2022
Tin tưởng vào Chúa
6.12 Thứ Ba trong tuần thứ Hai Mùa Vọng
Is 40:1-11; Tv 96:1-2,3,10,11-12,13; Mt 18:12-14
Tin tưởng vào Chúa
Chúng ta đang sống trong tâm tình của mùa hy vọng và đợi chờ. Không mang nét ảm đạm của muà chay, mùa vọng bao giờ cũng thế, những ca khúc Giáng sinh vui tươi đã râm ran khắp nơi. Bầu khí thêm rộn ràng với những gian hàng trưng bán thiệp Noel, đèn ông sao, dây điện màu, dây kim tuyến lấp lánh đủ sắc màu … và những hang đá muôn vẻ. Chúng ta có lý do để vui mừng và hy vọng, vì kỷ niệm một vị Vua, vị Cứu tinh đã sinh ra cho chúng ta – không như biết bao bậc Quân vương khác đến cai trị bằng sức mạnh của vương quyền, thống lĩnh bằng gươm đao chinh chiến – Ngài là “Người cha nhân hậu, ông vua thái bình” ; Người là vị mục tử nhân lành chăn dắt đoàn chiên nơi đồng cỏ xanh tươi, bến nước trong lành và không để “mất bất cứ con chiên nào” (Ed 34, 13-14).
Chúa Giêsu không sánh mình với bất kỳ hình ảnh vua Chúa trần gian nào, nhưng Người dùng những hình ảnh bình dị để nói lên tình yêu thương của Thiên Chúa dành cho con người để áp dụng cho chính Người: như “gà mẹ ấp ủ gà con dưới cánh” (x. Lc 13, 34), người “chăn chiên tốt lành biết chiên của mình” (Ga 10, 13 – 14); đặc biệt dụ ngôn người mục tử tìm con chiên lạc hôm nay đã làm nổi bật hình ảnh của vị Thiên Chúa mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en loan báo: “Quả thật, Đứa Chúa là Chúa Thượng phán thế này : Đây, chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm.
Như mục tử kiểm điểm đàn vật của mình vào ngày nó ở giữa đàn chiên bị tản mác thế nào, thì Ta cũng sẽ kiểm điểm chiên của Ta như vậy. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi mọi nơi chúng đã bị tản mác, vào ngày mây đen mù mịt. Ta sẽ đem chúng ra khỏi các dân, tập hợp chúng lại từ các nước và đưa chúng vào đất của chúng. Ta sẽ chăn dắt chúng trên các núi Ít-ra-en, trong các thung lũng và tại mọi nơi trong xứ có thể ở được. Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi và chuồng của chúng sẽ ở trên các núi cao Ít-ra-en.
Tại đó chúng sẽ nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong đồng cỏ mầu mỡ trên núi non Ít-ra-en. Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ – sấm ngôn của Đức Chúa là Chúa Thượng. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng.” (Ed 34, 11 -16). Và Ngài cũng chính là vị mục tử mà Bài đọc I, sách ngôn sứ Isaia nói tới hôm nay:
“Kìa Thiên Chúa các ngươi!”
Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa,
tập trung cả đoàn dưới cánh tay.
Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng,
bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt. (Is 40, 11)
Hình ảnh Thiên Chúa – Người Mục tử nhân hậu, mà Chúa Giêsu là hiện thân còn được Người diễn tả rõ nét trong Tin mừng Gio-an chương 10, 7 – 18: “Vậy, Chúa Giêsu lại nói : “Thật, tôi bảo thật các ông : “…Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên. Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.”
Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử. Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được.”
Chúa Giêsu Là vị mục tử nhân lành, còn con chiên lạc thì sao? Tại sao nó lại bị lạc? Phải chăng nó đang mải mê thú gặm cỏ mà quên mất đàn bầy; Hay nó thích chạy chơi chốn lạ, rời đàn bầy mà quên mất đường về; hoặc nó đã bị sẩy chân sa hố?… Dù sao trong bất cứ hoàn cảnh nào, nó cũng là con chiên đang bị gặp hiểm nguy: thú dữ rình chực xé xác, bị thương tích cần được cứu chữa. Người chủ chiên nhân lành, yêu chiên như con; lòng lo lắng vô hạn, ông để chín mươi chín con ở lại, quên cả bản thân, tất tả, rong ruổi tìm con chiên lạc, bất chấp núi cao vực thẳm, đường đá lởm chởm, gập ghềnh…
Càng gian khổ bao nhiêu, khi gặp lại lòng càng vui mừng bấy nhiêu – “Người chủ vác chiên trên vai trở về khoe với bạn bè” (Lc 15, 5 – 6) – Ông yêu chiên biết là ngần nào! Hình ảnh diễn tả tình yêu Thiên Chúa dành cho “kẻ bé mọn” (tội nhân) thật xúc động. Thế nhưng con người vẫn mải mê chạy theo lạc thú, đam mê trần tục, lao vào những cám dỗ hiểm nguy, có biết đâu rằng Chúa vẫn kiên nhẫn rong ruổi kiếm tìm, “Ngài không muốn một con chiên nào của Ngài phải hư mất” (c. 14)
Hình ảnh Thiên Chúa – Chúa Giêsu Ki-tô – Mục tử nhân lành là mẫu gương cách riêng cho các mục tử, nhưng cũng là tấm gương cho từng người chúng ta. Chúng ta có cách cư xử thế nào đối với những người anh em “bé nhỏ” về nhiều mặt của cuộc đời – khinh khi, không quan tâm, loại trừ hay động lòng nhân hậu xót thương, giúp đỡ, cầu nguyện…? Mỗi người chúng ta cũng có những người thuộc về mình để mà quan tâm săn sóc, chúng ta đã hết mình trong bổn phận chưa hay chúng ta chỉ tà tà chủ chương ‘măc-kê-no’, thân ai nấy lo, đèn ai nấy rạng? Mùa vọng về, chúng ta đừng để cho những rộn ràng bên ngoài làm lóa mắt và chỉ nghĩ đến những vui chơi, phù phiếm, nhưng biết dừng lại, chìm lắng lòng mình để suy nghĩ – suy nghĩ về mục đích, ơn cứu độ đời mình; đồng thời nuôi niềm hy vọng – hy vọng, tin tưởng vào tình yêu của Thiên Chúa, hy vọng về ơn chữa lành, hy vọng vào một ngày mai tốt đẹp hơn hôm nay!
2022
Lòng tin
5.12 Thứ Hai trong tuần thứ Hai Mùa Vọng
Is 35:1-10; Tv 85:9-10,11-12,13-14; Lc 5:17-26
Lòng tin
Ghen ăn tức ở hay không ăn được thì đạp đổ vốn là thói xấu thường trực trong xã hội mọi thời. Bởi vậy, chúng ta không lạ gì vào thời Chúa Giêsu, tình trạng này lại càng rõ nét nơi những người Pharisiêu và các Luật sĩ khi họ thấy Chúa Giêsu được lòng dân và uy tín của Ngài ngày càng lan rộng. Vì thế, họ sinh ra căm phẫn và tức tối, nên muốn loại bỏ Chúa Giêsu ra khỏi cuộc sống và xã hội.
Tuy nhiên, họ khó lòng kết tội cho Chúa Giêsu khi Ngài làm việc thiện, việc tốt hay đứng lên bảo vệ công lý, công bình, giúp đỡ người nghèo, người không nơi nương tựa…. Bởi lẽ, nếu họ chống đối ra mặt những việc Đức Giêsu đã làm trên thì họ sẽ bị dân chúng phản đối và đương nhiên, khuôn mặt giả hình nhân đức của họ bị bại lộ. Như thế, hoàn toàn không có lợi cho bản thân và mưu kế của những người này. Chỉ có một cách là họ ghép Chúa Giêsu vào tội lộng ngôn hay phản động thì sẽ dễ dàng hơn.
Thiên Chúa tình yêu vẫn luôn hiện diện sống động ngay trong thế giới hôm nay, qua mỗi con người và từng biến cố hay qua các dấu chỉ thời đại. Thế nhưng có mấy người biết nhìn ra sự hiện diện thân thương của Ngài.
Chúa Giêsu là hiện thân của Chúa Cha, Ngài đến trần gian để thi thố lòng thương xót của Thiên Chúa cho con người. Lời giảng dạy kèm theo các phép lạ Chúa làm đã chứng minh quyền năng Thiên Chúa luôn ở với Ngài.
Đang lúc Chúa Giêsu ngồi giảng dạy trong nhà, người ta khiêng một người bất toại đến. Vì dân chúng quá đông, họ không khiêng vào được đã dỡ ngói mái nhà rồi thòng chiếc chõng người bệnh xuống trước mặt Người. Chúa thấy họ có lòng tin mạnh mẽ như thế nên nói với người bệnh: “Này anh, anh đã được tha tội rồi”. Nhóm biệt phái và luật sĩ không tin nhận Người là Thiên Chúa nên cho lời nói đó là phạm thượng, vì chỉ có mình Thiên Chúa mới có quyền tha tội. Để chứng tỏ mình là Thiên Chúa có quyền tha tội. Chúa bảo người bất toại trỗi dậy vác giường mà về, tức thì anh trỗi dậy vác chõng ra về trước sự kinh ngạc của mọi người.
Bệnh bất toại hay bại liệt thường do đứt hay tắc mạch máu não do những chứng áp huyết cao, đau màng óc, chấn thương sọ não, sưng bướu óc, sưng cơ tim, kinh phong hay do vi khuẩn phá huỷ tuỷ sống. Y học ngày nay có thể giải phẫu để nối mạch máu, lấy bướu máu, chạy điện trị liệu vật lý để chữa bệnh tê liệt nhẹ. Đối với chứng bất toại nặng thì khoa học hoàn toàn bất lực. Hiện nay có nhiều người bán thân bất toại hay bất toại hoàn toàn chỉ còn chờ chết thôi.
Chúa Giêsu cũng tỏ lòng trắc ẩn đối với những bệnh nhân ấy, nên đã chữa lành cho một người bị bại liệt. Nhưng cách chữa bệnh của Ngài hôm nay hơi khác thường: thay vì chữa bệnh như thường lệ, Ngài lại tha tội cho bệnh nhân trước rồi mới chữa bệnh sau. Việc làm này khiến các luật sĩ và biệt phái rất tức giận.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu làm như thế là ngầm bảo họ rằng: Ngài có quyền tha tội vì Ngài là Thiên Chúa. Việc làm này cũng nhắc nhở chúng ta phải chữa bệnh bại liệt tâm hồn. Phải chú trọng đến sức khỏe phần hồn hơn phần xác.
Ai cũng biết bại liệt là bất lực, vừa là nỗi khổ cho chính mình vừa là gánh nặng cho thân nhân. Chắc chắn Chúa Giêsu thấy nơi người bại liệt nỗi đau khổ về thể xác. Nhưng tại sao câu đầu tiên Ngài nói với anh ta là lời tha tội ? Anh ta có tội gì chăng nên mới bị bại liệt như vậy ? Người Do thái vẫn có quan niệm như thế: bệnh tật là hậu quả của tội lỗi. Ai mắc bệnh là người có tội, trường hợp của ông Gióp đã nói lên điều đó. Bệnh càng nặng tức là lỗi càng nhiều, và càng nặng thì bệnh càng phát ra bên ngoài tương xứng.
Chắc chắn là Chúa Giêsu không đồng ý với quan niệm này. Nhưng chỉ sau này người ta mới tìm ra mầu nhiệm của đau khổ và bệnh tật. Tội lỗi và bệnh tật là hai vấn đề riêng biệt, không liên can gì với nhau; bởi vì có người vừa có bệnh vừa có tội, có người bệnh mà không có tội, có người có tội mà không bệnh. Cho nên khi Chúa nói: “Tội con được tha rồi” là Chúa muốn minh chứng Ngài là Thiên Chúa, Ngài có quyền tha tội.
Hành động của những người thân của người bại liệt đáng để mỗi Kitô hữu suy nghĩ trong Mùa Vọng này. Họ yêu thương người thân của mình, dù con người ấy không có khả năng hoạt động. Họ tìm cách cứu chữa, không thất vọng, mà công việc ấy chẳng phải dễ dàng. Đám đông không còn là trở ngại không thể vượt qua, bởi tình yêu giúp họ thêm sáng kiến, mở lối đưa người thân của mình đến cùng Đấng chữa lành. Dĩ nhiên, Chúa vẫn luôn đòi hỏi người được chữa lành phải có đức tin. Nhưng ở đây, đức tin của những người thân và sự phục vụ đầy yêu thương của họ nâng đỡ đức tin yếu ớt và làm sống lại niềm hy vọng nơi con người bị bệnh tật chôn vùi trong nhiều năm tháng. Những người thân của anh đã giúp anh gặp lại được Chúa Giêsu.
Qua phép lạ này, chúng ta thấy Chúa thường đáp lại lòng tin và lòng bác ái của người đến kêu xin như Ngài thường nói: “Đức tin của con đã chữa con”. Hôm nay chúng ta phải chân nhận rằng: những người khiêng người bại liệt có lòng tin sâu sắc, lòng tin ấy được biểu lộ qua lòng bác ái chân thật, một tình thương sáng ngời, những việc làm của họ có sức lay động cả trái tim của Chúa Giêsu. Và kết quả hết sức tốt đẹp như Tin mừng hôm nay đã trình bày cho thấy.
2022
Lên đường truyền giáo
3.12. Thánh Phanxicô Xaviê, Lm
Is 30:19-21,23-26; Tv 147:1-2,3-4,5-6; Mt 9:35; Mt 10:1,6-8
Lên đường truyền giáo
Thánh Phanxicô Xaviê sinh năm 1506 tại lâu đài Xaviê trong một gia đình quyền quý của Vương quốc Navarre nhỏ bé miền Bắc nước Tây ban Nha ngày nay. Khi Ngài 5 tuổi, nước Tây ban Nha thôn tính và sát nhập Navarre khiến gia đình Ngài lâm cảnh nước mất nhà tan. Muốn tiến thân bằng con đường trí thức, năm 17 tuổi Ngài đến Paris học (1525-1536).
Tại Paris Ngài sống trong cùng một căn phòng với chân phước Favre, và sau đó với Thánh Ignatio. Lần lượt Phêrô Favre rồi Phanxicô Xaviê được thánh Ignatio thu phục. Năm 28 tuổi, ngài cùng với nhóm bạn của Thánh Ignatio khấn sống khó nghèo, khiết tịnh và làm việc tông đồ. Năm 31 tuổi ngài chịu chức Linh mục tại Venezia miền Bắc nước Ý. Năm 35 tuổi ngài xuống tàu đi truyền giáo ở vùng Đông Á theo lệnh Đức Thánh Cha Phaolô III.
Tháng 4 năm 1541 ngài xuống tàu tại Lisbon và mãi 14 tháng sau mới đến được Goa bên Ấn Độ. Trong suốt 10 năm truyền giáo (1542-1552) ngài đã đi cả trăm ngàn cây số. Trong 7 năm đầu, ngài truyền giáo ở vùng Mũi Cormorin, sau đó ở Ceylan, Malaisia và từ đó đến Inđônêsia. Là vị Giám mục đầu tiên của Tỉnh Dòng đầu tiên ngoài Châu Âu, ngài yêu mến và gắn bó keo sơn với Chúa Giêsu, tha thiết với Dòng và anh em trong Dòng, kính trọng và tuân phục Thánh Ignatio, nhiệt thành lạ lùng với việc tông đồ. Ngài đã rửa tội cho hàng trăm ngàn tân tòng và gầy dựng nhiều cộng đoàn tín hữu khắp nơi. Thành quả tông đồ của ngài đã tạo nên một đỉnh cao trong lịch sử truyền giáo của Hội Thánh.
Trong vòng 2 năm (1549-1551) ngài đã thành lập một cộng đoàn tín hữu ở Nhật Bản; trước khi ra đi, ngài trao lại cho một Linh mục Bồ đào Nha; 20 năm sau, cộng đoàn này đã lên đến 30 ngàn người. Cuối cùng vì muốn vào Trung Hoa truyền đạo, ngài đã đến đảo Thượng Xuyên ngay cửa khẩu Quảng Châu, để chờ thuyền lén lút đưa ngài vào Trung quốc. Tiếc rằng tại đây ngài ngã bệnh và qua đời trong một chòi tranh chỉ có anh thanh niên trẻ thông dịch viên bên cạnh. Vài tuần lễ sau, người ta từ Goa đến tìm xác ngài, đem về Goa để chôn cất.
Thánh Phanxicô qua đời ngày 3.12.1552, được Đức Thánh Cha Grêgôriô XV phong thánh cùng với thánh Ignatio vào năm 1622 và được đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo.
Thánh Phanxicô Xaviê là vị truyền giáo vĩ đại, người tiên phong cho cuộc truyền giáo thời mới. Ngài hòa nhập vào dân mà ngài muốn mang Tin Mừng đến; ngài sống nghèo với những người lao động. Ngài hoạt động thật năng nổ cho cuộc truyền đạo và kích thích được tinh thần này ở Âu Châu. Hàng nghìn người đã theo gương ngài để mang Tin Mừng đi muôn phương.
Trong suốt 10 năm truyền giáo (1542-1552) ngài đã đi cả trăm ngàn cây số. Là vị Giám mục đầu tiên của Tỉnh Dòng đầu tiên ngoài Châu Âu, ngài yêu mến và gắn bó keo sơn với Chúa Giêsu, tha thiết với Dòng và anh em trong Dòng, kính trọng và tuân phục Thánh Ignatio, nhiệt thành lạ lùng với việc tông đồ. Ngài đã rửa tội cho hàng trăm ngàn tân tòng và gầy dựng nhiều cộng đoàn tín hữu khắp nơi. Thành quả tông đồ của ngài đã tạo nên một đỉnh cao trong lịch sử truyền giáo của Hội Thánh.
Trong vòng 2 năm (1549-1551) ngài đã thành lập một cộng đoàn tín hữu ở Nhật Bản. Ngài ước mong đem Tin Mừng và Giáo lý của Chúa Giêsu cho một dân tộc đông dân nhất thế giới. Ước mơ của ngài chưa thể thực hiện thì ngày 02/12/1552, ngài qua đời khi trên đường gần tới nước Trung Hoa. Xác thánh nhân được đem về an táng tại thành Goa nước Ấn Ðộ. Năm 1622, Ðức thánh cha Grêgoriô XV đã phong Ngài lên bậc hiển thánh và đến năm 1904, Ðức Giáo Hoàng Piô X đã đặt Ngài làm quan thầy các xứ truyền giáo.
Thánh Phanxicô Xaviê là vị truyền giáo vĩ đại, người tiên phong cho cuộc truyền giáo thời mới. Ngài hòa nhập vào dân mà ngài muốn mang Tin Mừng đến; ngài sống nghèo với những người lao động. Ngài hoạt động thật năng nổ cho cuộc truyền đạo và hàng nghìn người đã theo gương ngài để mang Tin Mừng đi muôn phương.
Với những lao nhọc và thành quả truyền giáo phi thường, thánh Phanxicô được coi là một trong những nhà truyền giáo vĩ đại nhất trong lịch sử Hội Thánh, chỉ sau thánh Phaolô. Đối với Dòng Tên, ngài là nhà truyền giáo đầu tiên và số một; ngài được tuyên thánh năm 1622, và được Hội Thánh đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo. Thánh Phanxicô đã sống chính Lời Chúa dạy: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”.
Trước khi Chúa Kitô phục sinh sai các tông đồ đi loan báo Tin Mừng bằng những lời như trên, Chúa đã khiển trách các tông đồ đã không tin và cứng lòng đối với lời chứng của các chứng nhân: “Người tỏ mình ra cho chính Nhóm Mười Một đang khi các ông dùng bữa. Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy”.
Như thế, Chúa rất coi trọng việc chúng ta làm chứng cho nhau, lời của người khác nói về Chúa cho chúng ta, lời chứng của chúng ta nói về Chúa cho người khác đều cần thiết để mang lại đức tin cho mỗi người.
Trước khi trở thành chứng nhân, chúng ta được mời gọi mở lòng ra để lắng nghe các chứng nhân. Trường hợp các tông đồ cũng thế, trước khi các ngài trở thành chứng nhân của Chúa phục sinh, chính các ngài cũng phải lắng nghe bà Maria Mađalêna, khi bà thuật lại việc bà nhìn thấy Chúa phục sinh.
Noi gương thánh Phanxicô, chúng ta hãy trở thành những chứng nhân của Chúa. Chúng ta đã được nghe nhiều từ biết bao nhiêu lời giảng dạy của Hội Thánh. Đến lược mình, chúng ta không có quyền thụ động, nhưng phải chủ động lên đường, sẵn sàng nói về Chúa mọi nơi, mọi lúc, suốt đời mình như thánh Phanxicô vậy.
2022
Mù lòng Tin
2.12. Thứ Sáu trong tuần thứ Nhất Mùa Vọng
Is 29:17-24; Tv 27:1,4,13-14; Mt 9:27-31
Mù lòng Tin
Tin Mừng hôm nay tường thuật về một phép lạ: Chúa Giêsu chữa lành cho hai người mù, sau khi họ thưa lên cùng Ngài rằng: “Lạy Con vua Đavit, xin thương xót chúng tôi”, Theo như đoạn Kinh Thánh mà thánh sử Matthêu diễn tả thì, Chúa Giêsu chưa thực hiện ngay lời kêu xin của hai anh mù, mà các anh còn phải đi theo Ngài đến lúc về đến nhà, đoạn đường đi theo Chúa của hai anh mù là bao xa chúng ta không rõ, nhưng có một điều rõ ràng là hai anh mù đã phải đi theo Chúa về đến nhà.
Lúc này Chúa Giêsu mới hỏi: “Các anh có tin tôi làm được điều đó không?” Họ đáp: “Thưa Ngài chúng con tin”. Bấy giờ Chúa Giêsu mới chữa lành cho họ qua cử chỉ sờ tay vào mắt họ. Có một điều đáng ngạc nhiên nữa là: tuy hai anh mù không nhìn thấy Chúa bằng mắt thường nhưng hai anh biết Chúa Giêsu đi đến, và sau khi nói lên lời cầu xin, hai anh còn bước đi theo Ngài. Như vậy thì một câu hỏi được đặt ra; Tại sao hai anh mù không nhìn thấy Chúa Giêsu đến mà tiến lại kêu xin. Câu trả lời chỉ có thể rằng; “nhờ con mắt đức tin” mà các anh đã nhìn thấy Chúa. Chính con mắt đức tin ấy đã dẫn đường cho hai anh đến với Chúa và cũng do lòng tin ấy Chúa Giêsu đã chữa lành cho các anh.
Số phận người mù thật bi đát, họ nghe mà không biết sự vật chung quang thế nào. Họ phải sống trong cô đơn. Cảm nghiệm được nỗi bất hạnh của mình, hai người mù vừa lẽo đẽo theo Đức Giêsu vừa van xin Ngài: “Lạy Con vua Đavít, xin thương xót chúng tôi”. Ý thức được nỗi khốn cùng của mình là bước khởi đầu nền tảng để đáng được Thiên Chúa xót thương. Càng thấy mình bất lực, chúng ta càng phải cậy dựa vào Thiên Chúa. Điều quan trọng là chúng ta có biết bám chặt vào Chúa và xin Chúa chữa lành tâm hồn chúng ta không ?
Hiện nay trên thế giới có nhiều người mù. Người mù ở Việt Nam thường sống bằng cách đi ăn xin. Trong Kinh thánh, người mù là hình tượng của những con người sống trong sự đói nghèo, bị xã hội và ngay cả gia đình bỏ rơi.
Có nhiều loại mù: mù lòa, mù chữ, mù văn chương, mù vi tính… nhưng mù không nhận ra Chúa là ánh sáng có lẽ là tai hại hơn cả. Người mù đã dùng đức tin mà đi tới Ánh Sáng thật. Hay nói cách khác, có một cách lần tới ánh sáng một cách thần diệu, đó là đức tin.
Mù là không thấy và vì không thấy nên không biết hay biết một cách phiến diện, biết không đầy đủ. Cái mù thể xác đã khốn khổ như thế, nhưng còn một loại mù còn khốn khổ hơn nữa. Người ta gọi đó là mù tâm linh, mù không dám nhìn, không dám nhận sự thật. Đây là thứ mù thường xảy ra nhất trong đời sống con người.
Đúng thế, không dám nhận ra sự thật cũng là một bệnh mù. Bệnh này rất nguy hiểm, nó thường bộc phát và lây lan nhanh. Nguyên nhân của căn bệnh này là tính kiêu ngạo, một loại vi trùng rất khó trị và thường gây ra những hậu quả rất tai hại cho những người mắc thứ bệnh này.
Tính tự phụ và kiêu căng thường dẫn đến sự mù quáng, không nhìn ra sự thật. Do đó, Lon Jacob đã sáng tác ra câu truyện ngụ ngôn: Con sư tử đến hỏi con tê giác: “Ai là chúa tể khu rừng này ?” Con tê giác đáp: “Là sư tử chứ ai”. Sung sướng quá, sư tử đến hỏi con hà mã: “Ai là chúa tể khu rừng này ?” Và hà mã cũng trả lời: “Là sư tử chứ ai”. Sư tử lại đến hỏi con voi: “Ai là chúa tể khu rừng này ?” Voi chẳng nói chẳng rằng, dùng vòi túm lấy sư tử, quăng nó lên trời. Khi rơi xuống đất, con sư tử choáng váng mặt mày, mình mẩy ê ẩm, nhưng cũng ráng nói vớt vát: “Vì ngu quá chẳng biết trả lời nổi câu hỏi của ta, nên ta không thèm ăn thua với mi”.
Hai người mù trong bài Tin mừng hôm nay, mặc dù họ mù hai con mắt thể xác, nhưng trái lại, họ được sáng hai con mắt đức tin, hai con mắt tâm hồn, cho nên họ đã nhận ra Chúa là Đấng con vua Đavít, Đấng Cứu Thế. Họ đã tin Chúa và đã được chữa lành, cho họ được nhìn thấy.
Chúng ta có thể sáng con mắt thể xác, vì chúng ta nhìn thấy rõ ràng những công trình của Chúa qua vũ trụ vạn vật, nhưng chúng ta có khi lại mù con mắt đức tin, vì chúng ta đã không tin vào Chúa qua các dấu chỉ của sự vật, các biến cố, những sự kiện chung quanh để nhận ra ý Chúa mà thực thi.
Chúa Giêsu thấy hai người mù có niềm tin, Ngài muốn họ công khai nói lên niềm tin đó: “Các ngươi có tin rằng: Ta có thể làm việc ấy không ?”
Họ thưa với tất cả niềm xác tín: “Lạy Thầy, có”. Người sờ vào mắt họ và nói: “Các anh tin thế nào thì được như vậy”. Mắt họ liền mở ra. Lời nói vắn tắt của Chúa Giêsu làm cho hai anh mù được sáng. Đức tin làm sáng mắt, đức tin cũng mở mắt tâm hồn, mở ra tất cả…
Mang danh hiệu là Kitô hữu, là người tin vào Chúa Kitô, nhưng nhiều lúc chúng ta chưa sống trọn vẹn niềm tin của mình. Hôm nay, một lần nữa Chúa Giêsu hỏi chúng ta: “Con có tin là Ta làm được điều đó không ?” Xin cho chúng ta xác tín không chỉ trên môi miệng, đáp trả với cả trái tim cho Ngài và để niềm tin tỏa sáng trong cuộc sống.