2022
Đức Giêsu nói gì về Gioan tẩy giả?
15.12 Thứ Năm trong tuần thứ Ba Mùa Vọng
Is 54:1-10; Tv 30:2,4,5-6,11-12,13; Lc 7:24-30
Đức Giêsu nói gì về Gioan tẩy giả?
Một trong những nhân vật được nhắc đến nhiều nhất trong các bài Tin Mừng của Mùa Vọng là thánh Gioan Tẩy giả. Đặc biệt trong bài Tin Mừng hôm nay, vị trí của ngài được Chúa Giêsu nâng lên đến đỉnh điểm bởi lời xác quyết: “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả.” Sở dĩ ngài trở nên cao trọng như vậy là bởi vì ngài đã dành trọn cuộc đời mình để thi hành thánh ý Chúa. Ngài không chỉ là một vị ngôn sứ nhưng còn là người dọn đường để Thiên Chúa đến với con người.
Chúa Giêsu khen ông: ‘trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một người nào cao trọng hơn Gioan’; nhưng lời khen lại bị giới hạn khi Người nói thêm: ‘người nhỏ nhất trong Nước Thiên Chúa lại cao trọng hơn ông!’ Điều Chúa Giêsu muốn nói là gì?
Chúa khen ông phải chăng vì: ‘Toàn thể dân chúng đã nghe ông, cả những người thu thuế đều vâng lời Thiên Chúa, và chịu phép rửa của ông’; nhưng sự giới hạn phải chăng là do: ‘còn những người biệt phái và luật sĩ đã khinh chê ý định của Thiên Chúa, vì họ không chịu để Gioan thanh tẩy cho’. Bản văn trình bày là như thế, nhưng qua sự kiện này giúp chúng ta hiểu Chúa Giêsu hơn như thế nào?
Có lẽ chúng ta xem lại câu trả lời của Chúa Giêsu trong trường hợp: ‘Mẹ và anh em Chúa Giêsu đến gặp Người, mà không làm sao lại gần được, vì dân chúng quá đông. Người ta báo cho Người biết: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, muốn gặp Thầy.” Người đáp lại: “Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành.” (Lc 8,19-21; Mt 12,46 -50; Mc 3,31 -35 ); và trường hợp thứ hai: ‘Khi Chúa Giêsu đang giảng dạy, thì giữa đám đông có một người phụ nữ lên tiếng thưa với Người: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm!”
Nhưng Người đáp lại: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa.” (Lc 11,27-28). Chúng ta dễ có cảm giác ‘chưng hửng’ với những câu nhận định của Chúa Giêsu thuộc loại này! Bởi ai trong chúng ta cũng cùng một quan niệm với lời phát biểu của người phụ nữ về Đức Maria. Không ai chối cãi vị trí độc tôn của Mẹ, nhưng Chúa Giêsu xem ra không đồng tình cho lắm! Bởi thay vì công nhận việc cưu mang và cho Thầy bú mớm là có phúc thì Chúa Giêsu lại lái sang việc ‘lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa’ mới là có phúc. Dĩ nhiên Đức Maria là Người hơn ai hết đã ‘lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa’, có nghĩa Mẹ đã ‘cưu mang Lời Chúa’ trước khi cưu mang ‘Ngôi Lời Nhập Thể’. Cũng vậy, khi Mẹ và anh em Người đến tìm Người thì mọi người rất trân trọng. Bởi người ta ‘tâm phục khẩu phục’ Người bao nhiêu thì hẳn mọi người cũng kiêng nể Mẹ và anh em Người bấy nhiêu! Sự ‘kiêng nể’ phát sinh do ‘dây mơ rễ má’ với Thầy!
Vậy mà Người lại lái sang một mối tương quan khác, tương quan của những người cùng ‘lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành’. Khi chuyển trọng tâm sang một tương quan mới thì không phải Chúa Giêsu có ý phủ nhận những tương quan trước là kém quan trọng. Bởi lịch sử không lặp lại, thì những tương quan trước vẫn giữ vị trí quan trọng của nó; nhưng khi hướng sự chú ý của người nghe sang tương quan mới là Chúa Giêsu mở ra những cơ hội mới cho người nghe được tham dự vào tương quan với Thiên Chúa một cách mật thiết hơn, gắn bó hơn như họ từng ngưỡng phục tương quan giữa Mẹ Maria với Chúa Giêsu cũng như anh em họ hàng với Người.
Tương tự như vậy, khi Chúa Giêsu nhận định sự cao trọng của ông Gioan Tẩy giả: ‘trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một người nào cao trọng hơn Gioan’, đồng thời Người cũng mở ra một sự cao trọng khác cho mọi người: ‘người nhỏ nhất trong Nước Thiên Chúa lại cao trọng hơn ông’. Thật vậy, chính ông được cưu mang trong lúc bà Êlizabét son sẻ già nua! Việc ông nhảy mừng trong bụng mẹ lúc được 6 tháng, khi đặt tên cho ông thì Giacaria, bố ông hết câm!
Ông là tiếng kêu trong hoang địa như tiên tri Isaia đã loan báo, ông mặc áo lông Lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú, ăn châu chấu và uống mật ong rừng. Ông rao giảng, làm phép rửa, bị tù đầy và bị chặt đầu trong bữa tiệc vui. Ông là Êlia phải đến trước. Ông là kết tinh của Cựu Ước, là người đã chỉ vào Chúa Giêsu mà giới thiệu: ‘đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng gánh tội trần gian’. Vì thế, trong số con cái người nữ sinh ra, chưa từng có ai cao trọng hơn ông! Nhưng không phải vì thế mà ông chặn lối tiến đức của người khác. Bởi ‘người nhỏ nhất trong Nước Thiên Chúa lại cao trọng hơn ông’. Vậy ai muốn như ông hay hơn ông thì hãy làm người nhỏ nhất trong Nước Trời.
Chúa đã sai thánh Gioan Tiền Hô làm sứ giả đi trước để dọn đường cho Chúa. Rất nhiều người Do Thái đã nhìn thấy Ngài, gặp gỡ Ngài, nghe Ngài rao giảng. Có nhiều người đã nhận ra Ngài là ngôn sứ và thống hối theo lời Ngài mời gọi. Nhưng cũng có nhiều kẻ cứng lòng không thấy được gì, chẳng nghe được gì.
Thánh Gioan quả xứng đáng với lời khen ngợi của Chúa Giêsu và đáng cho mỗi người chúng ta noi gương bắt chước. Tuy nhiên, ngài cũng chỉ là người ngôn sứ, người dọn đường và là con đường để dẫn chúng ta đến Thiên Chúa chứ không phải là cùng đích của mỗi chúng ta. Chúa Giêsu muốn chúng ta phải hoàn tất chính mình không phải vì những vinh dự trần thế nhưng là phần thưởng lớn lao trên trời.
2022
ĐẤNG PHẢI ĐẾN
14.12 Thánh Gioan Thánh Giá, Lmts
Is 45:6-8,18,21-25; Tv 85:9-10,11-12,13-14; Lc 7:18-23
ĐẤNG PHẢI ĐẾN
Ông Gioan Tẩy Giả từng là chuyên viên quảng cáo, giới thiệu, dọn đường, rao giảng về Đấng Cứu Thế. Nhưng cuối cùng vì công lý ông phải vào tù. Ngồi trong tù nhưng “con người Gioan” vẫn không thể yên, ông vẫn như nghe ngóng từng bước chân và hành động của Thầy. Ngồi trong tù ông có thời giờ ngẫm nghĩ lại và so sánh lời giảng của mình với thực tế. Phải chăng thời kỳ ở tù lâu dài với đau khổ làm ông mệt mỏi chán chường, thất vọng về Thầy? Sao vẫn chưa thấy Đấng Cứu Thế vùng lên để giải thoát dân như ông từng rao giảng, bằng uy quyền như dân Do Thái vẫn quan niệm về Ngài?
Mở đầu bài tin Mừng là câu nói của Gioan Tiền Hô “ Thầy có thật là Đấng Phải Đến hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (19). Dấu chấm hỏi trong đầu Gioan. Gioan xác định Đấng Phải Đến là Đấng Mêsia, Đấng muôn dân đặc biệt là người Do Thái đang trông chờ. “Thày có thật là Đấng ấy không?”: Có lẽ Gioan cũng thấm nhiễm tinh thần do thái khi cho rằng Đấng Mêsia sẽ xuất hiện trong vinh quang sáng lạn, trong uy quyền rực rỡ, vì thế ông không xác tín lắm, nên sai môn đệ của mình tới thẩm vấn Chúa Giêsu. Với câu 20 là dấu chấm hỏi của môn đệ Gioan được lập lại y như thầy của mình. Gioan và môn đệ ông khao khát mong chờ Đấng Cứu Thế. Họ xin Chúa 2 điều: thứ nhất, xin xác nhận Người có phải là Đấng Phải Đến mà họ đang trông đợi? Thứ 2: Nếu Người không phải là Đấng ấy, thì nói cho họ biết, họ phải đợi ai?
Đây là sự khao khát kiếm tìm chân lý. Ngay lúc đó, Chúa Giêsu đang chữa bệnh. Ngài chữa lành mọi thứ bệnh tật trong thể xác và trong tâm hồn. Ngài xua trừ ma quỷ, tháo gỡ xiềng xích trói buộc của Satan nơi con người và ban ơn cho nhiều người nhận ra ơn cứu độ đã đến (21) trong hình ảnh mở mắt người mù. Những việc làm của Chúa chứng minh và trả lời cho vấn nạn của Gioan và môn đệ ông đang thắc mắc. Khi thấy họ khao khát kiếm tìm chân lý, Người bèn trả lời họ như trả lời về danh phận của mình “ Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù được thấy, kẻ què được đi, người mù được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại và kẻ nghèo được nghe Tin Mừng ” (22).
Đây là sứ mệnh của Đấng Mêsia – Đấng đến từ Thiên Chúa – Đấng vì yêu nhân loại và đã đến để cứu rỗi nhân loại. Đấng đã nhập thế, nhập thể. Người sống kiếp phàm nhân và nên giống con người về mọi phương diện ngoại trừ tội lỗi. Đấng đến cứu chữa những gì đã hư mất và quy tụ con cái Chúa tản mác khắp nơi về một mối – Đấng xoa dịu và chữa lành thương tích nơi thân xác và trong tâm hồn con người _ Đấng trả lại sự sống mà xưa kia Adam – Eva đã đánh mất trong vườn địa đàng – Đấng dẫn con người vào nguồn hạnh phúc của Thiên Chúa Ba Ngôi. Người không phải là Đấng Mêsia trong khía cạnh thẩm phán xét xử, đánh phạt. Người không là Đấng đến để trút cơn thịnh nộ của Thiên Chúa trên con người. Người đến không chỉ chữa lành nhưng còn tha tội.
Chính lúc hai ông đến hỏi thì Chúa Giêsu đang chữa nhiều người khỏi bệnh hoạn tật nguyền, khỏi quỉ ám và cho nhiều người mù được thấy. Người trả lời luôn và dặn các ông đem tin tức mắt thấy tai nghe này về cho Gioan để minh chứng: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe tin mừng” (Lc 7,22). Những việc Người làm này là dấu chứng tỏ một Đấng Cứu Thế mà ngôn sứ Isaia từng loan báo. Người muốn cho Gioan và môn đệ ông nhận ra dấu chỉ thực sự của Đấng Thiên sai với những việc làm cụ thể, mà chính các ông đã được mắt thấy tai nghe hôm nay. Ngài đã thi hành sứ vụ cứu con người khỏi tội lỗi, khỏi ách thống trị của Satan và gông cùm sự chết, để đưa con người đến cùng Thiên Chúa là Cha đầy tình yêu thương xót.
Gio-an Tẩy Giả được sai đến để làm Tiền Hô cho Đức Ki-tô. Ông đã nhận ra Ngài bên giòng sông Gio-đan, đã giới thiệu cho dân chúng rằng Ngài là “Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá bỏ tội trần gian” (Ga 1,29).
Thế nhưng, giờ đây Gioan đang ngồi tù, niềm tin của các môn đệ ông hẳn đang lung lay. Bởi thế, ông đã sai hai môn đệ đến hỏi Chúa Giê-su: “Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?” Một thắc mắc cần thiết nói lên tâm tư của Gio-an và niềm mong mỏi của các môn đệ ông và bao người đương thời, để hiểu rõ hơn, chắc chắn hơn về Đức Ki-tô và sứ mạng cứu thế của Ngài. Đáp lại, Chúa Giêsu không trả lời họ rằng có hay không. Chúa mời gọi họ trở về thuật lại việc Ngài chữa lành nhiều bệnh hoạn tật nguyền mà họ đã mắt thấy tai nghe, để chứng thực rằng đó là những hành vi cứu độ của Đấng Cứu Thế mà ngôn sứ I-sai-a đã tiên báo, nay đang được hiện thực nơi Ngài.
Trang Tin Mừng kết thúc bằng một mối phúc “Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi” (23). Thật hạnh phúc cho ai chấp nhận Chúa Giêsu trong vai trò Đấng Mêsia với cách thức như Người là: cứu độ chứ không xét xử. Chính Chúa đến ban tặng ơn cứu độ, nhưng cách thức biểu lộ tình thương ấy đã gây vấp ngã cho những ai cứ giữ trong tư tưởng về Đấng Mêsia theo ý họ.
2022
Trở nên muối
13.12. Thánh Lucia, Đttđ
Xp 3:1-2,9-13; Tv 34:2-3,6-8,17-18,19,23; Mt 21:28-32
Trở nên muối
Thánh nữ Lucia quê tại Syracusas, Sicily thuộc nước Ý. Sinh vào khoảng thời gian năm 283, dưới thời hoàng đế Diocletien, một vị vua tàn bạo thù ghét người Kitô hữu. Tên của thánh nữ có nghĩa là sự sáng nhưng đời của Ngài vẫn bao trùm trong bóng tối. Ngài là một vị thánh được ưa chuông nên có nhiều câu chuyện ly kỳ được truyền tụng về cuộc đời của Thánh nữ.
Thánh nữ là con gái một gia đình giàu có, mồ côi cha lúc còn thơ ấu. Eutychia mẹ Lucia là một người mẹ phúc hậu và mộ đạo nuôi nấng dạy dỗ. Khi còn là một cô gái nhỏ thánh nữ đã thề nguyền giữ dồng trinh để tận hiến cuộc đời mình cho Chúa.Vì không muốn ai biết nên thánh nữ đã giữ kín cả với mẹ ý nguyện của mình.
Ðến tuổi cập kê, mẹ Lucia hứa hôn gả Lucia cho một thanh niên giàu có. Ðó là chuyện thường tình theo tập tục thời bây giờ giữa hai gia đình quen biết và không cần đến sự thỏa thuận của đôi bạn trẻ.
Lucia cho mẹ biết là ngài không muốn lấy chồng và tìm mọi cách để tránh mặt vị hôn phu. Mẹ ngài cùng người hôn phu tức giận nhưng ngài vẫn giữ bí mật lời thề nguyền và chỉ cầu xin Chúa gìn giữ ngài.
Mẹ ngài bị bệnh băng huyết trầm trọng nên tàn tạ ốm yếu, Lucia nhắc mẹ về câu chuyện người đàn bà bị băng huyết trong sách Tin Mừng chỉ nhờ sờ vào tua áo của Chúa mà được khỏi bệnh. Lucia khuyên mẹ hãy đến viếng mộ bà Thánh Agatha để cầu xin lành bệnh.
Khi ở mộ thánh Agatha thì mẹ bà được phép lạ lành bệnh. Thánh Agatha hiện ra với Lucia trong giấc mơ và báo cho Lucia biết là ngài sẽ được phúc tử vì đạo để làm sáng danh Chúa Kitô. Lucia liền kể cho mẹ nghe lời thề của ngài và cầu xin mẹ thay đổi ý kiến. Ðược phép lạ lành bệnh mẹ ngài đành chấp thuận chiều theo ý con gái. Sau biến cố này, Lucia từ chối lời cầu hôn và bán hết phần gia tài mà bà mẹ dành cho làm của hồi môn, rồi phân phát cho người nghèo khó.
Vị hôn phu lấy làm thất vọng và oán hận nên đi tố cáo với quan tổng trấn Lucia là một Kitô hữu. nên Lucia đã bị bắt và dẩn đến trước mặt quan Paschasius.
Vị quan này dùng lời đường mật cũng như mọi khổ hình để bắt Ngài phải dâng hương tế thần, nhưng thất bại. Ông truyền điệu Ngài tới nơi tội lỗi để hủy diệt đức trinh khiết của Thánh nữ, nhưng lạ thay Chúa đã khiến thân xác của Ngài trở nên nặng như núi đá đến nỗi không ai kéo đi được. Ông liền ra lệnh tẩm dầu vào người rồi đốt, nhưng một lần nữa Chúa đã gìn giữ thân xác Ngài toàn vẹn giữa đống lửa hồng.
Cuối cùng Thánh nữ Lucia đã được lãnh phúc tử đạo dưới lưỡi gươm của lý hình năm 304 dưới thời bắt đạo của Diaclêtianô. Trước khi chết, Ngài đã tiên đoán Giáo Hội sắp được bình an. Xác Ngài được chôn cất ngay tại quê hương.
Là người môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi trở nên muối ướp mặn cho đời và ánh sáng cho trần gian. Với thánh nữ Lucia, suốt cuộc đời ngài đã sống triệt để lời mời gọi của Tin Mừng. Thậm chí, ngài sẵn sàng chịu tử đạo để minh chứng cho đức tin. Chính nhờ cuộc tử nạn của Thánh nữ Lucia đã nuôi dưỡng sâu xa lòng đạo đức của các Kitô hữu qua nhiều thế kỷ.
Khi phác họa lại hình ảnh thánh nữ Lucia, người ta vẽ ngài đang bưng chiếc đĩa để cặp mắt của ngài hay cầm cặp mắt ngài trong các ngón tay. Tên Lucia bắt nguồn từ tiếng la tinh lux, có nghĩa là ánh sáng. Quả thật, cuộc đời của thánh nữ tựa như ánh sáng dẫn đường chúng ta đến với Thiên Chúa, Đấng là Mặt Trời Công Chính, là cội nguồn ánh sáng.
Qua dụ ngôn “Hai người con”, Đức Giê-su muốn gián tiếp cảnh cáo thái độ cứng lòng của các đầu mục dân Do Thái, và kêu gọi họ phải ăn năn sám hối nếu muốn được hưởng ơn cứu độ. Dụ ngôn trình bày về hai thái độ của hai đứa con trong một gia đình:
Cả hai người con đều được cha đề nghị với giọng thân tình là đi làm vườn nho cho ông. Phản ứng của họ hoàn toàn khác nhau. Người thứ nhất trả lời bằng một câu “Con không muốn” khô khan và bất lịch sự, không đưa ra một lý do nào. Nhưng rồi anh nghĩ lại, “hối hận”, và đi làm việc trong vườn nho. Người thứ hai đáp lại bằng một câu “Con đây, thưa ngài!” lịch thiệp và khả ái: một kiểu xưng hô hợp với một nô lệ hơn là với một người con; anh hứa vâng phục. Tuy nhiên, anh lại không đi đến vườn nho.
Người thứ nhất tượng trưng các người thu thuế tội lỗi, tuy lúc đầu đã phạm tội không làm theo thánh ý Thiên Chúa khi không tuân giữ Luật Mô-sê, nhưng đã tin Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai và hồi tâm sám hối tội lỗi, nên đủ điều kiện vào Nước Thiên Chúa của Người.
Người con thứ hai tượng trưng cho các thượng tế và đầu mục dân Do thái. Tuy bề ngoài họ rất có lòng đạo, thể hiện qua việc tuân giữ Luật Mô-sê trong từng chi tiết, nhưng lại cứng lòng không tin vào Gio-an Tẩy Giả và Chúa Giêsu do Thiên Chúa sai đến. Trái lại còn ra tay giết hại Chúa Giêsu trên cây thập giá. Nên cuối cùng họ sẽ bị loại ra ngòai Nước Thiên Chúa.
Chúng ta học nơi Chúa Giêsu bài học là không có nhận định kiểu thành kiến về giá trị tôn giáo của người ta dựa theo cách phân loại các hạng người tùy các dấn thân theo nguyên tắc hay các lý thuyết của họ. Chỉ lối sống thực tế mới cho thấy lòng dạ con người.
Dù đã nói “không”, hoặc đã sống xấu xa, chẳng một ai lại phải tuyệt vọng. Câu trả lời đầu tiên không phải là lời quyết định, nếu ta không ở lại trong lời ấy, nếu ta biết điều chỉnh nó và vượt thắng nó bằng lối cư xử đúng đắn tiếp sau. Và lối xử sự đúng đắn của những người trước đấy đã sống sai lạc hẳn là phải thúc đẩy những người vẫn tự nhận là tốt lành đi đến hoán cải, nhưng không khiến họ bắt chước hành động trước đây của mình.
Dù chúng ta hay người anh em có thế nào, tất cả đều là con của cùng một Cha, được Ngài thương trọn vẹn, tín nhiệm trọn vẹn, và giao công việc đồng đều: chăm sóc chính vườn nho của Ngài. Chúng ta có biết nhận ra vinh dự đó mà sống cho nghiêm túc đời sống và sứ mạng của mình, đồng thời giúp anh chị em cũng sống được như thế chăng?
2022
Sống trong sự thật !
12.12. Lễ Đức Mẹ Guadalupe
Ds 24:2-7,15-17; Tv 25:4-5,6-7,8-9; Mt 21:23-27
Sống trong sự thật !
Một người thổ dân nghèo hèn tên Cuatitlatoatzin được rửa tội và lấy tên là Juan Diego. Ông 57 tuổi, góa vợ và sống trong một làng nhỏ gần Mexico City. Vào buổi sáng thứ Bảy, 9 tháng Mười Hai 1531, ông đến nhà nguyện gần đó để tham dự lễ kính Đức Mẹ.
Khi đang đi trên ngọn đồi gọi là Tepeyac thì ông nghe có tiếng nhạc du dương như tiếng chim hót. Sau đó một đám mây sáng chói xuất hiện, đứng trên đám mây là một trinh nữ người thổ dân mặc y phục như công chúa của bộ lạc Aztec. Trinh nữ nói chuyện với ông bằng tiếng bản xứ và sai ông đến với Đức Giám Mục của Mexico, là một tu sĩ dòng Phanxicô tên Juan de Zumarraga, và yêu cầu đức giám mục xây cất một nguyện đường nơi Trinh Nữ hiện ra.
Dĩ nhiên vị giám mục không tin, và bảo Juan Diego xin Trinh Nữ cho một dấu chỉ. Trong thời gian này, người chú của ông bị bệnh nặng. Điều đó khiến ông cố tránh né không muốn gặp Trinh Nữ. Tuy nhiên, đức trinh nữ tìm ông, đảm bảo với ông là người chú sẽ khỏi bệnh, và bảo ông hái các bông hồng quanh đó để làm bằng chứng với vị giám mục. Lúc ấy là mùa đông thì không thể có bông hoa nào mọc được, nhưng lạ lùng thay, gần chỗ Trinh Nữ hiện ra lại đầy dẫy những hoa hồng tuyệt đẹp. Và ông đã dùng chiếc áo tơi của mình để bọc lấy các bông hồng đem cho vị giám mục.
Trước sự hiện diện của đức giám mục, ông Juan Diego mở áo tơi ra và bông hồng đổ xuống tràn ngập khiến vị giám mục phải quỳ gối trước dấu chỉ lạ lùng ấy. Lạ lùng hơn nữa, trên chiếc áo tơi lại có in hình Đức Trinh Nữ như ngài đã hiện ra với ông ở đồi Tepeyac và tỏ lộ danh tánh: Ðức Bà Guadalupe. Đó là ngày 12 tháng Mười Hai 1531.
Tin Mừng hôm nay tiếp theo biến cố ngày hôm trước Chúa vào trong đền thờ đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ, sau khi nghỉ đêm tại Bêtania ngày hôm sau Chúa lại vào Đền thờ để giảng dạy, các thượng tế và kỳ lão thấy Chúa, họ liền đến để tra vấn Người: “Ông lấy quyền nào mà làm những điều này? Ai đã ban quyền ấy cho ông?” (Mt 21, 23b). Đời công khai sứ vụ của Chúa, Người đã làm nhiều phép lạ mà người đời không thể làm được.
Vậy những việc của Người chỉ phát xuất từ nơi Thiên Chúa. Chúa không trả lời trực tiếp về câu hỏi họ đặt ra, vì Người biết mục đích việc tra vấn của họ là để gài bẫy, tìm cách bắt bớ triệt hạ Chúa. Để đánh động cách nghĩ của giới trí thức này, Chúa đã nhắc lại ngôn sứ Gioan và đặt lại câu hỏi với họ “phép rửa của ông Gioan xuất phát từ đâu: Thiên Chúa hay loài người” (Mt 21, 25a). Gioan đã đi bước trước để dọn đường cho Chúa đến, dân chúng cũng đến với ông rất đông và đã tiếp nhận phép rửa do chính ông làm, nhưng các nhóm thượng tế và kỳ lão này vẫn cố tình lảng tờ như không biết. Sự đánh động của Chúa để họ nhìn ra cách sống nơi chính họ, nhưng họ vẫn chai lì. Họ bắt đầu suy luận về câu hỏi của Chúa, và không dám trả lời cách dứt khoát để rồi họ trả lời Người: “Chúng tôi không được biết”. (Mt 21, 27a)
Chúa Giê-su từng phân tích hai lối dùng quyền bính, một của thói đời và một của những người theo Ngài. Theo thói đời, những người nắm giữ quyền bính thường dùng mọi phương tiện để thống trị dân (Lc 22, 25). Chính vì tham vọng thống trị, nên họ thường tìm mọi cách tiêu diệt những ai bất phục họ. Thái độ của các thượng tế và kỳ mục đối với Chúa Giêsu trong câu Tin Mừng trên là một bằng chứng. Chúa Giêsu dạy các môn đệ của Ngài rằng quyền bính là để phục vụ cho sứ mạng. Chúa Giê-su đã sống như thế. Chúa Cha đã ban cho Người mọi quyền bính trên trời dưới đất (Mt 28,18), nhưng Ngài không bày tỏ quyền uy để thống trị, mà cốt để ý muốn Chúa Cha thể hiện dưới đất. Thậm chí, Ngài còn hiến mạng sống cho sứ vụ. Nói cách khác, quyền bính Ngài không uy hiếp bất cứ ai; trái lại, để đưa dẫn con người vượt thắng uy lực của sự dữ và cứu độ con người.
Trong cách sống đạo hôm nay nhiều khi chúng ta hay phê phán về người này hay người khác, linh mục nọ tu sĩ kia, nhưng chúng ta chưa nhìn lại chính mình, những Lời dạy của Chúa chắc hẳn chúng ta đã được nghe đi nghe lại rất nhiều lần, nhưng chúng ta đã thực hành được bao nhiêu việc như Lời Chúa dạy. Tham dự Thánh Lễ cứ phải so đo: cha này làm lễ lâu hơn cha kia, cha già giảng lâu hơn cha trẻ; đi học giáo lý: dì phước này nói nhiều hơn Giáo Lý Viên kia. Vô tình chúng ta đi vào cách sống hình thức như nhóm thượng tế và kỳ lão khi xưa, và còn nguy hại hơn là phê phán đằng sau lưng, nơi phố chợ hay trên bàn nhậu … không dám trực diện như nhóm thượng tế và kỳ lão.
Ngày nay khi chúng ta đang đối diện với sự thật, bằng cách sống với lương tâm và công chính, cuộc sống muôn mặt rất cần sự giúp đỡ bao người cô thế cô thân, hoặc đang bị chà đạp danh dự ức hiếp, rất cần những bàn tay nâng dỡ che chở của bao tấm lòng từ bi đón nhận che chở ủi an, nhưng đôi khi chúng ta né tránh hay vẫn thường nói “chúng tôi không biết”. Với câu “không biết” tưởng như là vô thưởng vô phạt, nhưng thực sự là tâm hồn chứa đựng toan tính vì lo sợ ảnh hưởng đến mình.
Nếu mọi người cứ sống theo thái độ này, tâm hồn mỗi người chẳng bao giờ biết dọn đường cho Chúa đến. Điều quan trọng nhất sống trong sự thật là phải sống bằng tấm lòng quảng đại yêu thương, tâm hồn mỗi người không ít nhiều có sự kiêu ngạo hay toan tính hẹp hòi hay có thể thiếu vắng tình yêu.
Sống trong Mùa Vọng này, để nhìn lại chính mình, đã đến lúc chúng ta biết đến đích điểm dừng lại mà vượt qua bóng tối trần gian, của sự gian dối, biết tiến về sống trong sự thật bằng sống trong chân lý của Chúa Giêsu: “Các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông” (Ga 8, 32)