2023
Tin vui chữa lành
20.2 Thứ Hai Thứ Hai trong tuần thứ Bảy Mùa Quanh Năm
Hc 1:1-10; Tv 93:1,1-2,5; Mc 9:14-29
Tin vui chữa lành
Tin Mừng hôm nay kể lại một phép lạ chữa lành ngay sau biến cố biến hình của Chúa Giêsu trên núi cao cho ba môn đệ thân tín của Người. Có lẽ chúng ta tạm chọn đề tài cho đoạn Tin Mừng này là “Tình thương chữa lành”, bởi vì chính Đức Giêsu – hiện thân của Thiên Chúa Cha đã tỏ lộ tình thương, không những trong việc chữa lành thân xác đứa con, mà còn củng cố, thêm sức tâm linh cho người cha. Hơn nữa, Người còn truyền dạy cho các môn đệ một bài học quan trọng trong đời sống tông đồ, đó là Cầu nguyện. Thật vậy, chỉ có cầu nguyện mới giúp con người có sự trợ giúp của Thiên Chúa trong tương quan với Ngài. Chỉ có cầu nguyện mới khiến con ngừơi nhận ra những yếu đuối bất toàn của bản thân, để chỉ trông cậy nương tựa vào lòng thương xót của Thiên Chúa.
Trong câu đầu tiên của đoạn Tin Mừng, thánh sử kể lại quang cảnh miêu tả hành trình xuống núi của Chúa Giêsu và ba môn đệ thân tín, có thêm đám đông dân chúng, các môn đệ và một số kinh sư đang chờ tại chân núi. Tất cả mọi người đang bàn tán xôn xao, đám đông nhốn nháo chạy qua chạy lại. Vừa thấy Đức Giêsu, đám đông kinh ngạc và chạy lại chào Người. Họ kinh ngạc có lẽ vì Chúa xuất hiện ngay vào lúc “nút thắt” lên cực điểm. Các luật sĩ đang lý luận. Các môn đệ thì lúng túng, bất lực. Còn đám đông đang bấn loạn không biết cậy dựa vào ai. Sự hiện diện của Chúa Giêsu khiến họ kinh ngạc nhưng rất đỗi vui mừng. Như kẻ sắp chìm vớ được mảnh ván, họ chạy lại đón Người. Nhìn thấy cảnh ấy, Chúa Giêsu đoán rằng đã xảy ra chuyện gì, nên Người hỏi các môn đệ “Anh em tranh luận gì với họ thế?” (16).
Đến đây, sự chờ đợi và bức xúc của dân chúng như oà vỡ qua lời của một người trong đám đông lên tiếng. Ông ta chính là cha của đứa bé, nhân vật chính trong trình thuật này. Ông kể lể mọi tình trạng khốn khổ mà con ông phải chịu đựng. Ông cũng đã xin các môn đệ chữa lành và ông kết luận : họ không làm nổi (18). Vừa nghe xong những lời ấy, Chúa Giêsu tỏ vẻ buồn rầu và kêu lên : thế hệ cứng lòng tin (19). Vì họ không tin, nên phép lạ đã không xảy ra. Chúa Giêsu truyền đem đứa bé lại gần Người. Trước tôn nhan Chúa, quỷ tỏ rõ sức mạnh và khống chế đứa bé bằng cách : lay nó thật mạnh, quật ngã xuống, làm cho lăn lộn và sùi bọt mép… Chúa Giêsu hỏi người cha về thời gian ma quỷ đã cầm tù cháu bé. Một lần nữa, ông được dịp bộc bạch tâm lòng và kể lại những tình huống bi thảm hơn như : quỷ xô vào lửa, đẩy xuống nước… và ông nài xin lòng thương xót của Chúa. Nhưng trong lời van xin ấy, ông vẫn chưa đặt trọn tin tưởng vào Chúa Giêsu “ Nếu Thày có thể làm được gì…” (22).
Trước khi Chúa Giêsu chữa trị thân xác cho đứa con, Người cũng mở đôi mắt tâm hồn cho người cha “Sao lại nói : Nếu Thày có thể? Mọi sự đều có thể đối với kẻ tin” (23). Ngay lập tức, người cha đau khổ tuyên xưng đức tin “ Tôi tin” và xin Chúa Giêsu thương xót và nâng đỡ lòng tin non yếu của ông (24). Chỉ chờ có thế, Đức Giêsu đã thực hiện một phép lạ chữa lành. Phép lạ này xuất phát từ lòng thương xót của Người, không những đối với thân xác đứa con mà cả tâm hồn của người cha nữa.
Từ câu 25 đến câu 27, chúng ta thấy thánh sử mô tả như là nguyên nhân mà Chúa Giêsu thực hiện phép lạ “khi thấy đám đông tuôn đến…”. Chúa chữa trị, xua trừ ma quỷ khi có đám đông chứng kiến. Điều này có đối nghịch với sự ẩn giấu uy quyền Thiên Chúa nơi Người hay không? Có lẽ ở đây, Chúa muốn cho dân chúng biết thời đại Mêsia đã đến. Thiên Chúa đã viếng thăm dân Ngài và Ngài đến để chiên được sống và sống dồi dào. Hơn nữa, Chúa cũng muốn củng cố niềm tin cho các môn đệ, để các ông vững tâm cùng Chúa tiến lên Giêrusalem, đi vào cuộc Vượt Qua của Chúa.
Với hai câu cuối là một bài học thiết thực trong đời sống tông đồ, mà chính Chúa đã nêu gương trong đời sống thường ngày, đó là : cần cầu nguyện. Với một người Kitô hữu, lương thực nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng là sự tương giao với Thiên Chúa. Đức Thánh Cha Phanxicô trong các bài gỉang, ngài luôn nhắn gửi chúng ta cần cầu nguyện không ngừng… Dù người đó là giáo dân hay tu sĩ, linh mục, dù người đó già trẻ, lớn bé, giàu sang hèn kém, cũng phải cần đến ơn trợ lực của Thiên Chúa, vì “không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” ..
Thật thế, chỉ trong cầu nguyện chúng ta mới có tương quan kết hợp gắn bó với Chúa, mới có được sức mạnh từ Thiên Chúa để chống trả với thế gian, ma quỷ và xác thịt. Sức mạnh duy nhất của người môn đệ có được khi họ luôn đặt mình trước sự hiện diện của Thiên Chúa trong lòng tin và tình mến. Với những ai tin và yêu, người đó sẽ chiến thắng đau khổ, thử thách, ngay cả sự chết … khi họ biết dựa trên lòng thương xót và quyền năng cứu độ của Thiên Chúa.
Các môn đệ đã không hiểu lý do tại sao họ không trừ quỷ cho em bé này được. Chúa Giê-su trả lời ngay rằng họ thiếu đức tin. Chúa không nói họ không có đức tin nhưng vì đức tin của họ chưa đủ, còn non yếu. “Mọi sự đều có thể với người tin”.
Giáo lý Công giáo dạy chúng ta rằng: “Đức tin là ơn nhưng không mà Thiên Chúa ban cho con người. Chúng ta có thể đánh mất ơn vô giá này… Để sống, tăng triển và bền vững đến cùng trong đức tin, chúng ta phải nuôi dưỡng bằng Lời Chúa; chúng ta phải cầu xin Thiên Chúa tăng thêm đức tin (Lc 17,5; Mc 9,24; đức tin phải “hành động qua đức ái” (Gl 5,6), được cưu mang bởi niềm hy vọng và được ăn rễ sâu trong đức tin của Giáo Hội” (Số 160-162).
Dù đức tin là một ân huệ của Thiên Chúa, nhưng nó cần sự cộng tác của chúng ta để lớn lên và tăng trưởng. Giống như việc tập luyện thể thao, nâng được tạ, thì cần cơ bắp phát triển. Đức tin phải được thực hành, được thử thách và được nuôi dưỡng. Nếu hài lòng với đức tin nhỏ bé mình đang có, thì ‘cơ bắp’ thiêng liêng chỉ là còi cọc. Chúng ta cần phải vun trồng cho đức tin trưởng thành và bền vững. Nuôi dưỡng bằng các sách vở thiêng liêng và cầu nguyện hằng ngày. Thường xuyên lãnh các bí tích thì mới làm cho đức tin vững mạnh được.
2023
Vinh quang của Chúa
18.2 Thứ Bảy trong tuần thứ Sáu Mùa Quanh Năm
Dt 11:1-7; Tv 145:2-3,4-5,10-11; Mc 9:2-13
Vinh quang của Chúa
Tin Mừng hôm nay tường thuật việc Chúa Giêsu dẫn các môn đệ lên núi và Chúa biến hình trên đó.
Theo quan niệm của người Do thái núi cao là nơi Chúa ngự. Vì thế lên núi là đi gặp gỡ Chúa. Lên núi là một việc làm đòi nhiều cố gắng. Phải dứt bỏ khỏi những ràng buộc của cuộc sống thường ngày với những lo toan bận bịu cho bản thân, cho gia đình. Phải dành thời giờ rộng rãi cho việc leo núi. Phải phấn đấu với bản thân khi leo lên độ cao dốc dác khó đi. Nhưng lên đỉnh rồi ta sẽ thấy tâm hồn nhẹ nhàng thư thái.
Chúa Giêsu chỉ đưa theo ba môn đệ thân tín vì gặp gỡ với Chúa là một gặp gỡ thân tình. Chúa muốn ta đến với Chúa trong tình thân mật. Chúa muốn cùng ta thực hiện một tương giao giữa tâm hồn với tâm hồn. Chúa muốn cùng ta đối thoại riêng tư diện đối diện. Tình yêu triển nở trong thiên nhiên và trong thanh vắng. Núi cao thanh vắng là nơi chốn thuận tiện cho ta đón nhận tình yêu của Chúa và bày tỏ với Người tình yêu của ta.
Trên núi cao, Đức Giêsu gặp gỡ thân mật với Chúa Cha. Bỗng chốc Người biến hình. Y phục trở nên trắng như tuyết. Khuôn mặt Người sáng láng. Thực ra, ai gặp được Chúa cũng đều biến hình. Ta hãy nhớ lại ông Môsê. Sau khi ở trên núi Sinai 40 đêm ngày tiếp xúc thân mật với Chúa, mặt ông trở nên sáng láng đến độ, khi ông xuống núi, dân chúng không dám nhìn vào. Ông phải lấy khăn che mặt, dân chúng mới dám đến gần ông. Gần đèn thì sáng.
Tiếp xúc thân mật với Chúa sẽ làm thay đổi tâm hồn ta. Tình yêu của Chúa sẽ đốt nóng tâm hồn ta, xua đi sự thờ ơ nguội lạnh. Sự dịu dàng của Chúa sẽ làm cho ta bớt đi tính độc ác khắc nghiệt. Sự khiêm nhường của Chúa sẽ diệt trừ thói kiêu căng trong ta. Sự bao dung của Chúa sẽ mở rộng tâm hồn để ta biết đón nhận anh em. Sự tha thứ của Chúa đổi mới tâm hồn, rửa sạch mọi nhơ uế trong ta. Càng gần gũi Chúa, tâm hồn ta càng được thanh luyện khỏi mọi nhỏ nhen, ích kỷ. Càng yêu mến Chúa, ta càng thêm yêu mến anh em. Càng kết hiệp mật thiết với Chúa, tâm hồn ta càng nên giống Chúa hơn.
Các môn đệ chứng kiến việc Chúa Giêsu đàm đạo với các ông Môsê và ông Êlia. Thánh Phêrô thích quá muốn ở lại luôn trên núi : « Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay ! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê và một cho ông Êlia » (Mc 9,5).
Để lên núi người ta phải từ bỏ những gì là cồng kềnh, nặng nề, cản trở, vướng víu, nghĩa là hành trang phải thật đơn giản và gọn nhẹ. Và thay vì kiêu căng, ích kỷ, ngạo mạn, người ta phải từ bỏ cái tôi ích kỷ, cái tôi của kiêu ngạo để lên núi gặp Thiên Chúa. Để gặp gỡ được Thiên Chúa, bài đọc một hôm nay cho chúng ta biết là phải có lòng tin. Chính vì có lòng tin mà các tổ phụ được gặp Thiên Chúa ; đồng thời đức tin sẽ biến đổi tâm hồn mỗi người và đức tin là bảo chứng giúp chúng ta đi vào mầu nhiệm cuộc khổ nạn của Chúa với niềm cậy trông và tín thác.
Ta thấy Chúa tỏ hiện đúng dung nhan thật của Ngài. Một dung nhan thánh thiện rạng ngời mà bấy lâu nay nhân tính đã che phủ thiên tính của Ngài. Một dung nhan tinh tuyền của một vì Thiên Chúa là Thánh, ngàn trùng chí thánh đến nỗi cả ba môn đệ đều ngây ngất vì được chiêm ngắm dung nhan thật của Thầy Giêsu. Ba môn đệ đã cúi mình kính phục trước dung nhan thật của Chúa Giêsu. Đó chính là sứ điệp mà Chúa đang mời gọi chúng ta: hãy tỏ hiện dung nhan thật của chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa ra trong lời nói và việc làm của mình. Hãy thể hiện sự thánh thiện của hình ảnh Thiên Chúa nơi chính mình để anh em được chiêm ngưỡng. Hãy biểu lộ lối sống tinh tuyền, chân thật của phẩm giá làm ngừơi để anh em được hạnh phúc khi sống với chúng ta.
Chúa hiển dung nghĩa là Chúa tỏ hiện đúng dung nhan thật của Ngài. Một dung nhan thánh thiện rạng ngời mà bấy lâu nay nhân tính đã che phủ thiên tính của Ngài. Một dung nhan tinh tuyền của một vì Thiên Chúa là Thánh, ngàn trùng chí thánh đến nỗi cả ba môn đệ đều ngây ngất vì được chiêm ngắm dung nhan thật của Thầy Giêsu. Ba môn đệ đã cúi mình kính phục trước dung nhan thật của Chúa Giêsu. Đó chính là sứ điệp mà mùa chay đang mời gọi chúng ta: hãy tỏ hiện dung nhan thật của chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa ra trong lời nói và việc làm của mình. Hãy thể hiện sự thánh thiện của hình ảnh Thiên Chúa nơi chính mình để anh em được chiêm ngưỡng. Hãy biểu lộ lối sống tinh tuyền, chân thật của phẩm giá làm ngừơi để anh em được hạnh phúc khi sống với chúng ta.
Hãy gạn đục khơi trong để hình ảnh của Chúa được tỏ hiện ra nơi bản thân của chúng ta. Hãy tìm lại hình ảnh tinh tuyền ban đầu của mình, một hình ảnh chưa bị lòng ham muốn danh lợi thú làm hoen ố, mới thấy phẩm giá cao đẹp của con người thật cao qúy hơn muôn loài. Có ý thức được sự cao qúy nơi phẩm giá làm người mới biết trân trọng và gìn giữ cho mình và cho anh em.
2023
ĐIỀU KIỆN ĐỂ THEO CHÚA
17.2 Thứ Sáu Thứ Sáu trong tuần thứ Sáu Mùa Quanh Năm
St 11:1-9; Tv 33:10-11,12-13,14-15; Mc 8:34; Mc 9:1
ĐIỀU KIỆN ĐỂ THEO CHÚA
Bất cứ ai muốn thành công về một lãnh vực nào đều phải trải qua một giai đoạn gọi là “thử thách”để tiến tới mục tiêu của mình. Lời Chúa hôm nay cũng mời gọi mỗi người lên đường, bước theo Đức Ki-tô, vì Ngài là hạnh phúc đích thực dẫn đưa chúng ta tới Nước Thiên Chúa. Vậy, làm thế nào để có thể thành công trong việc đi theo Ngài? Tin mừng thánh Mac-cô thuật lại: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”(c.34).
Sau khi nghe Phêrô nói lên sự thật: “Thầy là Ðức Kitô”, thì Chúa Giêsu xác định rõ hơn thế nào là Kitô theo quan điểm của Thiên Chúa. Chúa Giêsu không ngần ngại minh định tư cách Kitô của mình, đó là một Ðấng Kitô theo hình ảnh của Người Tôi Tớ Yavê như được nhắc đến trong sách Tiên tri Isaia. Ngài sẽ không là Ðấng Kitô theo ý riêng của mình, nhưng hoàn toàn theo ý Thiên Chúa Cha như đã được tiên báo nơi hình ảnh người tôi tớ Thiên Chúa và ngày càng được mạc khải rõ hơn nơi Người Con yêu dấu của Thiên Chúa; Thiên Chúa muốn Ngài hoàn thành kế hoạch bằng chính đau khổ và cái chết của Ngài. Mạc khải ấy lẽ ra phải được các môn đệ đón nhận với cảm thông và chia sẻ. Phêrô đã đại diện các Tông đồ để tuyên xưng: “Thầy là Ðức Kitô”, nhưng chỉ tiếc liền sau đó, ông đã không hoàn toàn cảm nghĩ theo cách thức Thiên Chúa, nhưng đã theo cách thức nhân loại. Phêrô phản đối thái độ vâng phục của Chúa Giêsu, và một cách vô tình, ông đã lôi kéo Ngài ra khỏi tư cách Kitô.
Chúa Giêsu chẳng những quở trách Phêrô, Ngài còn đưa ra một giáo huấn quan trọng: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta”. Từ nay cả Phêrô lẫn những ai muốn làm môn đệ Chúa đều phải sống thân phận tôi tớ như Chúa. Nhưng Ngài còn thêm: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất”. Làm tôi tớ Thiên Chúa, từ bỏ chính mình, vác thập giá, đồng nghĩa với chấp nhận hy sinh mạng sống mình vì Tin Mừng. Nếu có bao giờ con người cảm thấy ngại ngùng với những yêu sách đó, thì cần phải nhớ một lời cảnh giác của Chúa cũng như trong bối cảnh đó: “Ai hổ thẹn chối Ta và các lời Ta, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn chối nó, khi Ngài đến trong vinh quang Cha Ngài với các thánh thiên thần.”
Nói đến từ bỏ, dù chỉ là một thói quen không tốt nho nhỏ, cũng không mấy ai ưa thích. Vì nói đến“từ bỏ”là đụng chạm đến “hy sinh”, mà hy sinh thì phải chịu đau đớn, thiệt thòi, mất mát…. Cũng như nói đến “tình yêu”thì đụng đến “tự do”, mà muốn được tự do thì phải dấn thân, mạo hiểm… Chính sự mạo hiểm này nói lên sự bấp bênh trong chọn lựa của chúng ta, nhưng càng bấp bênh bao nhiều thì sự hy sinh và từ bỏ chính mình càng cao quý bấy nhiêu, nhất là khi chúng ta “từ bỏ chính mình” cho một lý tưởng, một tình yêu nào đó hoặc cho một Ai đó rất đặc biệt, rất quan trọng trong cuộc đời của chúng ta. Chúa đã từng nói:“Ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”là vậy (x.Mc 8,35). Tuy nhiên, từ bỏ chính mình để theo Đức Giêsu không phải chỉ quyết tâm một lần là đủ, mà là một thái độ luôn sẵn sàng từ bỏ trong từng phút giây của cuộc sống.
Như thế, việc “từ bỏ chính mình”vì Chúa, thì chúng ta chẳng thua lỗ tí nào. Trái lại, chúng ta từ bỏ cái mau qua để có được sự sống vĩnh hằng; từ khước cái tương đối để được cái Tuyệt Đối là chính Đức Kitô; và từ bỏ cái thân xác tội lỗi để có được sự sống đời đời.
Đối với các tín hữu Do Thái ngày xưa, thập giá chính là án tử hình nặng nhất, nhục nhã và khủng khiếp nhất của luật hình La mã. Những tín hữu đã bị bắt bớ và lãnh án xử tử thập giá, thì quả là một chuyện khủng khiếp đối với họ. Vậy mà Đức Giêsu lại mời gọi chúng ta vác cái ô nhục đó để đi theo Ngài!
Lời mời gọi của Đức Giêsu xem ra là một nghịch lý cho cuộc đời, nhưng đối với Thiên Chúa, đó không phải là một ô nhục hay là sự điên rồ mà họ lầm tưởng; trái lại, đó là một dấu chỉ chiến thắng của tình yêu mà chính Đức Kitô đã đón nhận đau khổ trên thập giá bằng một giá rất đắt, một thái độ vâng phục và phó thác cho thánh ý Chúa Cha để trở nên máng chuyển thông ơn cứu độ cho loài người chúng ta. Vì vậy, khi nhìn lên cây thánh giá có Chúa Giêsu hiện diện, nhắc nhở chúng ta ý nghĩa của sự đau khổ mà Chúa Giêsu đã chịu để chúng ta được tham dự vào mầu nhiệm cứu độ và phục sinh vinh quang của Người. Ước gì tình yêu thập giá chiếu sáng những ai muốn làm môn đệ của Chúa Giêsu vác lấy mà đi theo Người.
Phải vác thập giá, phải từ bỏ mình, nguy cơ to lớn như vậy không phải là sự thiệt thòi, mất mát đâu. Trái lại, đó chính là một mối lợi. Thật là điều nghịch lý: người môn đệ lấy Đức Kitô làm con bài chủ trong cuộc chơi của mình, người ấy là kẻ thắng cuộc. Mất, chính là được với điều kiện là sự mất mát này là vì Chúa Giêsu và vì Phúc âm. Một cuộc sống chịu thiệt thòi ví Chúa Giêsu và vì Phúc âm như thế được coi như một sự thất bại xét về mặt hoàn toàn trần thế giống như cuộc đời của Chúa Giêsu vậy; nhưng nó lại là một sự hoàn bị, đạt tới mức tròn đầy, bởi lẽ đó là một cuộc đời hoàn toàn quy hướng về Chúa. Trong chiều hướng ngược lại, con người chỉ tìm tán dương, tâng bốc, đề cao cái “tôi” của mình, chỉ muốn giữ mạng sống mình cho riêng mình thôi, người ấy có thể chắc chắn đánh mất cuộc sống ấy, không đạt được đích là sự thăng hoa đích thực. Và cho dù có giầu sang bạc ngàn bạc triệu, người ấy cũng sẽ không có thể dùng tiền mua được cho mình sự sống của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đặt nét chấm phá cho bức họa chân dung người môn đệ bằng một câu nhấn mạnh đến tầm quan trọng của chứng từ: không hổ thẹn vì Chúa Giêsu. Lòng tin của người môn đệ không phải là một chuyện riêng tư; đức tin ấy đòi hỏi được biểu lộ và khẳng định công khai cho dù gặp phải những khó khăn. Lòng tin không phải là chiếc áo, vui thì mặc vào, còn khi gặp phiền hà rắc rối thì rũ bỏ.
Chúng ta có là môn đệ của Chúa Kitô không? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cần tự hỏi mình xem ta cảm nghĩ thế nào, có tâm tình gì khi người ta nói đến đạo Chúa, Giáo hội, Chúa Kitô… khi ta đang làm việc, ở trong gia đình, hay trong mối quan hệ xã hội bạn bè. Chúng ta có dám đứng về phía Chúa Giêsu Kitô, không ba hoa. khoa trương, nhưng kiên quyết và xác tín? Đối với người môn đệ, việc bày tỏ và khẳng định niềm tin của mình không phải là chuyện tùy tiện.
2023
THẦY LÀ ĐẤNG KITÔ
16.2 Thứ Năm Thứ Năm trong tuần thứ Sáu Mùa Quanh Năm
St 9:1-13; Tv 102:16-18,19-21,29,22-23; Mc 8:27-33
THẦY LÀ ĐẤNG KITÔ
Trong tương quan thầy trò gần gũi, điều quan trọng là phải hiểu nhau cho đúng cho đủ, để rồi mới có thể tin tưởng và yêu thương lẫn nhau. Trước câu hỏi đó, đại diện cho nhóm 12, Phêrô lên tiếng tuyên xưng “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Đây mới thực sự là câu trả lời Chúa Giêsu muốn nghe, vì các ông biết đích xác Ngài là Đức Kitô có nghĩa là Đấng được xức dầu để làm vua. Người nghiêm giọng truyền các ông không được nói điều ấy với ai, vì người Do Thái đang chờ đợi một Đấng Thiên Sai khác với những gì Ngài sắp mặc khải cho các Tông Đồ.
Câu trả lời của Phêrô về vị thế của Chúa Giêsu rất chuẩn mực, khác xa với những nhận định của người Do thái đương thời. Thế nhưng làm sao Phêrô lại có được một cảm nhận sâu xa về vị thế của Chúa Giêsu nếu không bởi ân ban từ trời.
Câu hỏi “Đức Giêsu là ai?” không phải chỉ quan trọng cho Tiểu Vương Hêrôđê mà còn quan trọng hơn cho các Tông Đồ, những người đang theo Chúa Giêsu. Nếu các Tông Đồ không biết đúng Ngài là ai thì làm sao các ông có thể tiếp tục sứ vụ của Chúa. Nhất là khi các ông phải đối diện với những đau khổ và cái chết sắp tới của Ngài.
Mở đầu trình thuật, ta được đặt vào trong bầu khí cầu nguyện của Chúa Giêsu, Ngài cầu nguyện một mình. Đây là thời gian quý giá để Chúa gặp gỡ Chúa Cha; đồng thời cũng là khoảng thời gian riêng tư với các Tông Đồ. Trong lúc này, Chúa Giêsu lên tiếng hỏi các môn đệ: “Dân chúng nói Thầy là ai? ” Đây là câu hỏi liên quan đến dư luận đang bàn tán gì về căn tính của Chúa. Theo dư luận đồn thổi, thì họ coi Chúa Giêsu là tiên tri Êlia hoặc Gioan Tẩy Giả hay một tiên tri nào đó xuất hiện trở lại.
Sau khi lắng nghe những lời đồn thổi đó, Chúa Giêsu không bàn luận tới sự đồn thổi và nhận xét của dư luận. Ngài không quan tâm đến điều đó. Bỏ dư luận qua một bên, Ngài muốn biết các Tông Đồ nhận xét Ngài là ai. Vì thế, Chúa Giêsu lại hỏi các ông: Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Đây là một điều thật đặc biệt.
Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta cũng thường dễ dàng nhận định về người khác theo nhãn quan tự nhiên, dựa vào những khả năng, uy tín, địa vị, bằng cấp. Nhưng có lẽ nhiều khi nhận định của con người lại rất khác xa với thực tại sâu thẳm của nhân vật ấy.
Phêrô đã mau mắn nhận định Chúa Giêsu là Đấng Kitô theo ơn soi sáng của trời cao là một bài học đáng giá cho mỗi người chúng ta. Thiên Chúa luôn mời gọi chúng ta hãy nhìn người khác bằng ánh mắt yêu thương, nhân từ, cảm thông, tin tưởng như chính Ngài nhìn họ. Chỉ khi nào chúng ta biết nhìn tha nhân bằng cái nhìn bao dung quảng đại ấy, chúng ta mới có thể nhận ra họ là ai, và nhất là nhận ra Thiên Chúa đang ẩn mình trong tất cả những người chúng ta gặp gỡ trên hành trình cuộc sống. Chúng ta hãy khẩn nài Thiên Chúa ban cho chúng ta một cái nhìn như thế khi đứng trước một người anh em đồng loại, dù họ có là ai đi nữa.
Đức Kitô mà Phêrô vừa tuyên xưng lại là Đức Kitô không như mọi người khát vọng, và ngay cả chính Phêrô cũng lầm lẫn về Ngài như thế. Thật vậy, sau lời tuyên xưng thật xác quyết: “Thầy là Đấng Kitô”, Phêrô đã phải vô cùng ngạc nhiên và bắt đầu trách Ngài. Lời trách cứ của Phêrô đã làm Chúa Giêsu phải nặng lời với ông : “Xa tan, lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.” (c.33).
Ở đây Chúa Giêsu đã phân định cho chúng ta thấy rõ ranh giới giữa tư tưởng cao siêu của Thiên Chúa và tư tưởng thấp hèn của con người đầy giới hạn. Chúng ta thường suy nghĩ, nhận định về con người hay sự kiện theo nhãn quan rất tự nhiên, nên sai lầm là chuyện thường tình của con người. Điều quan trọng là làm sao chúng ta đủ khiêm tốn để nhận ra những giới hạn của bản thân để cậy nhờ vào ơn Chúa soi sáng trong mọi tình huống của cuộc sống.
Người Do thái và cả thánh Phêrô chỉ biết nhìn về Đấng Kitô sẽ là Vua bách chiến bách thắng giải thoát dân khỏi ách nô lệ của ngoại bang, và lên ngôi thống trị đầy vinh quang danh dự. Họ luôn khát mong một Đấng Kitô như thế. Nhưng tất cả chỉ là nghĩ suy của con người, không phải của Thiên Chúa. Đấng Kitô của Thiên Chúa đích thực là Đấng phải kinh qua nhiều đau khổ, tủi nhục, bị giết chết, rồi sẽ sống lại.
Phêrô đã không thể chấp nhận sự thật ấy, nên đã bị Chúa khiển trách. Khi đứng trước cuộc khổ nạn của Chúa, ông vẫn còn nghi ngờ, ái ngại, rồi chối Chúa những ba lần. Nhưng sau ánh nhìn yêu thương tha thứ của Chúa, ông đã hối hận sâu sa suốt cuộc đời. Để rồi sau biến cố Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần đã biến đổi ông hoàn toàn để từ đó, ông hăng say loan báo về một Đấng Kitô đích thực của Thiên Chúa, và đã dùng chính cái chết của mình để chứng minh tình yêu và niềm tin vào Đấng Kitô. Bài học của Phêrô thật cụ thể và sống động cho mỗi chúng ta hôm nay trong môi trường đầy nhiễu nhương và phức tạp này.
Để có được cái nhìn chân thực nhất về Thiên Chúa và thánh ý Ngài, chúng ta cần có ơn Chúa Thánh Thần soi sáng hướng dẫn. Nhưng chỉ trong sự thinh lặng sâu xa của nội tâm, chúng ta mới có thể nhận ra tiếng nói của Ngài. Thế nên, chúng ta cần đẩy xa khỏi tấm lòng những ồn ào náo động của đam mê, thú vui, hưởng thụ với bao toan tính của trần thế, để dễ dàng nhận ra tiếng Ngài.
Đấng Kitô phải kinh qua đau khổ, sự chết mới bước vào vinh quang. Cuộc sống hôm nay của mỗi người chúng ta cũng đầy dẫy bao thương đau khổ sầu, với nhiều thử thách trăm bề. Tất cả đều là những cơ hội để chúng ta bước theo lối đường thương đau của chính Ngài, Đấng đã đi trước và luôn đồng hành với chúng ta. Ý thức giá trị cứu độ cao quý từ những đau khổ trong cuộc sống, chúng ta sẽ dễ dàng đón nhận tất cả với niềm tin yêu phó thác vào tình thương cứu độ của Đức Kitô. Chỉ trong niềm tin vào Thiên Chúa, vào thập giá Đức Kitô, những đau khổ đời này mới được đóng ấn một ý nghĩa và giá trị cao quý, là cửa ngõ đưa chúng ta vào vương quốc yêu thương Nước Trời, nơi Đức Kitô thật sự là Vua muôn vua, Chúa các chúa.
Xin cho những tâm hồn chưa nhận biết Chúa là Vua đích thực của cuộc đời, được lắng nghe, hiểu biết và cảm nhận sâu xa về tình thương cứu độ của Chúa, qua đời sống chứng tá đầy yêu thương và phục vụ, biết can đảm vui tươi đón nhận mọi đau khổ thử thách Chúa gởi đến trong cuộc đời chúng con.