2023
Đừng vụ luật
15.3 Thứ Tư Thứ Tư trong tuần thứ Ba Mùa Chay
St 4:1,5-9; Tv 147:12-13,15-16,19-20; Mt 5:17-19
Đừng vụ luật
Bất cứ quốc gia hay tổ chức lớn nhỏ nào trong xã hội loài người đề cần có luật, để giữ kỷ cương phép tắc, giữ trật tự an ninh và đảm bảo sự công bằng xã hội.
Ngay từ thời xa xưa, Thiên Chúa đã ban cho con người luật pháp. Nó phát triển và hoàn thiện dần trong lịch sử cứu độ. Luật cũ cho ta ý niệm là dân được tuyển chọn phải sống qua mười điều răn, lời các tiên tri, là những hướng dẫn con người cách thức mến Chúa và yêu người bằng cách chỉ rõ thánh ý Chúa đối với thái độ và hành động trong đời sống thường nhật.
Những lời Đức Giêsu nói về luật Cựu ước thực sự gây sốc nhất là đối với những người thượng tôn Lề luật Maisen… Quả thật những lời Đức Giêsu dạy xem ra khó nghe và có vẻ như trái nghịch với luật cũ khiến một số người phản đối; nhưng xét cho cùng, đó không phải là Ngài phá đổ hay phế bỏ Lề luật mà là Ngài kiện toàn nó. Ngài đào sâu tận nguyên lý của Lề luật và áp dụng vào hoàn cảnh mới của Tân ước, để thực hành đúng tinh thần của Lề luật chứ không chỉ theo hình thức bên ngoài.
Ta có thể dẫn chứng trường hợp ăn chay chẳng hạn: nhịn đói ít hôm, cúng dường… rồi sau đó bóc lột, ức hiếp người nghèo khổ, thì hành vi ấy còn có nghĩa gì, nó lố bịch và chuốc thêm tội vào mình thôi… Như thế, Đức Giêsu chính là Maisen mới vì Ngài đến kiện toàn Luật Maisen và lời các tiên tri
Lề luật giống như đường rầy giữ cho xe lửa chạy an toàn, hoặc như sợi dây cương giữ cho con ngựa chạy đúng hướng. Bị buộc phải sống và làm trong khuôn khổ của lề luật thì hơi khó chịu đấy. Nhưng ta hãy nghĩ đến lý do và mục đích của luật thì sẽ dễ vâng theo hơn. Hơn nữa ai biết giữ luật vì tình yêu thì tất cả sẽ trở nên nhẹ nhàng. Thánh Augustinô chia sẻ một kinh nghiệm quý giá “Ubi amatur, non laboratur” (khi ta yêu thì ta không cảm thấy nhọc nhằn).
Một điều nữa cần làm ngay trong mùa Chay là xét lại cách mình giữ luật: luật Chúa, luật Hội Thánh, luật của cộng đoàn v.v…
Về việc giữ luật, ta cũng có thể liên tưởng tới một lời dạy khác của Chúa Giêsu “Ai trung tín trong việc nhỏ thì sẽ trung tín trong việc lớn”. (Lc 161,10)
“Vào một ngày thứ Sáu buộc kiêng thịt, có người tín hữu nọ đi ăn quán. Anh biết quán có món cá nhưng trong lòng thì thích ăn thịt. Thế là anh gọi những món cá mà anh biết chủ quán sẽ trả lời là không có. Rồi anh tự nhủ “Lạy Chúa, Chúa biết đấy, con đã làm hết cách để gọi nhiều thứ cá mà chẳng có. Thôi con đành gọi một tô phở tái để ăn trong ngày thứ sáu buộc kiêng thịt vậy”… Nếu không có lòng yêu mến Chúa thật, chúng ta sẽ dễ tạo ra những cách để tự an ủi và chuẩn miễn khỏi phải tuân giữ luật Chúa, hoặc giải thích Lời Chúa theo sở thích riêng”.
Đức Giêsu chính là Đấng Kitô phải đến mà dân Israel đang mong chờ. Ngài đến để hoàn tất mọi lời Thiên Chúa hứa, và để kiện toàn Lề luật. Ngài đến để đưa Lề luật tới ý nghĩa trọn hảo. Kiểu nói: “Một chấm, một phết trong luật cũng không thể qua đi” diễn tả tầm quan trọng của luật: đó là ý muốn của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã muốn dùng Lề luật để giáo dục con người, thì không có luật gì là nhỏ bé tầm thường. Vì vậy, chúng ta chỉ đạt được sự sống đời đời, khi trung thành tuân giữ luật Chúa và Lời Chúa. Chúng ta giữ luật không vì sợ tội, nhưng vì tình yêu. Trong tình yêu, càng cần sự tế nhị từ những điều nhỏ mọn.
Chính Đức Giêsu đã trung thành giữ luật cách yêu mến và trung thành. Chỉ khi nào luật không làm cho con người ta tốt hơn, mà ngược lại, nó đè bẹp con người, thì lúc đó Ngài lên tiếng chống đối.
Hai lối hiểu và hai cách giữ luật khác nhau, nên những nhà lãnh đạo Dothái và Đức Giêsu có sự đối kháng kích liệt. Họ cho rằng Đức Giêsu đến để bãi bỏ lề luật, còn Đức Giêsu thì khẳng định: “Các người đừng tưởng Ta đến để hủy bỏ các lề luật hay các tiên tri. Ta không đến để hủy bỏ, nhưng để kiện toàn”.
Nói cách khác, Đức Giêsu vẫn rất tôn trọng luật Cựu Ước, mà cụ thể là trong Ngũ Kinh, vì ở đó chứa đựng ý muốn và lệnh truyền của chính Thiên Chúa. Tuy nhiên, nhiều lúc, vì họ đã giữ luật theo kiểu mặt chữ, nên không còn tình thương, lòng mến, và luật đã trở thành phương tiện cho người ta hà hiếp, bóc lột và kết án nhau.
Các luật sĩ và biệt phái giữ luật rất đúng, nhưng giữ “luật vì luật” và kiên định tới mức trở thành câu nệ hình thức cứng nhắc, khắt khe: luật là cứu cánh. Cách sống của họ trong tư cách bậc thầy và mô phạm làm cho mọi người nghĩ rằng đức công chính chỉ gói gọn trong việc chu toàn lề luật: tất cả vì luật. Đức Giêsu lên án cách giữ luật hình thức, vì thế biệt phái và luật sĩ đã liệt Ngài vào hàng tội lỗi, khi cho rằng Ngài có thái độ coi thường, bất tuân luật thánh…
Lề luật giống như đường rầy giữ cho xe lửa chạy an toàn, hoặc như sợi dây cương giữ cho con ngựa chạy đúng hướng. Bị buộc sống và làm trong khung khổ của lề luật thì hơi khó chịu đấy. Nhưng ta hãy nghĩ đến lý do và mục đích của luật thì sẽ dễ vâng theo hơn. Hơn nữa, ai biết giữ luật vì tình yêu thì tất cả sẽ trở nên nhẹ nhàng.
Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta rằng: hãy biết giữ luật trong lòng mến. Trung thành yêu mến luật vì nơi đó Thiên Chúa tỏ bày thánh ý của Ngài. Tuy nhiên, giữa việc giữ luật và đời sống phải đi đôi với nhau. Không thể sống theo kiểu “ngôn hành bất nhất” như Luật Sĩ và Pharisêu, vì họ dùng luật của Chúa để triệt hạ nhau khi luật của Chúa đã bị bóp méo.
2023
Tha thứ
14.3 Thứ Ba Thứ Ba trong tuần thứ Ba Mùa Chay
St 3:25,34-43; Tv 25:4-5,6-7,8-9; Mt 18:21-35
Tha thứ
Sau khi nghe Chúa Giêsu dạy về việc sửa lỗi cho anh em, ông Phêrô nhanh nhẩu hỏi Người về việc tha thứ. Vốn là người bộc trực, ông nghĩ rằng: Các Rabbi ngày xưa bảo có thể tha thứ cho kẻ khác đến bảy lần là đã quá nhiều rồi. Nào ngờ Chúa Giêsu đưa ra con số phải tha đến những bảy mươi lần bảy, tức là tha thứ luôn mãi không cùng. Biết thế nào rồi Phêrô và các môn đệ cũng ấm ức về chuyện này, Chúa Giêsu kể câu chuyện hai người mắc nợ để giúp các ông, cũng là giúp chúng ta có một cái nhìn sâu xa hơn về việc tha thứ.
Thông thường, khi bị người khác xúc phạm, chúng ta cảm thấy mình bị thương tổn ghê gớm. Trong bài dụ ngôn mà Chúa Giêsu kể ra trên đây, nhân vật đáng được để ý và đáng phải noi gương chính là vị vua nhân từ. Ông đã tha cho kẻ mắc nợ mình mười ngàn nén vàng.
Ðể nhấn mạnh đến lòng khoan nhân của vị vua, Chúa Giêsu đã đưa ra một con số khổng lồ, mỗi nén vàng là sáu ngàn quan, tương đương với sáu ngàn ngày công; mười ngàn nén vàng tức là sáu triệu ngày công. Mỗi năm chỉ có ba trăm sáu mươi lăm ngày, vậy làm sao y có thể và có đủ ngày giờ để trả được món nợ kếch sù kia. Thế mà nhà vua đã tha hết cho y. Còn người bạn chỉ mắc nợ y có một trăm quan, tương đương với một trăm ngày công; nếu ra sức làm, chỉ trong ba tháng mười ngày là có thể trả hết nợ. Thế mà y nhất định đòi ngay cho bằng được. Tấm lòng của đức vua thì quá bao la, còn tấm lòng của y thì hết sức hẹp hòi.
Tấm lòng của Thiên Chúa thì quá bao la còn tấm lòng của chúng ta thì hết sức hẹp hòi. Chúng ta đã xúc phạm đến Thiên Chúa và đến anh chị em không biết bao nhiêu lần, nhưng cũng ngần ấy lần Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta. Thiên Chúa vẫn nhẫn nại với chúng ta và Ngài sẽ còn nhẫn nại với chúng ta cho đến tận cùng, cho đến giờ phút cuối cùng của đời ta.
Câu chuyện người trộm lành trên thập giá cho ta thấy lượng từ ái tuyệt vời của Thiên Chúa, thế thì tại sao chúng ta lại khắt khe với anh chị em chúng ta, là những kẻ xúc phạm đến chúng ta ít hơn so với những lần chúng ta xúc phạm đến Chúa và đến anh chị em. Tại sao chúng ta vẫn nắm giữ vai trò quan tòa để tha bổng hay phạt tù người khác, trong khi chính chúng ta lại là một kẻ đúng ra phải chịu luận án chung thân nhưng lại được tha thứ. Tại sao chúng ta nại nỗi tự ái, không muốn tha thứ cho anh chị em, trong khi Thiên Chúa vẫn dằn cơn giận của Ngài đối với chúng ta. Chúng ta quên mất lời kinh Lạy Cha mà mình vẫn đọc trong đó có lời cầu xin: “Xin tha nợ cho chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
“Thương thân thì dễ mà thương người thì khó”. Người ta thường hào phóng dễ dãi đối với mình và chặt dạ khắt khe với kẻ khác. Khi ông Phêrô hỏi Chúa là mình phải tha thứ cho anh em bao nhiêu lần, Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn người mắc nợ không biết thương xót để dạy các môn đệ của Người phải có lòng khoan dung với kẻ khác như Thiên Chúa Cha luôn khoan dung đối với họ.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tha thứ và tha thứ không ngừng nghỉ! Tha thứ như thế thì mới được Thiên Chúa tha thứ cho mình.
Tha thứ là một điều rất khó, nhưng nó là tuyệt đỉnh và cao quí nhất mà Đức Giêsu đã cống hiến cho con người.
Tha thứ còn là của lễ đẹp lòng Thiên Chúa nhất, bởi vì nhờ tha thứ, con người trở nên giống Thiên Chúa, vì Thiên Chúa mà Đức Giêsu mạc khải cho loài người là Thiên Chúa của tha thứ không ngừng. Thế nên, chỉ có một mình Vị Thiên Chúa tha thứ không ngừng ấy, mới có thể đòi hỏi con người: “Ta không bảo con phải tha đền bẩy lần, nhưng là đến bẩy mươi lần bẩy”, tức là tha không ngừng.
Nếu có khó khăn trong việc tha thứ, ấy là chúng ta vẫn nhìn vào sức nặng của sự xúc phạm mà đối phương đã gây ra cho ta, trong khi đó, lẽ ra chúng ta phải nhìn vào tình thương của Thiên Chúa đối với mình khi Ngài tha thứ tội lỗi cho ta.
Tha thứ là một điều rất khó, nhưng lại là một điều cao quí nhất mà Chúa Kitô đã cồng hiến cho con người. Tha thứ là tuyệt đỉnh của lòng yêu thương, bởi vì tha thứ là yêu thương chính kẻ thù của mình.
Tha thứ còn là của lễ đẹp lòng Thiên Chúa nhất, bởi vì với việc tha thứ, con người trở nên giống Thiên Chúa. Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mạc khải cho loài người là thiên Chúa của tha thứ, tha thứ không ngừng. Và vì thế, chỉ có một mình Thiên Chúa tha thứ không ngừng ấy, mới có thể đòi hỏi con người : “Ta không bảo con phải tha đền 7 lần, nhưng là đến 70 lần 7. Lối nói 70 lần 7 ở đây là lối nói phải tha thứ không ngừng.
Sau cùng, tha thứ còn là một nét cao đẹp nhất của con người, bởi vì càng tha thứ, con người càng trở nên giống Thiên Chúa.
Trong mùa chay, có thể chúng ta đã làm được nhiều việc hãm mình, cũng như những việc Bác Aỳi, và có lẽ chúng ta cũng đã giao hoà với Chúa rồi, nhưng không chừng chúng ta vẫn còn mang trong mình những đố kỵ. Có thể những vết thương lòng của chúng ta mà chúng ta không chịu chữa trị, vẫn cứ rỉ máu. Không chừng có những khúc mắc giữa chúng ta với người này người kia mà chúng ta chưa chịu tháo gỡ.
Trong mùa chay, chúng ta thường được nhắc nhở : “Đây là ngày cứu độ, đây là giờ thuận tiện”. Thuận tiện để làm gì nếu không phải là để giao hoà? Giao hoà với Thiên Chúa cũng như giao hoà với anh chị em
Nếu việc đó chưa được bắt đầu, thì hôm nay, ngay từ giờ này, chúng ta hãy bắt tay vào công việc đó đi, đừng để thời cơ đó vuột mất mà sau này sẽ phải hối hận.
2023
Tin là chấp nhận
13.3 Thứ Hai
Thứ Hai trong tuần thứ Ba Mùa Chay
2 V 5:1-15; Tv 42:2-3; Lc 4:24-30
Tin là chấp nhận
Trong Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đã chỉ trích thái độ tự mãn, ích kỷ của người Do Thái. Người Do Thái trong hội đường Nagiarét đã tìm cách hãm hại Chúa Giêsu khi Ngài lên tiếng chê trách niềm tin của họ. Có lẽ ai trong chúng ta cũng bất bình về việc làm của nhóm người này, nhưng kỳ thực nhiều khi trong cuộc sống chúng ta đã sao chép nguyên bản việc làm ấy.
Tự hào là Kitô hữu, là người nắm giữ niềm tin, nhưng rồi với một mớ lễ nghi hình thức, niềm tin trong chúng ta chỉ còn là ngọn đèn leo lét, chỉ là thân cây mất hết nhựa sống chờ ngày gãy đổ. Ðó là thứ niềm tin mà tác giả cuốn sách Ðường Hy Vọng đã nhắc nhở: “Nhiều người nói tôi có đức tin, tôi còn đức tin, có lẽ đức tin của đời sống. Ít người sống theo đức tin. Ðừng bao giờ mê tín mãn nguyện với một đức tin lý thuyết, hình thức, nhưng phải sống một đức tin chân thật, thiết ái, trung thành.”
Tự mãn với chính mình mà không chịu mở lòng đón nhận khiến người Do Thái mất đi Chúa Giêsu – nền tảng của niềm tin. Cũng vậy, nếu Kitô hữu chỉ đóng khung trong một nghi thức, luật lệ, thì sớm muộn gì họ cũng xa cội nguồn sự sống, vì sống là gì nếu không phải là một luân lưu trao đổi. Con người sẽ chết khi hệ tuần hoàn không luân chuyển, hệ thần kinh không vận động. Ðời sống đức tin cũng đòi hỏi một sự luân lưu trao đổi với Thiên Chúa và với anh em.
Người đương thời với Đức Giêsu, họ không thể chấp nhận một con người bình dân học vụ như thế mà lại là Đấng Cứu Thế! Dưới mắt họ, Ngài chỉ là con của ông thợ mộc Giuse và bà Maria, bản thân Ngài không hơn không kém một thanh niên như mọi thanh niên khác trong làng.
Chính sự coi thường, khinh khi, nên lòng họ ra chai cứng, không còn khiêm nhường, nhạy bén để nhận ra Đấng Uy Quyền, là Chúa Tể trời đất đang ở giữa họ, vì thế, họ đã khước từ chân tính đích thực của Đức Giêsu. Thấy vậy, Đức Giêsu mặc khải cho họ biết: họ sẽ không được bằng dân ngoại, và ơn cứu độ lẽ ra đến với họ trước tiên và phong phú, nhưng khi đã từ chối thì ơn đó sẽ đến với dân ngoại.
Xuyên suốt câu chuyện Tin Mừng cho chúng ta thấy, người Dothái “thích sự thật khi sự thật tán tụng họ, nhưng họ căm ghét sự thật khi sự thật lên án họ” (thánh Augutstinô).
Dân làng Na-gia-rét không nhận biết Đức Giê-su: vì họ phán đoán hoàn toàn theo sở thích loài người. Đức Giê-su là ngôn sứ, Người hành động theo sứ mạng Thiên Chúa.
Không phải những đòi hỏi của người trần ấn định cho hành động của các ngôn sứ, của Đức Ki-tô, các ngài không hành động vì lợi riêng cho mình. Các ngài chỉ hành động theo ý Thiên Chúa. Ngôn sứ không được hành động theo quyết định bản thân mình, nhưng luôn luôn theo quyết định của Thiên Chúa, Đấng đã sai mình.
Thiên Chúa quyết định cho hai ngôn sứ : Ê-li-a và Ê-li-sê đến làm phép lạ cứu giúp những người lương dân chứ không cứu người đồng hương. Đức Giê-su không hoàn toàn đến thực hiện ơn cứu độ cao cả cho quê hương mình, Người phải đi cứu độ những người dân xa lạ. Thiên Chúa dành cho mình có quyền tự do phân phát ơn cứu độ.
Không ai có thể đòi quyền được ơn cứu độ. Quả thật như vậy, không ai được phép đòi có quyền đó, phải tin ơn cứu độ mình được là nhưng không. Nước Thiên Chúa mà Đức Giê-su rao giảng và thực hiện ơn cứu độ cho những người Thiên Chúa yêu thương, ơn cứu độ là một ân huệ chứ không do công lao mình làm. Nhưng đó là ân huệ chúng ta được quyền hưởng vì Đức Giê-su đã chết cho chúng ta, và chúng ta phải sống hoàn toàn theo ý Cha của Người, đó là điều kiện căn bản, còn chúng ta vẫn có tự do đón nhận hay từ chối ơn cứu độ.
Nhờ Đức Giê-su, Thiên Chúa đến viếng thăm dân Ngài và ban các ân huệ dồi dào, xưa kia Ngài cũng ban cho dân như vậy qua các ngôn sứ, số phận các ngôn sứ thế nào thì số phận Đức Giê-su cũng vậy.
Ðối với người Kitô, tin trước hết là chấp nhận được cứu rỗi, được tha thứ, được yêu thương. Chúa không phải là Ðấng bắt con người phải kính mến. Nói đúng hơn Thiên Chúa là Ðấng mà con người phải để cho Ngài yêu thương vô hạn. Tin là chấp nhận Chúa Kitô và quyết tâm sống chết cho Ngài.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết khiêm tốn nhìn nhận sự yếu hèn của mình để cần đến ơn cứu độ. Cần tránh thói hư là: “Gần Chùa gọi Bụt bằng anh”; hay “bụt nhà không thiêng”. Hãy biết tôn trọng anh chị em mình trong sự thật, đừng vì ghen ghét, hiềm khích hay sợ người anh em trổi trang hơn mình mà ra tay làm hại hay nói năng những lời nguy hại đến thanh danh tiếng tốt của họ! Làm như thế, ấy là chúng ta đang đi vào vết xe đổ của những người đồng hương với Đức Giêsu, và như một lẽ tất yếu, chúng ta sẽ mất ơn cứu độ vì không thuộc về Thiên Chúa.
2023
Trở về với Cha
11.3 Thứ Bảy Thứ Bảy trong tuần thứ Hai Mùa Chay
St 7:14-15,18-20; Tv 103:1-2,3-4,9-10,11-12; Lc 15:1-3,11-32
Trở về với Cha
Tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta sống tinh thần của mùa chay là ăn năn sám hối, trở về cùng Chúa Cha là Đấng giàu lòng thương xót, để đáng được Chúa tha thứ.
Câu chuyện của nhân vật Cha và con trong dụ ngôn mà Thánh sử Luca trình bày trong bài Tin mừng diễn tả trung thực hình ảnh mong đợi của người Cha trong bất kỳ thời đại nào hay nền văn hóa nào. Dù người con có ngoan ngoãn ở trong gia đình hay rũ bỏ tình cha con ra đi, thì tình cha vẫn phủ lấp trên mọi lỗi lầm của con. Dụ ngôn cũng mặc khải tấm lòng yêu thương của Thiên Chúa mà Chúa Giêsu cho chúng ta thấy bằng hành động. Thiên Chúa là người cha biết thương xót, đi đến với mọi con cái để đem họ về đoàn tụ và để nối kết họ lại với nhau.
Khởi đầu dụ ngôn là những lời chỉ trích của những người thuộc phái Pharisêu và các kinh sư khi Đức Giêsu đón tiếp và ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi, vốn là những người bị loại trừ khỏi xã hội. vì vậy, không ai được giao tiếp với họ. vậy mà Đức Giêsu chẳng những đón tiếp mà con ăn uống với họ nữa. ngài chia sẻ với họ trong bữa ăn đầy tình huynh đệ, giúp họ thoát ra cái mặc cảm tội lỗi của họ. điều này khiến các kinh sư và người Phariseu không hài lòng.
Để lý giải cho hành động của mình, Đức Giêsu kể dụ ngôn “Người Cha nhân hậu” (Lc 15, 11- 32) để mời gọi những người Phariseu và các kinh sư nói riêng và mỗi người chúng ta nói chung biết mở rộng tâm hồn đón tiếp những người tội lỗi hòa nhập với xã hội khi họ ăn năn sám hối và nhất là biết chia sẻ niềm vui với Thiên Chúa khi trước sự hoán cải của những người lâu nay xa rời Thiên Chúa để đi vào tương quan thân tình với Người.
Dụ ngôn kể lại : Sau khi người con thứ đòi chia gia tài, người cha đã làm theo ý con của mình. Có lẽ khi hành động như vậy, người cha cũng đã rất đau lòng vì ông thấu hiểu tính tình, tâm tư của từng đứa con mình nhưng ông luôn tôn trọng tự do của chúng nên ông làm theo ý muốn của chúng. Người cha chia gia tài cho con và để con tự định đoạt về khối tài sản đó. Từ khi người con thứ ra đi với phần sản nghiệp của mình, lòng người cha lại đau đáu mong chờ. Ông chờ người con thứ quay trở về với ông, dù nó có ra sao đi chăng nữa ông vẫn mong ngày nó trở về. Niềm vui trào tràn đến với ông khi ông nhìn thấy bóng con từ đàng xa. Ông vội chạy ra đón con, cuống quýt với áo áo, giày giày; với việc giết bê béo ăn mừng… Ông chẳng màng đến hình dạng xơ xác của người con, đến bài “diễn văn” soạn sẵn của con. Ông thể hiện tình thương của một người cha thật ấm áp: “Anh còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để”. Trong nhà có thứ gì đẹp, thứ gì quý giá ông mang hết ra cho con: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng”. Trong lòng ông, niềm vui trào tràn, bùng vỡ biểu lộ một tình thương vô bờ bến, ông chưa bao giờ ghét bỏ dù đứa con trở về với hai bàn tay trắng. Ông chỉ biết một điều rằng: “Con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Đã có đôi lần, hành xử của chúng ta cũng giống như người con thứ, ta được bao bọc bởi tình thương của Thiên Chúa, được sống trong tình thương của Chúa nhưng ta luôn muốn thoát ra khỏi sự bảo bọc đó, ra đi đến những nơi ta muốn, được thỏa thích làm theo ý của mình. Khi gặp khó khăn thử thách, ta đến với Chúa với bao toan tính vụ lợi. Lời cầu nguyện của ta chỉ đầy những lời cầu xin cho mình mà quên lời sám hối ăn năn. Thiên Chúa vẫn hằng mong ta quay trở về với Người, dù ta có bội nghĩa vong ân, có phung phí biết bao ân sủng của Người…
Được sống trong nhà cha, ở bên cha sớm tối nhưng người con cả lại chẳng thấy niềm vui. Cuộc sống của anh thật tẻ nhạt. Nếu không có bữa tiệc linh đình đón em trở về, có lẽ chẳng ai thấy được tâm tư trĩu nặng của anh: “Đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho con lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè”.
Hơn nữa, lòng ghen tỵ của anh xóa đi tương quan huynh đệ, anh nói về người em của mình với giọng đầy khinh bỉ, miệt thị: “Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng”. Phản ứng của người con cả không làm cho người cha tức giận, trái lại ông dịu dàng giải thích với người con cả những ân sủng mà anh ta không nhận ra khi ở trong nhà cha và niềm vui của mình khi người em của anh quay trở về: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con.
Nhưng chúng ta phải ăn mừng và hoan hỷ, vì em con đây đã chết, nay lại sống, đã mất, nay lại tìm thấy”. Chúng ta cũng có lúc như người con cả, được làm con Thiên Chúa, được ở trong nhà Chúa, sống với Chúa, luôn giữ các giới răn cách tuyệt đối… nhưng ta lại không cảm nhận được niềm vui sống trong nhà Chúa, không nhận ra được ân sủng của Chúa trên cuộc đời mình. Ta ghen tỵ với những ân sủng và niềm vui của người khác; ta tính toán thiệt hơn, so đo với người khác. Ta quên rằng: tình thương và lòng nhân ái của Chúa luôn phủ lấp trên cuộc đời ta. Ta chỉ thật sự là con của Cha, khi ta yêu thương chính anh em mình.
Dụ ngôn giới thiệu hình ảnh người Cha như một biểu tượng về Thiên Chúa. Thái độ bao dung của người cha trong dụ ngôn cho ta thấy được tình thương của Thiên Chúa không chỉ với người tội lỗi hoán cải mà còn với cả những người không nhận ra tình thương của Chúa, ghen tỵ và thiếu sự cảm thông đối với người khác. Chúa cũng mời gọi mỗi người chúng ta chia sẻ niềm vui với người tội lỗi khi họ sám hối và trở về với Chúa như chính Chúa đã vui mừng khi đón tiếp và chia sẻ với họ.
Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu cho thấy Thiên Chúa nhân hậu tìm kiếm người lầm lạc và hân hoan đón nhận họ trở về.
Thiên Chúa thương xót chúng ta, và sẵn sàng tha thứ tất cả chúng ta.
Vì yêu thương nhân loại tội lỗi, Chúa Cha đã ban Con Một của Ngài là Chúa Giêsu xuống thế, chịu chết trên thánh giá để chuộc tội của nhân loại, và dẫn đưa con người về làm hòa cùng Thiên Chúa Cha và được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trong nước Thiên Chúa.
Mỗi người chúng ta nhận ra được Thiên Chúa yêu thương, sẵn sàng tha thứ cho chúng ta, nên trong mùa chay này, chúng ta hãy thống hối ăn năn tội lỗi, để trở về cùng Chúa Cha, để nhận lãnh ơn tha thứ của Ngài.
Chúa Cha đã thương xót và tha tội lỗi của chúng ta, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng biết mở rộng tâm hồn và tha thứ cho nhau.