2023
Ðôi mắt đức tin
15.2 Thứ Tư Thứ Tư trong tuần thứ Sáu Mùa Quanh Năm
St 8:6-13,20-22; Tv 116:12-13,14-15,18-19; Mc 8:22-26
Ðôi mắt đức tin
Mù thể xác có nhiều cấp độ nhưng nói chung là không thấy rõ hoặc không thấy sự vật ở chung quanh. Anh mù trong Tin mừng hôm nay ngồi ăn xin bên vệ đường có lẽ là người mù tịt không biết Chúa Giêsu đi qua, nhưng Ngài động lòng thương cứu chữa anh, đồng thời cũng qua phép lạ này Chúa Giêsu muốn giới thiệu cho các môn đệ: Ngài là ánh sáng trần gian. Ngài nhổ nước miếng trên đất, trộn thành bùn và xức vào mắt anh mù, rồi bảo anh ta: “Hãy đến hồ Siloê mà rửa”. Vậy anh ta đến rửa ở hồ và khi về thì nhìn thấy được.
Anh ta sung sướng vô cùng vì được nhìn thấy sự vật chung quanh. Trước đây người ta kể cho anh nghe đủ mọi thứ chuyện chung quanh nhưng anh ta không có một khái niệm nào về sự vật. Đối với anh lúc nào cũng là đêm tối dầy đặc. Bây giờ anh được trực tiếp ngắm xem cảnh vật, cái gì cũng đẹp, cái gì cũng kỳ lạ… không cần phải cắt nghĩa cho anh nữa.
Tin Mừng theo thánh Marcô mà chúng ta lắng nghe hôm nay, thuật lại việc Chúa Giêsu cho một người mù được thấy. Ðặt câu truyện này vào bối cảnh cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu với nhóm Biệt phái cũng như với các môn đệ, thánh Marcô muốn cho chúng ta thấy rằng đức tin tức ơn sáng mắt là một ơn nhưng không của Thiên Chúa. Những người Biệt phái đã tự giam hãm trong sự mù quáng tức trong ánh sáng riêng của họ để khước từ Chúa, đồng thời chối bỏ chính ánh sáng của Thiên Chúa; trong khi đó, các môn đệ lại lơ đễnh đến độ không thể thấy được ý nghĩa các phép lạ của Chúa Giêsu. Chữa lành cho người mù, Chúa Giêsu vừa tỏ quyền năng của Ngài, vừa cho thấy chỉ mình Ngài mới có thể ban cho con người ánh sáng mới, nhờ đó con người có thể thấy được Thiên Chúa.
Anh mù bẩm sinh được Chúa Giêsu chữa lành đã trải qua nhiều thử thách gây ra bởi những người Biệt Phái ganh ghét Chúa Giêsu, và quyết tâm trừ khử Ngài.
Anh đã phải chiến đấu cam go trước cám dỗ được yên thân, được cơ chế tôn giáo ủng hộ, được đám đông tuyên dương, để có thể nói thật điều mình nghĩ đúng, nói đúng điều mình nghĩ thật, khi công khai “kể đúng” những gì Chúa Giêsu đã “thật sự” làm cho anh, và nhắc lại “đúng” những lời của người chữa lành mắt đã “thực sự” nói với anh. Anh phải chiến đấu vất vả vì lực lượng hùng hậu, và ma mãnh của Bóng Tối đã không chấp nhận Ánh Sáng được trả lại cho anh, vì Bóng Tối muốn mãi mãi thống trị anh, và không muốn anh đón nhận Ánh Sáng như hồng ân.
Những năm tháng mù loà, anh không thể mường tượng thế nào là ánh sáng, vì bóng tối với thời gian đã làm anh quen và không còn thấy xa lạ, khó chịu, bực bội với bóng tối, như người sống nhiều năm trong hang động, hay lâu ngày bị giam cầm dưới hầm tối sẽ lảo đảo, té nhào phút đầu tiếp cận ánh sáng, nên khi có ánh sáng ùa vào cuộc đời, anh cũng phải dũng cảm chiến đấu để Vượt Qua bóng tối, đi vào Ánh Sáng, chứ không ngoan cố ở lì trong bóng tối và không chịu thoát ra.
Qua phép Rửa, chúng ta nhận được ánh sáng của Thiên Chúa, Ngài ban cho chúng ta chính đôi mắt của quả tim để có thể nhìn thấy Ngài trong mọi sự và trong từng phút giây cuộc sống. Ước gì chúng ta luôn nhận ra sự hiện diện của Chúa, để chúng ta có thể vượt thắng mọi gian nan thử thách trong cuộc sống và luôn tin vững nơi tình yêu của Chúa.
Trình thuật việc Chúa Giêsu chữa mắt cho người mù từ bẩm sinh khá dài. Có rất nhiều chi tiết và mỗi chi tiết có một ý nghĩa riêng. Các thánh Giáo phụ đã cắt nghĩa nhiều về vấn đề này, nhất là việc “lấy bùn hòa nước bọt xức mắt người mù”. Nhưng tựu trung, tất cả mọi hành vi đó là dấu chỉ để mọi người tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa. Nhờ tin như thế mà người ta có sự sống.
Như vậy, cùng một lúc Chúa Giêsu làm hai phép lạ: chữa cặp mắt thể xác cho anh mù có cái nhìn của lòai người, và chữa cặp mắt đức tin cho anh này có cái nhìn Thiên Chúa. Trong hai phép lạ chữa mắt thì việc chữa mắt đức tin quan trọng hơn vì nhờ cặp mắt này mà người mù đã nhận ra Chúa Giêsu là Thiên Chúa và đã tuyên xưng: “Lạy Thầy, con tin”, rồi anh sấp mình trước mặt Ngài
Như anh mù được sáng mắt, nhờ bí tích Thanh Tẩy và Thêm Sức, chúng ta được Thiên Chúa cho sáng mắt, được lớn lên và xứng đáng hơn mỗi ngày với ơn huệ làm con cái Ánh Sáng, khi thấy tất cả mọi người, mọi sự chung quanh mình, và nhìn mọi biến cố xẩy ra hằng ngày theo cái nhìn của Thiên Chúa, và dưới cái nhìn của Thiên Chúa. Nhờ đó, chúng ta không ngủ mê trong bóng tối, nhưng trỗi dậy dưới ánh sáng rạng ngời của Chúa Giêsu (x. Ep 5,14), Ánh Sáng cứu độ của Thiên Chúa, Ánh Sáng cứu chuộc muôn dân.
2023
Tín thác vào tình yêu của Chúa
14.2 Thứ Ba Thánh Cyril, Đan Sĩ, và Mêthôđiô, Gm
St 6:5-8; Tv 29:1-2,3-4,3,9-10; Mc 8:14-21
Tín thác vào tình yêu của Chúa
Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, Chúa Giêsu ngồi trên thuyền với các môn đệ để đi về hướng Betsaiđa; Ngài lợi dụng những giây phút rảnh rỗi để trắc nghiệm phản ứng của các ông về những phép lạ Ngài đã thực hiện, đặc biệt là phép lạ bánh và cá hóa ra nhiều.
Chúa Giêsu xuống thuyền đi với các môn đệ. Nhưng các ông quên mang bánh theo, trong thuyền chỉ có một cái bánh. Dọc đường, Chúa căn dặn các ông cẩn thận lo tránh “men những người biệt phái và Hêrôđê”, tức là lo tránh thói tự mãn, cứng đầu cứng cổ của họ. Nhưng các ông không hiểu ý Chúa muốn nói, mà cứ tưởng là Chúa quở vì không mang bánh theo ăn, nên Chúa trách các ông chậm hiểu kém tin. Chính mắt các ông đã thấy hai phép lạ Chúa hóa bánh ra nhiều cho mấy ngàn người ăn no nê mà còn dư thừa, chính tai các ông đã nghe bao nhiêu lời Chúa dạy mà cũng chưa hiểu chưa tin.
Chúa Giêsu ngồi trên thuyền với các môn đệ đi về hướng Betsaida; Người lợi dụng những phút rảnh rỗi để trắc nghiệm phản ứng của các ông về những phép lạ Người đã thực hiện, đặc biệt là phép lạ bánh và cá ra nhiều.
Khi cảnh giác các môn đệ phải tránh men của Biệt phái và men của Hêrôđê, Chúa Giêsu có ý ám chỉ đến sự mù quáng và những thành kiến của những nhóm người này. Chúa Giêsu đã dùng chữ “men” để nói đến tinh thần kiêu ngạo và thái độ mù quáng ấy. Thế nhưng, các môn đệ đã không hiểu được kiểu nói bóng bẩy ấy, đầu óc các ông còn đầy những bận tâm về vật chất.
Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ hãy ra khỏi những bận tâm vật chất ấy để hiểu được ý nghĩa các phép lạ và sứ điệp của Ngài. Ðó cũng chính là nội dung của chương trình huấn luyện mà Ngài đeo đuổi trong ba năm rao giảng của Ngài. Mãi đến lúc Ngài bị bắt và chịu treo trên Thập giá, xem chừng các môn đệ vẫn chưa hiểu được chiều sâu sứ điệp của Ngài. Mơ tưởng của những người dân chài này là được trở thành công hầu khanh tướng trong vương quốc trần gian mà họ nghĩ là Chúa Giêsu đã đến để thiết lập.
“Người bảo các ông: “Anh em chưa hiểu ư ?”
Câu hỏi này là lời Chúa trách móc các môn đệ. Họ là những người đã chứng kiến những phép lạ Chúa làm, họ đã phân phát bánh hoá nhiều mà họ còn lo lắng để tiếp tế lương thực, trong lúc Chúa Giêsu còn ở bên cạnh họ! Thế nhưng họ đã không ý thức rằng: có Chúa Giêsu ở với họ, là họ có tất cả.
Điều này thật đúng tâm lý chúng ta. Chúng ta dễ dàng chấp nhận rằng: dĩ vãng, Thiên Chúa đã can thiệp cứu giúp chúng ta, ở với chúng ta. Nhưng hiện tại, khi chúng ta gặp khó khăn, gặp thử thách, phản ứng đầu tiên của chúng ta là lo lắng hốt hoảng, nghi ngờ, bối rối, chứ chúng ta có giữ bình tĩnh và tin chắc rằng Chúa vẫn tiếp tục ở với chúng ta không ?
Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ Ngài hãy vượt lên những bận tâm vật chất để đi vào chiều sâu sứ điệp của Ngài. Ðiều đó cũng có nghĩa là tin vào quyền năng của Ngài, hoàn toàn phó thác cho Ngài. Giữa những khó khăn thử thách của cuộc sống, con người dễ dàng chạy đến với Chúa: đó là thái độ rất chính đáng, bởi vì qua cử chỉ ấy, con người tuyên xưng niềm tin vào tình yêu thương của Thiên Chúa. Tuy nhiên, Chúa Giêsu muốn chúng ta hãy có một thái độ vô vị lợi hơn, hoàn toàn tín thác vào tình yêu của Ngài. Một thái độ như thế sẽ cho chúng ta nhận ra tình yêu của Ngài, và cho chúng ta thốt lên như các vị thánh: “Tất cả đều là hồng ân của Chúa” bởi vì tình yêu của Ngài vượt trên mọi tính toán và chờ đợi của chúng ta.
Với Tin Mừng hôm nay, có thể chúng ta sẽ phê phán bọn Pha-ri-sêu và Hê rô-dê là những người không có lý trí, không có óc nhận xét, không biết phân biệt đúng sai, phải trái! Những lời cảnh giác đó của Chúa Giêsu đối với chúng ta ngày nay vẫn không thừa!. Thí dụ, là trong mỗi dịp tết về nhiều gia đình đã không hưởng được niềm vui của năm mới cách trọn vẹn! Biết bao người nhân dịp tết đến, vui Xuân bằng cách tìm đến trò chơi đem đỏ; để rồi mất tiền và bị công an bắt vì tội đánh bạc! Biết bao người vì men rượu vào người không còn làm chủ được mình dẫn đến đánh lộn đâm chém để rồi người thì thương vong, kẻ thì vào nhà tù. Tất cả đều là do họ mê man sự đời, không thực sự tin vào Chúa và triệt để thi hành những điều răn Ngài dạy!
Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta rút ra được một bài học để áp dụng vào cuộc sống của mình cho nên tốt đẹp: Đó là phải luôn nhạy bén để nhìn nhận thấy Chúa qua những dấu chỉ xảy ra quanh mình và phải hoàn toàn đặt sự tin tưởng và tin thác vào sự quan phòng trong yêu thương của Thiên Chúa đối với mỗi người và cuối cùng là phải luôn đem Lời Chúa dạy ra thực thi trong cuộc sống của mình.
2023
Dấu lạ tình yêu
13.2 Thứ Hai trong tuần thứ Sáu Mùa Quanh Năm
St 4:1-15,25; Tv 50:1,8,16-17,20-21; Mc 8:11-13
Dấu lạ tình yêu
Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều (8,1-10) lần thứ hai ở phía đông biển hồ Bétsaiđa, Chúa Giêsu cùng môn đệ xuống thuyền sang phía tây hồ. Nhưng vừa cập bến được ít lâu, một nhóm biệt phái, có cả nhóm Sađucêu nữa, kéo nhau đến rình mò, tranh luận và thử thách Ngài.
Trước đó Người cũng đã làm nhiều phép lạ, trong đó có những phép lạ lớn (Mc 4,35–5,43: dẹp yên bão táp, trục xuất quỷ ám ra khỏi người ta, chữa một bà loạn huyết, làm cho đứa con gái ông Giairô sống lại). Thế mà những người biệt phái vẫn chưa tin Người. Hôm nay họ lại thách thức Người làm một “dấu lạ từ trời” nghĩa là một phép lạ phát xuất từ chính Thiên Chúa.
“Người thở dài não nuột mà nói…”
Thực ra những phép lạ Người làm, nhất là những phép lạ lớn vừa kể trên, đã đủ minh chứng Người là Đấng có quyền phép “từ trời”. Sở dĩ họ không tin là chỉ vì họ ngoan cố. Bởi đó Chúa Giêsu nói sẽ chẳng cho họ một dấu lạ nào nữa.
Trong phần tiếp theo, Tin mừng Marcô vẫn tiếp tục cho thấy Chúa Giêsu làm thêm nhiều phép lạ khác. Tuy nhiên những phép lạ đó cũng chẳng phải làm cho những người biệt phái ấy. Nói cách khác, những phép lạ ấy chỉ có ý nghĩa và giá trị cho những người khác, chứ không cho những người biệt phái cứng lòng.
Sau những dấu lạ Chúa Giêsu đã làm, người Pha-ri-sêu còn xin một dấu lạ khác. Lời yêu cầu của họ, cho chúng ta thấy những đòi hỏi mù quáng thiếu đức tin như muốn thách thức Thiên Chúa, hay cố tình không chịu tin vào quyền năng của Người. Mặc dù họ rất thông minh, nhưng không hề khiêm nhường đơn sơ, nên đứng trước biết bao phép lạ Chúa đã làm, nhưng người biệt phái vẫn còn mơ hồ, nghi ngờ, đòi hỏi Người thêm một phép lạ từ Trời nữa, khiến Chúa Giêsu phải lắc đầu não nuột: “sao thế hệ này lại xin một dấu lạ”.
Mặc dù Thiên Chúa cố gắng thể hiện tình yêu của Người đến với họ, nhưng họ là những người yếu đuối, kém cỏi trong đức tin, nhưng vẫn tỏ ra mình là những người hiểu biết, nhìn xa trông rộng. Nhưng tình yêu Thiên Chúa luôn lan tỏa bằng sự tự nguyện, không phải là ép buộc. Dấu lạ của Người bằng lòng tin yêu, bằng chính tâm hồn hướng về Người. Thiên Chúa chỉ cần lòng tin, như lòng tin của người phụ nữ thật mạnh mẽ nhưng đơn sơ giản dị: “Tôi chỉ cần sờ được vào áo của Người thôi là sẽ được cứu”. ( Mt 9,22)
Chúa Giê-su chờ đợi chúng ta có một đức tin chân thành và vô vị lợi. Điều duy nhất phải quan tâm, đó là hành động vì đức tin. Biết rằng Chúa Giê-su nhìn chúng ta, Ngài nhận biết những việc làm của chúng ta, và với cái nhìn đầy yêu thương, Ngài đồng hành với chúng ta từng giây phút của cuộc sống. Nhận biết mình được an toàn trong tay Chúa là bằng chứng hùng hồn về đức tin của chúng ta.
Chúa Giê-su đã ban cho chúng ta dấu lạ chắc chắn về sự hiện diện hằng ngày của Ngài trong đời sống chúng ta. Dấu thứ nhất là thập giá. Chỉ có đức tin mới mở cho chúng ta biết mầu nhiệm của Ngài và giúp chúng ta đương đầu với tội lỗi nhờ lòng thương xót. Tội là nguyên do của những gì nguy hại trong đời sống chúng ta. Thập giá của Đấng chịu đóng đinh là khí giới có thể chữa lành chúng ta. Đức tin cho phép chúng ta nhìn thấy tình yêu Chúa ở trung tâm vũ trụ và thế giới được lôi kéo về Ngài. Thánh Thể là một dấu lạ nữa mà Chúa để lại cho chúng ta. Đó là dấu lạ mạnh mẽ nhất vì nơi đó chứa đựng tác giả của chính dấu lạ. Chúa Giêsu đã hạ mình qua mọi phương thế để ở lại với chúng ta. Dưới hình bánh rượu, Ngài mạc khải cho chúng ta thấy Ngài muốn gắn bó với chúng ta. Xin cho những dấu lạ này luôn là bảo chứng tình yêu để chúng con nói với Chúa theo cách Ngài muốn được biết, được yêu và được tôn thờ.
Cuộc sống ngày nay biết bao mưu toan tính toán của con người, biết bao biến cố xảy ra hàng ngày, hàng giờ, hàng phút đến với chúng ta, với gia đình, xã hội, thế giới, đó cũng là dấu chỉ, có cảm nhận được dấu chỉ sẽ giúp chúng ta tỉnh thức, bình tâm lại, để có một niềm tin, trông cậy phó thác trong tình yêu bao la của Thiên Chúa.
Tin mừng hôm nay cho thấy phép lạ “không sinh ra đức tin” mà chỉ là “dấu chỉ dẫn người ta tới đức tin”. Bởi thế, sống đạo mà chỉ quan tâm tới phép lạ (như Lộ Đức, Fatima, La Vang…) thì chưa hẳn là sống đạo thật. Sống đạo thật là sống bằng đức tin. Ngược lại, người có đức tin thật thì nhìn thấy phép lạ trong tất cả mọi việc, kể cả việc nhỏ và tầm thường nhất.
Niềm tin thì chúng ta dễ có, và có thể tạo ra niềm tin, còn đức tin thì phải đến từ Thiên Chúa, đó là một hồng ân Thiên Chúa ban cho con người, chứ không phải con người tạo ra Đức tin. Trong hành vi đức tin, Thiên Chúa vừa cho có ánh sáng, vừa cho bóng tối. Đức tin, vì thế đòi hỏi phải có sự khó nhọc, chọn lựa, hy sinh và dấn thân. Một đức tin mà đòi hỏi một chứng cớ rõ ràng, thì không phải là đức tin nữa. Vả lại, Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của tình thương, mà trong tình yêu thì không có sự ép buộc hay cưỡng bức, nhưng là sự tự do, tự nguyện.
Chúng ta đi tìm dấu lạ khắp nơi. Chúng ta đặt ra giá trị cho tất cả những gì có thể cân đo, đong đếm. Không có những điều này, chúng ta coi nhẹ mọi sự. Đời sống thiêng liêng cũng không loại trừ khuynh hướng này. Những phép lạ, lời đáp trả mau lẹ cho những lời chúng ta cầu xin là bằng chứng cho rằng những lời cầu xin đó được lắng nghe, chúng là những dấu lạ mà chúng ta tìm kiếm để tin.
2023
Tiệc vui
11.2 Thứ Bảy trong tuần thứ Năm Mùa Quanh Năm
St 3:9-24; Tv 90:2,3-4,5-6,12-13; Mc 8:1-10
Tiệc vui
Ngày hôm nay, ta thấy thánh Matcô đã kể lại hành trình giảng dạy và những việc làm của Chúa Giêsu nơi vùng đất của dân ngoại, trong miền thập tỉnh, gần biển hồ Tibêria.
Ta thấy Chúa Giêsu xuất hiện như vị cứu tinh chữa lành mọi chứng đau bệnh trong dân. Đến địa hạt Tia, Người trừ quỷ cho con gái một người đàn bà Hy Lạp, gốc Phinêxi thuộc xứ Xyri (Mc 7, 24-30). Sau đó qua vùng Xiđon, Người còn chữa một người vừa điếc vừa ngọng. Tiếng lành đồn xa, đám dân ngoại nghe và chứng kiến nhiều nhiều phép lạ phi thường Chúa Giêsu đã làm thì kéo đến để nghe Người giảng dạy. Họ đi ròng rã suốt ba ngày đàng và chiều hôm ấy, Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ hóa bánh ra nhiều, dọn một bữa tiệc thịnh soạn giữa đồng vắng đãi bốn ngàn người ăn no nê.
Đây là lần thứ hai Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. So với lần thứ nhất (Mc 6, 30-44), thấy đám đông dân chúng đi theo, các môn đệ xin Chúa Giêsu cho họ giải tán vào làng mạc tìm thức ăn. Đức Giêsu đề nghị các ông hãy cho họ ăn. Sau đó Người dùng 5 chiếc bánh và 2 con cá thực hiện phép lạ cho 5 ngàn người đàn ông ăn và còn dư 12 thúng đầy.
Phép lạ lần thứ hai xảy ra là do lòng thương của Đức Giêsu khi thấy đám đông đi theo suốt ba ngày mà không có gì ăn. Từ 7 chiếc bánh và vài con cá nhỏ, Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho 4 ngàn người ăn no và còn dư 7 giỏ bánh. Trong Kinh Thánh, số 7 tượng trưng cho sự hoàn hảo, cho đức ái và ân sủng của Thiên Chúa.
Trong cuộc sáng tạo kỳ diệu, Thiên Chúa đã hoàn tất mọi việc trong sáu ngày và ngày thứ bảy Người nghỉ ngơi. Từ đó “số 7” trở thành khuôn mẫu để quy định thời gian làm việc mà chúng ta thường gọi là “một tuần”.Vì thế phép lạ từ 7 chiếc bánh là một bằng chứng sống động cho tình thương của Thiên Chúa. Người không chỉ cho ăn qua cơn đói mà cho cách hào phóng dư thừa suốt chu trình của 7 ngày sống. Người không chỉ đáp ứng nhu cầu vật chất tạm thời mà còn hướng dân chúng đến nguồn lương thực Thần Linh để được sống muôn đời.
Lương thực, ăn uống là nhu cầu sống còn của loài người.Như đám đông dân chúng đi theo Chúa Giêsu, nhân loại hôm nay cũng mong muốn một cuộc sống no cơm ấm áo. Tận sâu trong cõi lòng, chúng ta ấp ủ khát vọng một cuộcsống hạnh phúc, công bằng và bác ái. Đáng tiếc chúng ta lại đặt khát vọng ấy nơi vật chất và nơi con người trần gian nên chỉ nhận được nỗi thất vọng ê chề. Chỉ nơi Chúa Giêsu mới có câu trả lời chính đáng cho mọi khát vọng của chúng ta. Người đã thực hiện tất cả vì yêu thương trong sự vâng phục thánh ý Chúa Cha. Người không chỉ cho ăn bánh vật chất mà còn hiến thân mình làm của ăn nuôi của uống cho loài người được sống đời đời.
Con người được ban cho hai món quà vô giá là sự sống và tình yêu. Sự sống là một huyền nhiệm và tình yêu là điều thiêng liêng cao quý. Tình yêu mang đến cho con người sự sống và sự sống duy trì được là nhờ vào tình yêu. Sự sống và tình yêu đều xuất phát từ Thiên Chúa, hay nói cách khác Thiên Chúa là cội nguồn của sự sống và tình yêu. Thiên Chúa đã biểu lộ tình yêu của Người qua cuộc sáng tạo kỳ diệu để trao ban sự sống cho muôn vật muôn loài. Sự hiện hữu của chúng ta trên cõi đời này là bằng chứng hùng hồn nhất về tình yêunhiệm mầu của Thiên Chúa.
Hẳn ta còn nhớ trong thư thứ nhất, thánh sử Gioan đã định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4, 16). Chân lý này được mặc khải nhiều lần cho dân Chúa. Tình yêu Thiên Chúa hiện diện và đồng hành với dân Israeltrong mọi biến cố. Tình yêu ấy được cụ thể hóa và thành toàn viên mãn nơi Đức Giêsu, một tình yêu đã hiến dâng đã cho đi đến giọt máu cuối cùng. Tình yêu ấy biểu lộ nơi trái tim từ ái của Chúa Giêsu, một trái tim tỏa ra ngọn lửa nồng ấm thiêu đốt mọi thứ yếu hèn của loài người. Trái tim ấy đã mở ra ôm ấp những tâm hồn đau khổ, xoa dịu mọi vết thương và tha thứ mọi tội lỗi. Chỉ có Thiên Chúa mới thấu hiểu mọi nỗi khổ đau phiền lụy của kiếp người, chỉ có tình yêu mới làm cho con người được sống và sống dồi dào sung mãn.
Không có tình thương nào cao quý hơn tình thương của người đã hy sinh mạng sống vì người mình yêu, một tình yêu được ký kết bằng máu và mạng sống. Lời khẳng định ấy mở ra cho loài người tia hy vọng sau những tháng ngày đi hoang. Tình yêu có một mãnh lực kỳ diệu không chịu khuất phục trướcmột thế lực nào. Biết bao lần loài người đã phản bội, lãng quên lời giao ước để rồi chuốc lấy những đổ vỡ và đắng cay, chuốc lấy những ly tan và chết chóc. Tình thương và ơn tha thứ của Thiên Chúa đã xóa nhòa tất cả, cho chúng ta tận hưởng hạnh phúc đích thực. Nơi Chúa Giêsu, hạnh phúc vượt lên các giá trị trần gian, vượt qua những bãi bờ thác ghềnh danh vọng và quyền lực. Hạnh phúc đó được ấp ủ và dưỡng nuôi trong hạnh phúc lớn lao của người Thiên Chúa Cha – Đấng giàu lòng thương xót. Hạnh phúc ấy được kết tinh trong Người Con duy nhất, trở thành hy tế sống động dâng lên Thiên Chúa Cha.
Với con mắt đức tin, chúng ta biết rằng Thiên Chúa hằng tuôn đổ ân phúc của Người ngay cả lúc chúng ta gặp đau khổ thất bại và mang đầy những lầm lỗi. Vì thế hạnh phúc chính là nhận ra những giới hạn của thân phận con người trước tình thương vô biên của Thiên Chúa. Như bản tình ca được kết dệt bởi những nốt trầm bổng, hạnh phúc không chỉ là lúc chúng ta nhận được nhiều điều may lành nhưng cũng là lúc chúng ta dám cho đi, dám trao tặng, dám hao mòn vì tình yêu; không chỉ là lúc chúng ta sum họp mà cả những lúc chia xa đổ vỡ. Tất cả là hồng ân, không có gì của con người nằm ngoài bàn tay yêu thương quan phòng của Thiên Chúa. Bao lâu sống xa Thiên Chúa là chúng ta phải gánh chịu nỗi bất hạnh. Chỉ phút giây nào chúng ta còn sống trong ân sủng của Thiên Chúa đó là chúng ta đang có hạnh phúc đích thực. Nói như thánh Augustinô “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên trái tim con cho Chúa, linh hồn con còn mãi khắc khoải cho đến khi nào được an nghỉ trong Chúa”.
Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương đám đông dân chúng, dưới ánh sáng của Lời Chúa, chúng ta cũng được mời gọi “cảm thương” trước nhu cầu của tha nhân. Xung quanh chúng ta còn biết bao người đang chịu cảnh thiếu thốn về của ăn vật chất, thiếu công bằng bác ái. Ước gì chúng ta biết trao cho nhau một cử chỉ yêu thương, một ánh mắt thân thiện, một câu nói cảm thông thể hiện tinh thần Phúc Âm, cho tình thương Chúa thẫm đẫm mọi sinh hoạt của đời sống chúng ta.