2023
Giá trị của thinh lặng
20.3 Thứ Hai Thánh Giuse Bạn Đức Mẹ Maria
Is 65:17-21; Tv 30:2,4,5-6,11-13; Ga 4:43-54
Giá trị của thinh lặng
Chỉ có Tin Mừng Mátthêu và Luca mới nói về thánh Giuse. Theo hai thánh sử, Giuse thuộc chi tộc Đavít: người được xem như dây liên hệ giữa dòng dõi Đavít với Đấng Mêsia.
Những chặng đường đời của thánh Giuse cũng được thấy rõ: thánh nhân là con người của niềm tin và phó thác, một người được chia sẻ để hiểu biết Mầu Nhiệm của Thiên Chúa. Thánh nhân là người sống thinh lặng, được Thiên Chúa chọn làm Bạn Trăm Năm của Đức Trinh Nữ Maria. Người cũng được trao phó việc chăm sóc con Thiên Chúa, như một người cha.
Thánh nhân sống bao lâu, chúng ta không rõ. Lần cuối cùng chúng ta thấy người xuất hiện tại Giêrusalem là khi trẻ Giêsu lên 12 tuổi.
Giáo Hội Phương Tây chính thức tôn kính thánh Giuse vào thế kỷ XIV, XV. Thánh lễ hôm nay chỉ gặp được trong phụng vụ Rôma vào năm 1621. Đức Thánh Cha Piô XI công bố: Thánh Giuse là quan thầy của Hội Thánh.
Trong các sách Tin Mừng dù có nhắc tên Thánh Giuse đôi lần, nhưng không hề thuật lại bất cứ lời nào của thánh Giuse. Có lẽ không phải vì vô tình mà Thánh Kinh không ghi nhận một lời nào của Thánh Giuse, nhưng muốn đề cao giá trị của sự thinh lặng.
Thánh Giuse khong được các thánh sử cho “phát biểu” một câu nào trong cả bốn Tin Mừng, chỉ thấy Ngài làm theo những gì được truyền: nào là bỏ ý định toan tính trốn; nào là dắt Đức Maria và Hài Nhi Giêsu đi “tị nạn” bên Ai-cập… nhất nhất cái gì cũng làm theo lời chỉ dạy của Thiên Chúa. Sự vâng phục của thánh Giuse không phải là thứ vâng lời tối mặt, mù quáng. Để thực hiện sứ mạng, ngài không được Chúa ban cho sự can thiệp đặc biệt nào ngoài những lời báo tin của thiên thần. Thế nên phải thật khôn ngoan mưu lược, thánh Giuse mới hoàn thành sứ mạng đưa Hài Nhi và Mẹ Ngài thoát khỏi vòng vây trùng điệp của binh lính Hêrôđê để sang tới Ai Cập. Sự khôn ngoan của thánh Giuse càng thể hiện rõ khi hồi hương từ Ai Cập, ngài đã đưa thánh gia về Nadarét thay vì Bêlem. Thánh Giuse vâng phục thánh ý Chúa cách tuyệt đối, không máy móc mà đầy khôn ngoan và sáng tạo.
Thinh lặng giúp ta cảm nhận được vẻ đẹp.
“…Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều
Để nghe dưới đáy nước hồ reo
Để nghe tơ liễu run trong gió
Và để xem trời giải nghĩa yêu…”
Trong bài thơ “Đà Lạt Trăng Mờ”, nhà thơ Hàn Mặc Tử kêu mời ta hãy lắng đọng tâm hồn trong cỏi riêng tư để cảm nhận sâu xa vẻ đẹp thiên nhiên mà Thượng Đế yêu thương ban tặng cho. Chỉ có thinh lặng, ta mới chìm sâu vào tận đáy lòng mình để nhận ra đáy nước hồ reo, nghe thấy nhịp rung của liễu tơ và nhận ra tình yêu của đất trời.
Chính đời sống thinh lặng, Thánh Giuse mới có khả năng nhìn thấu được phía bên kia của những biến động làm xáo trộn cuộc sống của ngài. Chính trong thinh lặng ngài mới thấu suốt và tin tưởng vào những vẽ đẹp của ơn Chúa ban trước những biến cố đầy sóng gió xảy đến cho gia đình mình.
Người đời thường nói: “Lời nói là bạc, im lặng là vàng”. Thinh lặng hơn nói, vì nói chỉ là bạc mà im lặng mới là vàng, là vàng thì bao giờ cũng quí hơn bạc. Như thế thinh lặng được ví như một chuẩn mực của đạo đức, một tiêu chí của khôn ngoan thông thái.
Ông bà ta vẫn nói “Ngôn giả bất tri, tri giả bất ngôn” (Người không biết thì lại lắm mồm vì tưởng người khác không biết như mình, người biết thì lại không nói vì nghĩ rằng mọi người đều biết”.).
Trong thinh lặng đầy khôn ngoan, Thánh Giuse đã âm thầm bảo vệ che chở Đức Maria và nuôi dưỡng Hài Nhi Giêsu trong bầu khí ấm êm của một gia đình hợp pháp. Cho nên Heidegger mới khuyên chúng ta thực tập thinh lặng, bớt nói, bớt phát biểu, bớt bàn tán….không phải để ta nên ngu muội, vô tri, nhưng để cho tâm khảm suy nghĩ hoà quyện với sinh linh vạn vật, và chỉ khi đó chúng ta mới có thể thấu đạt hết mọi ngóc ngách, thông tường mọi thế thái, biến chuyển trong sự biểu đạt khôn cùng của nhân sinh, của nhiên giới.
Thinh lặng để thấu đạt được cái vô thường, cái bất biến, cái trường cửu của đất trời. Thinh lặng để thấu triệt được nội quan cũng như ngoại giới. Thinh lặng đễ thấy ta là nhỏ bé, là mong manh, là hạn hữu trong mênh mông, bao la, vô hạn giới của đất trời, của vũ trụ thường hằng và vô biên. Thinh lặng để chuyển tải nhiều hơn, thinh lặng để nói nhiều hơn, để nghe nhiều hơn, để thấu đạt nhiều hơn, có lẽ cũng đáng giá lắm thay sự thinh lặng ấy!
Trong chính sự thinh lặng của đêm vắng, Thánh Giuse đã nhận ra được ý muốn của Chúa, lắng nghe được Lời Chúa nói. Phân biệt được điều gì đúng, điều gì sai và chọn lựa cách thế thực hiện như thế nào đẹp ý Chúa nhất. Vì thế ngài được gọi là “người công chính”: làm theo ý Chúa.
Giữa bao triết lý và lắm luồng tư tưởng trong xã hội này, ta phải chọn lựa như thế nào? Giữa những nền văn hóa đa dạng và những nền văn minh phức tạp, ta biết đâu là đúng, đâu là sai? Có lẽ ta hãy học thinh lặng như thánh Giuse, để lắng đọng tâm hồn, bình tĩnh lắng nghe tiếng Chúa nói. Khi nghe được tiếng Chúa, ta phải cương quyết chọn lấy cho mình con đường. Đó là sống cho nền văn minh tình thương và văn hoá của sự sống theo gương Thánh Giuse.
2023
Tự mãn và khinh người
18.3 Thứ Bảy Thứ Bảy trong tuần thứ Ba Mùa Chay
Hs 6:1-6; Tv 51:3-4,18-19,20-21; Lc 18:9-14
Tự mãn và khinh người
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay mang tính ngụ ngôn, nhưng thực tế, trong cuộc sống hôm nay, vẫn còn đó rất nhiều người có tư tưởng khiêm tốn như ông lão trong câu chuyện trên. Thiết nghĩ, một lần khiêm tốn kiểu đó phải chăng bằng bốn lần kiêu ngạo! Nó thật giống với người Pharisêu trong bài Tin Mừng hôm nay.
Dụ ngôn kể về việc hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một Pharisêu và một thu thuế. Hai người này là điển hình của hai thành phần cực đoan, thái quá trong dân Dothái thời bấy giờ.
Với nhóm Pharisêu thì bảo thủ, kiêu ngạo, tự coi mình là người thành toàn, nắm toàn bộ lề luật và trở thành kiểu mẫu cho mọi người. Điều này được chứng minh qua lời cầu nguyện của ông với Thiên Chúa. Ông kể lể: “Con không gian tham, không bất công, không ngoại tình, không như người thu thuế đằng sau”; “một tuần ăn chay hai lần và dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”.
Còn người thứ hai, bác thu thuế. Người thu thuế thì ai cũng biết, biết về tội ác của ông là phản bội và cấu kết với đế quốc La mã để hà hiếp, bóc lột, vơ vét của cải nhân dân. Vì thế, họ bị dân chúng khinh bỉ vì tội công khai của họ. Chính vì lý do đó, nên chúng ta dễ hiểu là tại sao ông thu thuế này lại đứng đằng xa, không dám ngẩng đầu lên, vừa đấm ngực vừa cầu nguyện rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”.
Kết cục, hai người ra về và người thu thuế thì được Chúa nhận lời, còn người Pharisêu thì không những không được Chúa nhận lời mà lại còn phạm thêm tội vì coi khinh người khác ngay khi cầu nguyện.
Người biệt phái này không đến nỗi xấu, ông ăn chay hai ngày một tuần, ông dâng cúng một phần mười hoa lợi kiếm được. Thật là một viên ngọc quý mà chẳng có ai trong giáo xứ có thể làm được như vậy. Đừng khiển trách ông đứng cầu nguyện, đó là thói quen của người Do thái. Ông khoe khoang không ai bằng, đáng nực cười. Ông chẳng có chút gì là nhân đức, ông cảm ơn Chúa đã sống như thế.
Đến lượt người thu thuế, ông không dám bốc thơm mình. Đáng lẽ ra, ông vừa đứng xa xa sấp mình xuống chất run rẩy cầu nguyện, ông vừa lo trả tiền của lại cho những người nghèo đã bị ông bóc lột thì tốt hơn. Nhưng người thu thuế đã mang tiếng là hạng làm giàu bầng cách lạm thu.
Chúng ta cũng hèn nhát chê người biệt phái : “Tôi không giả hình như hạng cuồng tín đó. Tôi có nhiều lỗi, tôi khô khan cứng cỏi với người khác, tôi lười biếng… Nhưng tôi không mắc nợ ai”. Đó cũng là cách nói như hạng biệt phái, chẳng có gì tốt cả. Bài học lịch sử này không phải là so sánh hai hạng người, làm thế là đáng ghét, nhưng chính là để nhắc nhở chúng ta đến lời thánh Phaolô dạy chúng ta: “Chính nhờ đức tin làm cho chúng ta nên công chính, không có đức tin, chúng ta không đáng gì trước mặt Thiên Chúa”.
Đặc biệt, trường hợp người thu thuế làm sáng lên trong chúng ta một niềm hy vọng tuyệt vời, là những kẻ tội lỗi đừng bao giờ thất vọng và phải luôn hy vọng vào lòng thương xót tha thứ của Thiên chúa. Đức Giê-su luôn ban ơn cho những người thấy mình vô tài bất lực, thấy mình chẳng đáng công gì, chẳng có thể đền bù được tội lỗi mình, vì Đức Giê-su đã nói : “Tôi đến không phải cứu chữa những người khỏe mạnh, nhưng cứu chữa những người bệnh tật”. Đừng bao giờ thấy mình hơn người khác, kẻo đi vào vết chân biệt phái.
Nhưng thái độ hai người trước mặt Thiên Chúa khác hẳn nhau. Người biệt phái đứng thẳng lên và đứng gần sát tòa Giavê ngông nghênh kể lể những thành quả đời mình làm được. Ông không ngờ chính những việc ông làm ấy lại trở thành cô ích mà còn thêm tội trước Giavê. Cái gì đã làm cho những công việc kia ra vô ích trướcThiên Chúa ? Thưa, sự tự cao tự mãn. Ông cầu nguyện rằng: “Tôi không như người thu thuế đứng đàng sau tôi kia”.
Nói như thế chưa chắc, vì tốt khoe xấu che, xấu xa đậy lại. Nói thế mà có sống thực như thế ? Nơi đền thờ này, người biệt phái này thấy chỉ có hai người: một người tội lỗi, còn một người công chính. Người công chính đó lại là ông. Và nếu như cả thế giới lúc ấy chỉ có một người công chính, thì người đó cũng chỉ có mình ông mà thôi. Đây trước Thiên Chúa mà giữ thái độ hợm mình như vậy thì có ích gì không ? Chúa nhìn tấm lòng chứ không của lễ (Tv 49. Mt 9,13).
Còn thái độ của người thu thuế khác hẳn. Oâng đứng thẳng lên. Đứng thẳng cũng là thói quen của người Do thái khi cầu nguyện (3V 8,55. Mt 6,5). Thế người thu thuế đứng nhưng lại đứng xa bàn thờ Thiên Chúa, cúi mặt đấm ngực, thống hối trước khi bắt đầu cầu nguyện. Ông rụt rè không dám ngửa mặt lên vì ông biết mình lầm lỗi nhiều về đức công bằng. Nhưng ông dám đứng lại đó vì ông thống hối và tin vào lòng từ bi. Lòng “thống hối khiêm nhường Chúa chẳng khinh chê”. Người thu thuế cầu nguyện “Xin thương con” (c.13). Xin thương con nghĩa là xin bớt cơn giận dữ, xin tha hình phạt mà ông đáng lãnh. Oâng tự nhận, ông không có phần nào đáng được Chúa thương, nên ông mới van xin năn nỉ…
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: đừng bao giờ coi khinh người khác khi cầu nguyện. Không được phán xét anh chị em của ta, trong khi mình cũng là kẻ có tội. Cầu nguyện là hướng tâm hồn lên với Chúa chứ không phải quy về mình.
Hãy khiêm tốn thật lòng như người thu thuế, Chúa cần những tâm hồn trung thực và thật tâm như vậy, bởi vì tình thương của Thiên Chúa lớn lao hơn tội lỗi của con người, chỉ cần con người thống hối ăn năn thì dù tội có đỏ như son thì Chúa cũng làm cho trắng như tuyết, có thẫm tựa vải điều, Chúa cũng làm cho trắng như bông.
Chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta nhận ra động lực thâm sâu đang tác động trên mọi việc làm của chúng ta. Ước gì động lục ấy không phải là tính phô trương như người Biệt Phái ở đây mà là tình yêuthương chúng ta đặt nơi Chúa cũng như nơi tha nhân. Khi đó chúng ta sẽ không còn ảo tưởng về chính mình, mà trái lại chúng ta sẽ nhận ra con người thực của chúng ta như người thu thuế trong dụ ngôn này.
Tâm tình và cử chỉ cũng như thái độ của người thu thuế trong dụ ngôn trên đây cũng phải là tâm tình, cử chỉ và thái độ của chúng ta giờ này. Hãy bầy tỏ tâm tình và thái độ đó để chúng ta được nên công chính trước mặt Chúa.
2023
Giới răn trọng nhất
17.3 Thứ Sáu Thứ Sáu trong tuần thứ Ba Mùa Chay
Hs 14:2-10; Tv 81:6-8,8-9,10-11,14,17; Mc 12:28-34
Giới răn trọng nhất
Trong tin mừng hôm nay, một luật sĩ đã hỏi Chúa Giêsu trong các giới răn, điều trọng hơn cả. Chúa Giêsu đã trả lời:” Giới răn trọng nhất là người hãy yêu mến Chúa hết linh hồn, hết sức lực, hết trí khôn”. Thiên Chúa là Đấng duy nhất làm chúa tể vủ trụ, cho nên không được tôn thờ một Chúa nào khác. Ngài là Chúa hay ghen, nghĩa là không chấp nhận chia sẻ tình cảm cho bất cứ một ai khác. ” Không ai có thể làm tôi hai chủ, và họ sẽ yêu chủ này và ghét chủ kia”. Và ngược lại. Ngài đòi hỏi một sự trung thành trong tình yêu đối với Ngài.
Giới răn thứ hai, đó là” người hãy yêu thương tha nhân như chính mình ngươi”. Chúng ta tin Chúa ngự trong tâm hồn và tuân giữ giới răn thứ nhất là yêu mến Ngài trên hết mọi sự, thì cũng phải giữ giới răn thứ hai vì có Chúa ở trong mọi người. Kinh thánh đã xác định với ta: nếu nói mình mến Chúa mà không yêu anh em, thì đó là kẻ nói dối.
Tất cả chúng ta đều thuộc mười giới răn Thiên Chúa được gồm tóm trong hai điều này là mến chúa và yêu người. Mười giới răn Thiên Chúa ban cho con người qua Môsê trên núi Sinai tóm trong hai ý đó, và hôm nay được Chúa Giêsu lặp lại qua hai câu đáp trả cho người luật sĩ. Chúng ta hãy cố gắng mỗi ngày trở lên giống Chúa hơn, mỗi ngày trở thành anh em với nhau, con cùng một Cha trên trời hơn.
Thiên Chúa của chúng ta trong Thánh Kinh Cựu Ước, được mệnh danh là một Thiên Chúa hay ghen, bởi đó mới có giới răn thứ I trong 10 giới răn của Chúa.
Trong Tân Ước cũng đã có lần Chúa Giêsu đưa ra đòi hỏi này khi Ngài khẳng định rằng :”Không có thể làm tôi hai chủ”.
Đàng khác Thiên Chúa của chúng ta, còn là Đấng đã tạo dựng nên chúng ta, ban muôn ơn lành cho chúng ta, và sau cùng, Ngài đã bắt Con Ngài phải chết thay cho chúng ta, để cho chúng ta được sống, sống dồi dào, sống sung mãn.
Như thế, nếu Ngài có đòi hỏi chúng ta yêu Ngài một cách tuyệt đối như thế thì cũng không có chi là lạ.
Vậy thế naò là yêu mến Chúa hết sức, hết linh hồn ?
Chắc chắn rằng khi đưa ra đòi hỏi này, Thiên Chúa không bắt chúng ta phải yêu mến Ngài bằng một tình cảm chóng qua, mà Ngài muốn chúng ta dành cho Ngài một tình trạng của tâm lòng chúng ta. Tình trạng ấy là sống dưới sự hiện diện của Ngài.
Như thế yêu mến Chúa hết lòng hết sức hết linh hồn, có nghĩa là sống dưới sự hiện diện của Ngài mọi nơi mọi lúc..
Nhưng thế nào là sống dưới sự hiện diện của Chúa ?
Như chúng ta biết, hiện diện là chung hiệp, là xuất ra khỏi chính mình để đến với người khác. Như thế thì hiện diện là một cuộc vượt qua khỏi cái tôi của mình, sát nhập với cái tôi của người khác, để làm thành cái chúng ta. Do đó khi hiện diện là chúng ta vừa trao mà cũng lại vừa nhận của nhau.
Thực tế là khi chúng ta sống dưới sự hiện diện của Chúa là chúng ta chấp nhận mất cái tôi của chúng ta, hay nói theo một kiểu khác, sống dưới sự hiện diện của Chúa là chúng ta khoét một cái lỗ trong bức tường thành kiên cố là cái tôi của chúng ta, để rồi từ đó, chúng ta nhìn lên Thiên Chúa. Nhìn lên Ngài để biết Ngài muốn gì nơi ta, nhìn lên Ngài để chờ Ngài hướng dẫn chỉ bảo, nhìn lên Ngài để thấy Ngài đang nhìn chúng ta, nghĩa là yêu thương chúng ta.
Thực ra chỉ khi hữu sự mới biết được tấm lòng người ta. Người Samaritanô đây sống theo luật vàng: mình sống phục vụ mọi người, phúc lợi của anh em là quan trọng, sự sống của anh em cũng là của mình… Chính Chúa Giêsu đã kết luận dụ ngôn này (c.37): “Hãy ra đi và làm như ông ta”. Chúa không bảo noi gương bậc tư tế hay thầy Lêvi mà là theo gương người ngoại giáo Samaritanô. Như vậy có phải là chua xót không. Biết đâu nếu như Chúa phải giảng dạy một lần nữa, không chừng Chúa sẽ chưng nguyên lại dụ ngôn này một lần nữa chăng ?
Đấy yêu thương người là như thế, là mất mát, là thiệt thòi, là liên lụy vì anh em mình. Một khía cạnh của yêu thương anh em là cho đi, cho đi bằng việc làm. Việc làm đây hiểu là sự giúp đỡ bằng lời nói can thiệp, bằng đời sống phục vụ tha nhân, bằng sức khỏe, bằng tiền của, bằng thời gian… Thật ra ý muốn tốt mà ta cho dù vô hình khó kiểm chứng được. Cho đi, bằng thái độ có thể bị coi là giả tạo bôi bác. Nhưng cho đi bằng tận tâm giúp đỡ, bằng chấp nhận gian khổ thì thấy rõ và dễ gây kết quả tốt. Và đó là cho người khác thấy được Thiên Chúa. Có biết bao nhiêu người đang nhìn qua chúng ta để thấy được Thiên Chúa.
Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy cầu xin Chúa cho nhau, luôn biết sống dưới sự hiện diện của Chúa. Sống như thế là chúng ta đang tuân giữ giới răn thứ nhất một cách hoàn hảo nhất. Và đó cũng là cách chúng ta đền đáp lòng yêu thương của Chúa dành cho chúng ta một cách đẹp lòng Chúa nhất.
2023
Đừng bôi nhọ người khác
16.3 Thứ Năm Thứ Năm trong tuần thứ Ba Mùa Chay
Gr 7:23-28; Tv 95:1-2,6-7,8-9; Lc 11:14-23
Đừng bôi nhọ người khác
`Trước một sự việc, có những phản ứng khác nhau tuỳ theo cái nhìn của mỗi người. Đồng thuận hay chống đối, tin nhận hay từ chối. Đó cũng là phản ứng lẫn lộn của đám đông dân chúng khi chứng kiến phép lạ trừ quỷ câm của Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay.
Tin Mừng hôm nay nói về một người đàn ông bị quỷ câm ám. Khi con quỷ này bị Chúa Giêsu đuổi đi, người câm nói được và nhiều người vô cùng kinh ngạc. Rất có thể người đàn ông này đã bị con quỷ này điều khiển hoàn toàn và anh ta đã bị làm mất đi khả năng nói. Khi được giải thoát khỏi con quỷ này, anh ta nói chuyện một cách tự do.
Đức Giêsu cũng rơi vào tình trạng trên khi bị dân chúng chụp cho Ngài thứ mũ hết sức đê hèn như:
Ngài trừ được quỷ là do liên minh với quỷ khi nhân danh tướng quỷ để trừ quỷ!
Tại sao họ lại vu khống và nói hành Đức Giêsu như vậy? Thưa chỉ vì một chuyện rất đơn giản, ấy là:
Đức Giêsu ngày càng uy tín trước mặt dân chúng vì những việc tốt đẹp và lời dạy khôn ngoan của Ngài, khiến dân chúng tôn vinh Ngài là một tiên tri vĩ đại. Vì thế, những Luật Sĩ và Phairisêu bối rối, hoang mang và sinh lòng ghen tuông, tức tối đối với Ngài.
Họ đã dùng đến trò thâm hiểm nhất để bêu rếu và mục đích nhằm hạ gục Đức Giêsu khi nói là Ngài “nhờ tướng quỷ để mà trừ quỷ”.
Khi gán cho Đức Giêsu như thế, họ muốn nói với dân rằng: Đức Giêsu là người thuộc về thế giới của ma quỷ. Khi Ngài đã thuộc về ma quỷ, thì lẽ đương nhiên không nên tin vào con người này cũng như những lời dạy dỗ của Đức Giêsu.
Đây là một phương pháp triệt hạ đối phương bằng cách đánh vào uy tín.
Tuy nhiên, Đức Giêsu đã đặt ngược lại vấn nạn với hai câu hỏi để lật tẩy trò đê hèn của chúng, Ngài hỏi:
“Nếu Xatan cũng tự chia rẽ chống lại chính mình, thì nước nó tồn tại sao được?”; và: “Nếu tôi dựa thế Bêendêbun mà trừ quỷ, thì con cái các ông dựa thế ai mà trừ?”!
Khi hỏi như thế, Đức Giêsu một mặt cho thấy lý chứng của những Luật Sĩ và Pharisêu tự mâu thuẫn, khập khiễng, không ăn khớp với nhau, bởi vì cứ theo lập luận của họ, thì phải chăng một nước mạnh lại dùng chính kẻ mạnh để tiêu diệt kẻ yếu cùng đồng minh với mình hay sao? Hay nếu Quỷ Vương cho mượn quyền lực của hắn để tiêu diệt tay chân của hắn thì nước đó đã đến thời mạt vận?
Trong đời sống của chúng ta hôm nay nhiều khi rơi vào tình trạng của những Luật Sĩ và Pharisêu khi sử dụng những chiêu thức bỉ ổi là nói hành, nói xấu để bôi nhọ thanh danh tiếng tốt của anh chị em mình.
Mặc dù chúng ta có thể không trải nghiệm ảnh hưởng ma quỷ ở cùng mức độ, nhưng chúng ta thường bị cản trở và áp lực bởi những quỷ câm tương tự. Ma quỷ thường cố gắng gây ảnh hưởng đến chúng ta theo cách mà chúng ta sợ phải loan báo Tin Mừng một cách tự do, chân thành và ngay lập tức cho những con người đang khao khát sứ điệp mà Thiên Chúa muốn truyền đạt cho họ. Quỷ câm thường có thể cản trở chúng ta, làm chúng ta bối rối hoặc khiến chúng ta sợ hãi khi có cơ hội chia sẻ đức tin của mình với người khác. Mặc dù có thể hiếm khi chúng ta rơi hoàn toàn vào quyền lực của chúng, tuy nhiên chúng ta thường bị chúng ảnh hưởng và cản trở chúng ta.
Sở dĩ những người Biệt Phái không tin nhận phép lạ Chúa Giêsu thực hiện là do quyền năng đến từ Thiên Chúa là vì họ ganh tị và ghen ghét Chúa Giêsu. Lòng ganh tỵ, ghen gét làm cho con người trở nên mù quáng, không còn khả năng nhận ra chân giá trị của sự việc và sự thật về con người. Khi nuôi dưỡng hận thù trong lòng, người ta có thể tìm mọi cách để hạ bệ hãm hại người khác. Nhưng sự thật vẫn là sự thật. Cố tình không đón nhận nó chỉ thiệt hại và làm đau khổ cho chính bản thân mình mà thôi.
Hôm nay chúng ta suy ngẫm về sự thực những thần ô uế này và những nỗ lực của chúng để bịt miệng chúng ta, khiến chúng ta không nói lên sứ điệp sự thật mà rất nhiều người cần nghe. Chúng ta không nên sợ ảnh hưởng của các thần ô uế. Chúa Giêsu có quyền năng hoàn toàn trên các thần ô uế và Ngài sẽ không do dự làm cho chúng im lặng nếu chúng ta để cho Ngài làm. Ngài muốn giải thoát chúng ta để nói hoàn toàn về sứ điệp tình yêu của Ngài để những người khác sẽ biết đến Ngài và tình yêu hoàn hảo của Ngài. Hãy để Ngài dùng chúng ta như một khí cụ của sự thật và tình yêu.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết đứng về phía sự thật để trả lại cho anh chị em mình những giá trị đích thực khi họ vì lòng yêu mến Chúa mà thi hành những bổn phận của họ để loan báo tình thương của Thiên Chúa cho mọi người. Đồng thời chúng ta biết cộng tác với nhau để làm cho triều đại của Thiên Chúa mau đến.