cho họ được ơn trở về với Hội Thánh Chúa”.
Ðức Giáo Hoàng Piô IX đã tôn phong Ngài lên bậc hiển thánh vào năm 1867 với tước hiệu” Ðấng bảo vệ sự thống nhất Giáo Hội”. Ngài là vị thánh Ðông phương đầu tiên được phong tước hiệu quí hóa này.
Trong Tin Mừng hôm nay Đức Giê-su đã dạy các môn đệ: “Phải cầu nguyện luôn, không được nản chí” (Lc 18,1). Người muốn các tín hữu chúng ta cũng phải kiên trì cầu nguyện để sẽ được Chúa ban ơn cứu độ
Người muốn các tín hữu chúng ta phải kiên trì cầu nguyện noi gương ông Mô-sê quì giang tay suốt cả ngày để cầu xin cho quân Ít-ra-en thắng trận (Bài đọc 1); Hay như bà goá bị kiện cáo oan ức đã kiên trì xin ông quan toà “vốn không tin Chúa mà cũng chẳng kiêng nể người đời” minh oan cho bà. Nhờ biết kiên trì mà cuối cùng bà đã được ông ta minh oan (Bài Tin Mừng). Mỗi người chúng ta cũng phải kiên trì cầu nguyện, cả những lúc xem ra Chúa im lặng không đáp ứng các yêu cầu chính đáng của chúng ta với lòng tín thác cậy trông vào quyền năng và tình thương cùa Chúa như lời Đức Giê-su: “Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không bênh vực những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người, dù Người có trì hoãn ? Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng bênh vực họ” (Lc 18,7-8a).
Không nên đòi hiệu quả tức thời: Khi cầu nguyện, chúng ta tin chắc Chúa sẽ đáp lời cầu xin của chúng ta. Nhưng Ngài không ban lập tức theo ý riêng của chúng ta, mà ban vào thời gian và cách thức nào có lợi nhất cho chúng ta. Thời gian Chúa nhậm lời có thể kéo dài lâu hơn chúng ta nghĩ và cách Ngài ban ơn cũng có thể khác với ước nguyện của chúng ta, nhưng bao giờ cũng thích hợp nhất và ữu hiệu nhất cho hạnh phúc của chúng ta.
Hãy cầu xin theo ơn Thánh Thần soi dẫn: Thánh Phao-lô đã dạy: “Chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải, nhưng chính Thần Khí sẽ cầu thay nguyện giúp cho chúng ta… theo đúng thánh ý Thiên Chúa” (Rm 8, 26-27).
Như thế, cầu nguyện không phải là xin ơn theo kiểu vụ lợi của chúng ta, cũng không phải là sự liệt kê những nhu cầu để xin Chúa ban theo ý riêng của ta. Nhưng cầu nguyện là đối thoại với Thiên Chúa, xin Ngài giúp chúng ta vâng theo thánh ý Ngài, noi gương Chúa Giêsu đã cầu xin Chúa Cha trước cuộc khổ nạn: “Cha ơi! Nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26, 39). Tuy nhiên con người vốn yếu đuối dễ nản chí, nên Chúa Giêsu đã cảnh báo: “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng ?” (Lc 18, 8).
Con người thời nay, trong đó có không ít các ki-tô hữu, ngày càng ưa chạy theo lối sống thực dụng. Họ thích những bàn tay làm ra nhiều của cải vật chất hơn là đôi tay chắp lại cầu nguyện; mà nếu có cầu nguyện thì mang tâm trạng “ăn xổi ở thì” muốn “cầu được ước thấy” ngay trước mắt. Với não trạng thực dụng này, người ta dễ chán nản, buông xuôi vì nghĩ rằng Thiên Chúa chậm trễ hoặc không đáp lại lời họ kêu xin. Chúa Giêsu dạy chúng ta biết kiên trì trong lời cầu nguyện. Với niềm tin vững vàng và lòng cậy trông tha thiết vào Thiên Chúa là Cha nhân ái, chắc chắn, lời cầu nguyện của chúng ta sẽ được Ngài đoái nhận lời. Ngài sẽ ban cho chúng ta điều tốt đẹp nhất không phải theo tầm nhìn hạn hẹp của chúng ta, mà là theo sự khôn ngoan vô lượng và lòng nhân hậu vô biên của Ngài.
Tin tưởng vào tình thương yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa, chúng ta phải biết kiên trì và trung thành trong lời cầu nguyện và việc thờ phượng của mình. Không phải cầu nguyện chỉ để xin được điều này điều khác như ý muốn, nhưng đó là biểu hiện của sự tin tưởng vào tình yêu thương và sự quan phòng của Cha trên trời.
2022
Đón chờ ngày cánh chung
11.1 Thánh Martinô thành Tours, Tiến Sĩ
2 Ga 119:1,2,10,11,17,18; Lc 17:26-37
Đón chờ ngày cánh chung
Vị thánh quân nhân này sống vào thế kỷ thứ 4. Ngài gia nhập quân đội Rôma ở Ý khi mới chỉ lên 15. Dù song thân ngoại đạo, Martinô vẫn kiên quyết truy tầm về Kitô giáo. Những người học hỏi đạo Kitô được gọi là những người dự tòng cho tới khi họ được lãnh nhận bí tích Thanh tẩy.
Vào một ngày tiết đông giá lạnh, Martinô cùng đồng bạn tới bên một người ăn xin nằm co ro trước cổng thành phố Amiens. Áo quần mà ông ăn mày đang vận chỉ là tấm giẻ quấn trên người và ông đang run lên vì lạnh lẽo. Các binh lính khác thấy vậy liền bỏ đi, nhưng Martinô cảm thấy cần phải giúp đỡ người hành khất này. Chẳng mang theo của gì, Martinô liền rút thanh gươm cắt tấm áo choàng đang mặc ra làm đôi. Có vài người đã chế nhạo hành vi buồn cười của Martinô khi thấy ngài cắt phân nửa manh áo để bố thí cho người hành khất. Song, cũng có vài người khác tự cảm thấy hổ thẹn vì sự ích kỷ của mình. Đêm ấy, Chúa Giêsu đã hiện ra với Martinô. Người mặc nguyên trên mình phân nửa manh áo mà Martinô đã bố thí cho người hành khất.
“Martinô, vẫn còn là một dự tòng, đã khoác cho Ta manh áo này đấy!” Chúa Giêsu nói. Và ngay sau biến cố kỳ diệu này, thánh Martinô liền đi xin lãnh bí tích Thanh tẩy. Sau đó ít lâu, ngài rời bỏ quân đội.
Rồi thánh Martinô trở nên môn đệ của thánh Hilariô, lúc ấy đang làm giám mục thành Poichiê, nước Pháp. Vì phản bác kịch liệt đối với lạc thuyết Ariô trong nhiều thành phố, Martinô đã bị giam tù. Nhưng thánh nhân lại cảm thấy hạnh phúc khi được sống trong nơi hoang vắng với các đan sĩ khác. Khi người dân thành Tours kéo đến xin Martinô làm giám mục của họ, thánh nhân đã từ chối. Tuy vậy, dân chúng vẫn không nhượng bộ. Họ đã mời Martinô tới thành phố để viếng thăm một bệnh nhân. Khi thánh Martinô đến đó, lập tức họ đã bắt thánh nhân vào nhà thờ. Martinô được đặt làm giám mục thành Tours năm 371. Với tư cách là giám mục, thánh Martinô đã làm mọi điều có thể để giúp nước Pháp thoát khỏi chủ nghĩa vô thần. Thánh nhân đã cầu nguyện, làm việc và rao giảng khắp nơi.
Chúa Giêsu cho thánh Martinô biết được giờ chết đã gần kề. Thoạt khi biết tin này, các môn đệ của thánh nhân đã oà khóc. Họ nài xin ngài đừng bỏ họ ra đi. Vì vậy, thánh Martinô đã cầu nguyện: “Lạy Chúa, nếu dân của Chúa cần con như thế, thì con không thể từ chối. Chỉ mong sao ý Chúa được nên trọn!” Rồi, thánh Martinô còn đang làm việc cho Thầy Chí Thánh ở một nơi hẻo lánh trong địa phận thì Chúa đã gọi ngài về năm 397. Ngôi mộ của thánh Martinô trở thành một trong những ngôi đền nổi tiếng nhất ở Âu châu.
Thật dễ dàng biết bao khi chỉ quan tâm tới những sở thích riêng của mình. Nhưng, như thánh Martinô thành Tours, chúng ta cũng muốn nhận thức được cả những nhu cầu của tha nhân. Chúng ta hãy nài xin thánh Martinô thành Tours giúp chúng ta biết nhận ra những nhu cầu của tha nhân và tìm cách giúp họ theo sức của mình.
Chúng ta đang sống trên trần thế, đang hoạt động, đang làm việc, đang vui chơi, đang nghỉ ngơi,… Những gì được gọi là “đang” ấy sẽ có ngày chấm dứt, kết thúc tất cả. Đó là ngày cánh chung.
Chúa Giêsu mô tả ngày chấm dứt cuộc sống trần thế của cuộc sống con người bằng câu chuyện thời ông Noe với trận lụt hồng thủy, hoặc câu chuyện lửa đỏ diêm sinh thiêu rụi tất cả thành Sôđôma vào thời ông Lót trong Cựu Ước…thật bất ngờ, ghê gớm và đáng sợ vào ngày Chúa tái lâm để xét xử con người trên trái đất.
Sự việc xảy ra thật bất ngờ đến độ người ta đang vui chơi, ăn uống, cưới vợ gả chồng,…thì lũ lụt xảy đến, mưa lửa và diêm sinh từ trời đổ xuống.
Sự việc thật bất ngờ khi mà hai người đàn bà đang xay cùng một cối bột, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại; hoặc hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại.
Những điều đó sẽ xảy ra trong ngày Chúa quang lâm, hầu cảnh giác con người hãy tỉnh thức và sẵn sàng. Và số phận của con người tùy thuộc vào chính cuộc sống của họ trên trần gian : kẻ lành được chọn, kẻ dữ sẽ bị loại trong ngày quang lâm.
Ngày cánh chung sẽ đến, nhưng bao giờ xảy đến không ai biết. Nhưng Chúa cho sự việc xảy ra như thế nhằm đốc thúc con người đừng quá chăm lo cho cuộc sống hiện tại, đừng quá chểnh mảng, lơ là trong công việc chuẩn bị cho ngày cánh chung, mà cần phải biết chăm lo cho cuộc sống mai sau bằng thái độ chuẩn bị và sẵn sàng.
Hôm nay, Chúa cũng nhắc nhở chúng ta, dừng quá bám víu vào thế gian, hoặc vun quén cho sự sống thế tục của mình, nhưng phải lo đến cuộc sống đời đời của mình bằng việc sống đẹp lòng Chúa hơn.
Số phận của chúng ta được định đoạt trong ngày phán xét : được chọn hay bị loại. Tất cả tùy thuộc vào thái độ sống hiện tại của chúng ta : tin hay từ chối đức tin, yêu mến Chúa và phục vụ tha nhân hay khước từ tình yêu với Chúa và với tha nhân.
Xin Chúa cho chúng ta biết chuẩn bị tâm hồn đón chờ ngày cánh chung. Xin Chúa thúc đẩy chúng ta sống tâm tình tỉnh thức và sẵn sàng. Xin Chúa giúp chúng ta biết sống xứng đáng với phẩm giá làm người và làm con cái Chúa để bảo đảm cho sự sống vĩnh cửu mai sau.
2022
Đón nhận biến cố
10.11 Thánh Lêo Cả, Ghts
Tv 146:7,8-9,9-10; Lc 17:20-25
Đón nhận biến cố
Thánh Lêô sinh tại Roma vào khoảng năm 400, thuộc dòng họ quí tộc Tuscan. Sau khi đã giữ nhiều chức vụ quan trọng trong Giáo Hội đến năm 440 thì được bầu lên nắm giữ chức vụ Giáo Hoàng. Triều đại của ngài đang ở trong thời kỳ khủng hoảng. Đế quốc La Mã, một thời vàng son nay đang trên đà thoái hóa và sụp đổ. Các lý thuyết sai lầm lạc giáo tự do lan tràn, các đoàn rợ quân rình mò nơi biên giới. Trong thời kỳ như vậy nếu không có một thiên tài lãnh đạo và sáng suốt như thánh Lêô thì Giáo Hội khó mà đứng vững.
Là người kế vị thánh Phêrô, ngài có trách nhiệm nặng nề là hướng dẫn Giáo Hội trong kỷ cương. Ngài chứng tỏ là người cương quyết và uy quyền. Trong thông điệp “Tome” gởi cho Công Đồng Chalcedon (451) ngài phán quyết một cách rỏ ràng về bản tính của Chúa Kitô. Đức Lêô phán dạy Chúa Kitô là một Nhân vị, Ngôi Lời cực thánh, trong Chúa có bản chất người và Thiên Chúa, được kết hợp làm một không thể phân chia và pha trộn. Khi thông điệp của thánh Lêô được đọc lên trong Hội nghị các Giám Mục đã hết sức khâm phục mà kêu lên: “Thánh Phêrô đã nói qua Lêô”. Giáo huấn của thánh Lêô trở thành một tín điều cho Giáo Hội.
Sau Công Đồng là một thời kỳ đen tối, quân Mông cổ của Thành Cát Tư Hãn đang tiến về Roma. Thánh Lêô đã tự mình tay không đến gặp và yêu cầu quân Mông cổ rút lui đừng tiến vào Roma. Lần này thì thành công nhưng đến năm 455 ngài lại đến xin giàn hòa với quân rợ Vandals thì hoàn toàn thất bại. Ngài yêu cầu chúng có thể tịch thu mọi tài sản nhưng đừng giết người và thiêu đốt thành Roma.
Quân rợ Vandals đã cướp phá thành phố trong 14 ngày và cuối cùng chúng đã rút về Bắc Phi mang theo nhiều của cải cướp được và một số tù binh. Trong nhiều năm thánh Lêô đã cố gắng hàn gắn lại những đổ nát và giúp đỡ những nạn nhân còn sống sót.
Ngài qua đời ngày 10/11/461 và được chôn cất tại Vương Cung Thánh Đường thánh Phêrô. Nhờ ngài Giáo Hội không những sống còn qua cơn tai ương mà còn tiến mạnh đến những định chế vững mạnh trong thời Trung Cổ. Do đó ngài được tôn kính với biệt hiệu là “Vĩ đại” cùng với hai thánh Giáo Hoàng khác là Gregory I và Nicolas I.
Năm 668, Đức giáo hoàng Sergiô I dựng bia mộ người, đã viết: “Người vẫn còn canh thức, kẻo chó sói hằng luôn rình rập, xông vào cắn xé đoàn chiên”. Đức giáo hoàng Biển Đức XIV đã tuyên xưng Thánh Giáo Hoàng Lêô I là Tiến Sĩ Hội Thánh ngày 15/10/1754. Ngài được giáo hội kính nhớ vào ngày 10/11.
“Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông.” Hầu hết Người Ki-tô hữu cầu nguyện bằng kinh lạy cha chí ít một tuần một lần khi tham dự thánh lễ Chúa nhật. Và lời cầu nguyện ấy bắt đầu bằng câu:
Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời, Chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước (triều đại) Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. (x. Mt 6, 9 – 11; Lc 11,2)
Thường thì người ta cầu nguyện, người ta van xin khi khát khao, mong mỏi hoặc cảm thấy cấp thiết được đáp ứng một điều gì đó. Lời cầu nguyện đúng nghĩa phải là lời cầu nguyện phát xuất từ thẳm sâu tâm hồn con người; không câu nệ, không máy móc, không cảm thấy áp lực hoặc bị cưỡng ép. Chúng ta thường đọc kinh lạy Cha với tâm tình nào?
Phải hiểu, phải cảm được sự tối cần thiết của nước Thiên Chúa trong cuộc sống con người thì con người mới khát khao mong mỏi ‘Nước Chúa hiển trị’. Nhưng trình thuật Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho chúng ta biết nước Thiên Chúa đã đến rồi: “Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông.” (c. 21b). Vậy chúng ta cần hiểu triều đại Thiên Chúa như thế nào?
Đức Ki-tô là hiện thân của nước Thiên Chúa. Đức Ki-tô đã đến. Người không những ở trong chúng ta mà còn ở giữa chúng ta nơi những người anh chị em sống chung quanh ta. Và hơn nữa, Người còn đồng hóa mình với những người nghèo nàn, bất hạnh. (Mt 25, 35 – 36) Vì vậy, chúng ta không thể chỉ tôn thờ Chúa trong nhà thờ hay khi đọc kinh cầu nguyện mà còn phải phục vụ Người trong cuộc sống, nơi tha nhân, nhất là những người chúng ta có bổn phận và trách nhiệm. Chúng ta khát khao ước ao nước cha hiển trị bởi vì đó là lẽ sống đích thực của chúng ta – sống trong nước tình yêu. Bởi vì bộ mặt thế gian này luôn qua đi, nhưng nước tình yêu của Thiên Chúa sẽ tồn tại mãi, nơi ấy chúng ta có Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh chị em với nhau.
Vì thế nước Thiên Chúa không ở xa, nhưng ở giữa chúng ta, và mỗi người chúng ta có bổn phận trách nhiệm xây dựng nước ấy bằng tình yêu chân thực phát xuất từ tình yêu Thiên Chúa đã dành cho chúng ta. Đồng thời lời kinh lạy Cha mà chúng ta đọc có thể là rất nhiều lần trong một ngày “xin cho nước cha hiển trị” sẽ không là những lời máy móc, vô nghĩa, nhưng là lời khẩn nài tha thiết với ước vọng ơn Cha giúp cho Giáo hội, mọi Ki-tô hữu cũng như chính bản thân ta biết sống như là một công dân của nước trời làm sáng danh Thiên Chúa tình yêu và làm cho tình yêu ngự trị khắp vũ hoàn.
“Người ta sẽ bảo anh em: ‘Người ở kia kìa!’ hay ‘Người ở đây này!’ Anh em đừng đi, đừng chạy theo.” (c. 23) Ngược lại với lời Chúa Giêsu, dường như thói thường chúng ta thường thích xem chuyện lạ, thích xem Chúa, Mẹ hiện ra; nghe ở đâu có chuyện lạ là ùn ùn đến ‘xem’; nhưng lại không muốn tuân giữ những điều Chúa dạy – con người, đời sống chẳng có gì biến đổi. Niềm tin của chúng ta thật mong manh. Chúng ta đang đắm mình và hòa vào một thế giới loại bỏ Thiên Chúa ra ngoài. Cuộc sống chỉ còn là những ganh đua và cạnh tranh, lao theo những nhu cầu vật chất không bao giờ đủ. Vì vậy, lời Chúa hôm nay như một tiếng chuông cảnh tỉnh, mời gọi mỗi người Ki-tô hữu nhìn lại tâm linh, duyệt xét đời sống của mình xem chúng ta có còn tin Chúa thực sự để biết rằng chúng ta là con Thiên Chúa và chúng ta phải sống như là con cái Chúa, như là công dân của nước trời.
Qua cuộc sống của Ngài, Chúa Giêsu đã vạch ra cho con người đường đi vào vĩnh cửu, đó là sống sung mãn trong từng giây phút hiện tại. Chính trong cuộc sống mỗi ngày mà con người phải tìm kiếm và xây dựng những giá trị vĩnh cửu. Sống như thế là sống tỉnh thức theo tinh thần mà Chúa Giêsu hằng nhắc nhở trong Tin Mừng của Ngài; sống như thế, con người mới có thể nhận ra ý nghĩa của cuộc sống. Một cuộc sống có đáng sống và có ý nghĩa hay không, là tùy ở thái độ trân trọng và tích cực của con người đối với mỗi giây phút hiện tại.
Nguyện xin Chúa ban thêm niềm tin để chúng ta không ngừng đón nhận Chúa qua từng biến cố và gặp gỡ mỗi ngày.
2022
Xây dựng đền thờ bản thân
9.11 Lễ cung hiền đền thờ Thánh Gioan Latêranô
St 3:1-7; Tv 23:1-3,3-4,5,6; Lc 17:11-19
Xây dựng đền thờ bản thân
Vương cung Thánh Đường Thánh Gioan Latêranô là một trong những thánh đường đầu tiên được xây cất sau những cuộc bách đạo ban đầu. Thánh đường được Hoàng Đế Constantinô xây và được ĐTC Sylvester thánh hiến năm 324. Thánh Đường này tiếp tục là Nhà Thờ Chánh Tòa của Giám Mục Rôma, Đức Thánh Cha. Thánh Đường này được gọi là ‘Mater Ecclesiae Romae Urbis et Orbis’, Mẹ của tất cả các thánh đường ở Rôma và trên thế giới.
Năm 313, sau khi ra chiếu chỉ ở Milano cho giáo hội được tự do hành đạo, Hoàng Đế Constantine cho xây đền thờ ở Laterano trong thời gian 313-318 để dâng kính Chúa Cứu Thế. Thời Đức Giáo Hoàng Gregorio I (590-604) đền thờ được dâng kính cả Thánh Gioan Tẩy Giả và Thánh Gioan Tông Đồ. ĐGH Lucio II đã ấn định tên đền thờ như hiện nay, Đền Thờ Thánh Gioan ở Laterano, năm 1144.Từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ thứ 14, đền thờ này là trung tâm của giáo hội Roma, trụ sở và biểu tượng của Đức Giáo Hoàng.
Như các đền thờ khác, Đền Thờ Thánh Gioan ở Laterano nhiều lần bị tàn phá, hỏa hoạn, hoang tàn sau hơn 73 năm vắng chủ khi giáo triều dời về Avignon, Pháp, đươc xây lại như ngày nay thời ĐGH Sisto V (1585-1590).
Thánh đường dài 130m, có 5 gian. Gian chính dài 87m, rộng 16m, có tượng 12 Thánh Tông Đồ bằng đá cẩm thạch trắng. Bước vào đền thờ, bên phải có đàn phong cầm vĩ đại với hai ngàn ống. Sau tòa giám quản có Giếng Rửa Tội (theo truyền thuyết, chính Hoàng Đế Constantine được ĐGH Silvestro rửa tội nơi đây). Ngoài nhà thờ, bên hông trái, có tháp bút cao nhất (47m) và cổ kính nhất ở Roma bằng đá hoa cương đỏ của Ai Cập có từ thế kỷ 14 trước Chúa KiTô. Là Mẹ của các nhà thờ và là nhà thờ chánh tòa của giáo phận Roma, đền thờ Thánh Gioan ở Laterano nhắc nhở các tín hữu “hồng ân rửa tội” với tất cả ý nghĩa của ơn này và mời gọi các tín hữu cảm tạ Thiên Chúa bằng chính cuộc sống xứng đáng là con cái Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô
Bốn mươi sáu năm, gần một nửa thế kỷ để xây dựng Đền Thờ Giê-ra-sa-lem,– quả là một công trình vĩ đại và đáng tự hào. Nhưng giá trị của Đền Thờ không hệ tại ở tính cách qui mô của công trình mà là Đấng ngự trong Đền Thờ. Chính Đấng ấy làm cho mọi công trình trở nên Đền Thờ; nhưng nếu như sự tôn nghiêm thánh thiện mà mất đi thì cái gọi là “đền thờ” sẽ chẳng khác gì cái chợ hoặc hang ổ bọn cướp. Thế nên, với Chúa Giê-su, những nơi gọi là Đền Thờ mà không xứng đáng, thì thà phá đi để xây dựng lại còn hơn. Bởi Thiên Chúa cần lòng nhân chứ không phải lễ tế. Ngài có thể hiện diện ở bất cứ nơi đâu, thậm chí là hang bò lừa, nhưng nơi Ngài ngự phải là nơi thánh.
Qua trang Tin Mừng chúng ta vừa nghe, thánh Gioan đã cho chúng ta thấy Chúa Giêsu giận dữ vì những người khác đã biến đền thờ trở nên nơi buôn bán, đổi chác, v.v. Hay nói cách khác là họ đã “mại thánh”. Chúa Giêsu không chấp nhận những hành động trên, nên Người đã làm “cuộc cải cách” để trả lại ý nghĩa thiêng liêng đích thực của việc tôn thờ Thiên Chúa ngự trong đền thờ: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”.
Bên cạnh đó, Người còn cho chúng ta thấy đền thờ đích thực đó chính là thân thể Người: “Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại”. Đền thờ mà Chúa Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người.
Từ những lời dạy của Chúa Giêsu trên, mỗi người chúng ta cần ý thức lại thân xác của chúng ta cũng chính là đền thờ để cho Thiên Chúa ngự. Vì, qua bí tích Rửa tội, chúng ta được trở nên đền thờ cho Thiên Chúa ngự, như lời thánh Phaolô đã nói: “Hay anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là đền thờ của Thánh Thần sao”.
Một khi đã ý thức thân xác chúng ta là đền thờ của Chúa, chúng ta cần luôn biết giữ gìn sự thánh thiêng của thân xác mình; đừng dùng thân xác của chúng ta để buôn bán, vui chơi, hay là đồ vật thỏa thích cho người khác mà quên mất tính linh thánh thân xác của mình được chính Chúa Giêsu cứu chuộc bằng chính giá máu của Người.
Kỷ niệm ngày cung hiến Vương cung thánh đường Latêranô là dịp suy nghĩ về đền thờ đích thực, là chính thân thể Chúa Giêsu Kitô (Ga 2,21). Chính nơi đền thờ này, Thiên Chúa đã thi thố tất cả quyền năng cứu độ nhân loại. Cũng chính nơi đền thờ này sự thờ phượng đích thực mới được dâng lên Thiên Chúa. Quả thế, Thánh Linh đã phục sinh thân thể Chúa Giêsu. Chúa Cha đã đặt Người làm Trung gian duy nhất để chuyển cầu cho nhân loại (2 Tm 2:5; Dt 9:15; 12:24).
Tất cả mọi giá trị và ý nghĩa của vương cung thánh đường Latêranô cũng như mọi thánh đường khác đều phải bắt nguồn từ đền thờ này. Thật vậy, “không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Đức Giêsu Kitô.” (1Cr 3,11). Máu và nước từ cạnh sườn Chúa Giêsu tuôn chảy như giòng sông. “Sông này chảy đến đâu, thì ở đó có sự sống.” (Ed 47,9). Người được phúc đón nhận sự sống đó là Kitô hữu. Vì họ là “thân thể Đức Kitô.” (2 Cr 12, 27). Bởi đó, họ cũng là “Đền Thờ của Thiên Chúa.” (1 Cr 3,16).
Qua Bí tích Rửa tội, chúng ta đã cùng chết với Chúa Ki-tô, để được sống lại với Ngài. Đó là cách thế Ngài tái thiết Đền Thờ cho ta. Nhưng sẽ thật là uổng phí, nếu công trình được chuộc bằng giá máu của Con Thiên Chúa lại biến thành nơi buôn bán hoặc hang ổ của bọn cướp!