2023
Lắng nghe mục tử
1.5 Thứ Hai trong tuần thứ Tư Mùa Phục Sinh
Cv 11:1-18; Tv 42:2-3; Ga 10:1-10; Ga 10:11-18
Lắng nghe mục tử
Chúa Giêsu tự xưng Ngài là cửa chuồng chiên. Vậy những ai qua cửa ấy mà vào là mục tử đích thực. Người mục tử chăn chiên chỉ vì yêu, anh ta dành trọn tấm lòng cho đoàn chiên và thí mạng sống mình vì đoàn chiên. Người mục tử thì dịu dàng, chân thành, gần gũi và yêu thương. Anh ta hướng dẫn, sửa dạy, bảo vệ và chăm sóc đoàn chiên cách chu đáo và ân cần.
Quả tim của người mục tử tốt là quả tim triển nở trong tình yêu và họa lại trái tim nhân lành của Thiên Chúa. Một người mục tử nhân lành đúng nghĩa phải lấy Chúa Giêsu làm tấm gương mẫu mực của mình, và chỉ khi đi theo tư tưởng, đường hướng của Ngài, khi đó, người mục tử mới trở nên một mục tử đúng nghĩa.
Phần chúng ta, là những Kitô hữu nhờ phép rửa và được bửu huyết Đức Kitô đổ ra trên thập tự giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, cho ta trở nên con cái Thiên Chúa. Chúa Giêsu là cửa mà cũng là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống (Ga 14,6). Vì vậy, đã là con cái Chúa, chúng ta phải bước theo Ngài, bước đến cánh cửa mà vào
Đoạn tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho chúng ta biết những đặc tính cần phải có của người mục tử nhân lành:
Dám hy sinh mạng sống mình:Đoàn chiên không phải là của người chăn thuê, nên anh ta không thiết tha gì để bảo vệ đàn chiên. Mục tiêu của người chăn thuê thường là vì lợi ích của bản thân. Vì thế khi có sói dữ tấn công, anh ta sẽ dễ dàng bỏ mặt chiên cho sói dữ ăn thịt, còn anh ta thì sẽ tìm cách thoát thân. Còn mục tử chân chính thì sẵn sàng đứng ra chống lại sói dữ để bảo vệ đàn chiên mình, dù phải đối mặt với hiểm nguy, cho dù phải hy sinh mạng sống.
Biết chiên của mình:Cái biết của người mục tử không chỉ là cái biết chung chung về số lượng, hời hợt về tên gọi. Nhưng mục tử đích thực phải biết chất lượng: tình trạng, nhu cầu, ước muốn sâu xa của chiên mình. Cái biết đến độ đồng thân, đồng phận, đồng cảm và đồng tử với chiên mình.
Quan tâm và đưa những chiên xa lạc về đàn:Vì chiên cần có chủ chiên nên chủ chiên phải quy tụ chiên vào cùng một đàn để chăm sóc, bảo vệ và nuôi dưỡng cho chúng được sống và sống dồi dào. Do đó chủ chiên không chỉ quan tâm đến chiên trong đàn mà còn tìm cách để đem các chiên ngoài đàn về, để chúng được hiệp nhất trong cùng một đàn dưới sự hướng dẫn của cùng một chủ chiên.
Mục tử là khái niệm rất quen thuộc của người Dothái; đàn chiên chính là gia sản của họ, nên ai cũng biết. Mục tử và đàn chiên cả hai đều sống du mục, nay đây mai đó, luôn tìm đến chỗ có đồng cỏ tươi, dòng suối mát để hạ trại.
Hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định Ngài là Mục Tử Nhân Lành, được Chúa Cha ban tặng cho nhân loại. Mục Tử Nhân Lành này sẵn lòng hy sinh tất cả vì đàn chiên. Ngài tự ví mình là “Cửa Chuồng Chiên”, tức là người canh phòng, bảo vệ chiên khỏi sói dữ tấn công. Vì thế, ai qua “Cửa” mà vào thì sẽ được sống.
Người Mục Tử Nhân Lành này sẵn sàng dùng mọi cách để giữ gìn chiên, ngay cả cái chết. Ngài yêu thương chiên bằng tình yêu mục tử, nên Ngài “biết” từng con chiên và từng con chiên “biết” Ngài. Vì thế, sự sống của chiên là của Ngài và sự sống của Ngài luôn dành cho chiên.
Ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta thuộc về Chúa và Chúa thuộc về ta. Chúa “biết” chúng ta và Ngài “biết” cách thấu đáo. Còn chúng ta, chúng ta có “biết” Ngài không, hay có “biết” nhưng “biết” cách vu vơ, lúc biết lúc không?
Hình ảnh người chăn chiên đi trước và đàn chiên theo sau thật đẹp. Điều đó nói lên sự hiệp nhất giữa chủ chăn và đàn chiên, chiên nghe theo chủ chăn và do đó, chỉ có một chủ chiên và một đàn chiên.
Hiệp nhất vốn là dấu chỉ của tình yêu. Chúa Giêsu mượn hình ảnh người mục tử không ngừng đi tìm kiếm những con chiên lạc, để nói lên mối quan tâm của Ngài đối với Giáo hội. Đó chính là chúc thư Ngài để lại trong những giây phút cuối đời.”Xin cho chúng nên một”, “một đàn chiên và một chủ chiên”: đó là hình ảnh của sự hiệp nhất mà Đức Giêsu luôn quan tâm đến. Hình ảnh người mục tử đi tìm kiếm những con chiên lạc cũng nói lên tất cả mối tương quan của Thiên Chúa đối với con người: không phải con người đi tìm kiếm Thiên Chúa cho bằng chính Thiên Chúa đi tìm kiếm con người. Mọi cố gắng của con người xét cho cùng cũng đều là những lôi kéo của Thiên Chúa.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy nghiêm túc đặt lại câu hỏi ấy cho chính mình, ngõ hầu mỗi người làm mới lại mối tương quan với Thiên Chúa để được đi trong đường lối của Ngài. Đồng thời luôn sẵn sàng làm chứng về những gì mình “biết” về Thiên Chúa cho con người và cuộc sống hôm nay, ngang qua hành vi được biểu lộ nơi lòng mến và niềm tin.
2023
Bỏ đi hay ở lại
29.4 Thánh Catêrina đệ Siena, Đtts
Cv 9:31-42; Tv 116:12-13,14-15,16-17; Ga 6:60-69
Bỏ đi hay ở lại
Chị Ca-ta-ri-na là con áp út trong một gia đình đạo đức có 25 người con. Chị chào đời tại phố Phôn-tê-bơ-ran-đa, miền Xi-ê-na nước Ý năm 1347. Thân phụ là ông Gơ-ra-cô-mô Bê-nin-ca-sa làm nghề thợ nhuộm ; thân mẫu là bà La-pa.
Hồi còn là ấu niên (1354), được ơn Chúa dự liệu, chị đã khấn giữ đức trinh khiết và lướt thắng nhiều khó khăn do những người thân gây ra. Chị đã khởi sự sống cầu nguyện, hãm mình nhiệm nhặt cùng với các Chị Em Hãm Mình Ða Minh (1363), say mê chiêm niệm chân lý đệ nhất là Thiên Chúa mà chị cho là ngọt ngào nhất. Chị cố gắng “nhận biết Thiên Chúa ở trong con người của mình và mình ở trong Thiên Chúa.” Sống tại gia đình rất nhiệm nhặt cho đến năm 1370 là năm chị nhận được mệnh lệnh của Chúa Giê-su để bước vào hành trình dấn thân làm việc tông đồ.
Từ đó, chị được Chúa Thánh Thần ban nhiều ân huệ lạ lùng và chị ngoan ngoãn tuân theo sự hướng dẫn của Thánh Linh. Lạ lùng thay ! chị có khả năng kết hiệp việc chiêm niệm những mầu nhiệm cao siêu trong thâm tâm với những hoạt động tông đồ bên ngoài. Chị đã dùng những lời nói sắc bén và những bức thư hối thúc đức giáo hoàng trở về Rô-ma (1376). Thêm vào đó, chị còn tạo điều kiện cho nhiều người nam nữ thuộc mọi tầng lớp xã hội đi theo con đường thánh đức và bình an. Lòng bừng cháy lửa mến Chúa, chị nỗ lực để trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giê-su chịu đóng đinh trên thập giá, nên đã xứng đáng được Chúa dùng những tia sáng in các thương tích của Người nơi thân xác chị vào ngày 1-4-1375.
Trong sắc phong thánh của chị có viết : “Giáo thuyết của người không phải là do học hỏi, người được coi là mẫu sư hơn là môn sinh”. Chị đã để lại cho hậu thế nhiều tài liệu thiêng liêng và thần học quý giá, nhất là cuốn “Ðối thoại” (1378), nên ngay từ thời đó, chị đã được đoàn môn sinh gọi là “Mẹ”. Danh hiệu ấy vẫn còn được lưu truyền trong đại Gia đình Ða Minh cho đến ngày nay.
Chị qua đời tại Rô-ma ngày 29-4- 1380 và được an táng tại vương cung thánh đường Ðức Ma-ri-a thành Mi-nê-va. Ðức giáo hoàng Pi-ô II đã ghi tên chị vào sổ các hiển thánh ngày 29-6-1461 ; và ngày 4-10-1970, đức giáo hoàng Phao-lô VI tôn phong chị lên bậc tiến sĩ Hội Thánh.
Bốn bài giảng liên tiếp về Bánh hằng sống của Đức Giêsu đã tạo ra nhiều phản ứng nơi những cử tọa Do thái. Khi Ngài tiết lộ cho họ biết Ngài có Bánh hằng sống, ăn vào sẽ không đói khát nữa, họ liền xin Ngài cho họ thứ bánh đó. Tiến thêm một bước, Ngài cho họ biết Bánh đó chính là Ngài từ trời xuống, họ có phản ứng chống lại ngay, vì họ cho rằng Ngài chỉ là con bác thợ mộc Giuse ở Nazareth, làm sao lại có chuyện đó được? Nhưng khi Đức Giêsu cho họ biết Bánh hằng sống đó chính là thịt máu Ngài, phải ăn thì mới có sự sống trong mình, thì họ có phản ứng kịch liệt, vì họ cho đây là một việc tởm gớm không thể chấp nhận được. Thậm chí, cả một số môn đệ cũng có phản ứng tương tự: “Lời này chói tai quá, ai mà nghe được”. Kết quả là một số môn đệ bỏ đi, không theo Ngài nữa.
Tuy nhiên, bài Tin mừng hôm nay chuyển tải cho chúng ta, là giữa sự thất vọng bỏ đi của nhiều người, thì vẫn còn đó Nhóm Mười Hai với lời tuyên xưng của tông đồ trưởng Phêrô: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng thánh của Thiên Chúa”. Có lẽ ở đây chúng ta chưa dám chắc Phêrô và các Tông đồ đã hiểu được mầu nhiệm Thánh Thể là lấy thịt Chúa cho nhân loại ăn, nhưng ít nhất Phêrô tin vào uy tín của Thầy không thể nói điều sai lạc.
Lời tuyên xưng còn khẳng định rõ hơn về đức tin là một ân ban mà không phải ai cũng dễ dàng có được. Lời tuyên xưng của Phêrô và sự trung thành của các Tông đồ là điểm sáng về niềm tin và lòng trung tín cho chúng ta, nhất là ngày hôm nay không thiếu những người đã lìa bỏ Giáo hội. Nếu không có ơn đức tin thì sẽ không thấy sự khác biệt giữa bánh chưa truyền phép và bánh đã được truyền phép không thể cảm nhận được sự hiện diện thực sự của Đức Giêsu trong phép Thánh Thể.
Mẩu đối thoại của Chúa Giêsu với nhiều môn đệ đã khởi đầu bằng lời phản đối của họ và bằng cách họ đánh giá các lời của Người theo cảm xúc. Bây giờ Đức Giêsu ngỏ lời với nhóm thứ ba bên trong đám đông, Nhóm Mười Hai, một nhóm rất gần gũi với Người, nhưng cũng bị cám dỗ, bị lay động, bị thách thức bởi những lời đòi hỏi của Người. Mẩu đối thoại của Người với Nhóm Mười Hai bắt đầu bằng một câu hỏi Người đặt ra: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” (Ga 6,67).
Câu hỏi này không hề có đặc tính gây hấn, như thể Chúa Giêsu muốn nói: “Anh em cứ việc bỏ đi!”, trái lại câu hỏi này hàm chứa một lời mời ở lại. Chúa Giêsu đặt câu hỏi và để cho các môn đệ tự do quyết định. Nhưng Người không rút lại bất cứ điều gì Người đã nói. Simôn Phêrô đã nhân danh nhóm (“chúng con”) nói lên một câu trả lời có suy ngẫm và nêu ra ba lý do khiến các ông ở lại với Chúa Giêsu chứ không đi theo đa số: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,68-69).
Lý do thứ nhất là một suy tư sáng suốt: “Chúng con không thể bỏ đi kiểu mù quáng. Khi bỏ đi, chúng con cần phải biết chúng con muốn bỏ ai, và gặp được điều gì tốt hơn và thuyết phục hơn nơi người nào. Chỉ đơn giản bỏ đi thì không có ý nghĩa”. Suy tư này giúp tránh những quyết định vội vã, theo tình cảm. Bởi vì không tìm được một vị thầy nào dứt khoát khá hơn, thì khôn ngoan là ở lại với Đức Giêsu.
Lý do thứ hai nhắc đến đặc tính của các lời Đức Giêsu. Chính Người đã nói: “Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và là sự sống” (6,63). Bây giờ Phêrô chấp nhận điều ấy: “Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (c. 68). Ông đã hiểu rằng ân ban cao trọng nhất của Chúa Giêsu là sự sống đời đời và nhận biết rằng Chúa Giêsu nói về điều đó trong tư cách đáng tin nhất; Chúa Giêsu không chỉ nói về điều đó, Người còn mang sứ điệp chắc chắn về sự sống đời đời và mở đường vào sự sống đó.
Lý do thứ ba liên hệ đến việc nhận biết bản thân Chúa Giêsu. Phêrô nói về con đường giúp nhận biết như thế và nói về nội dung của nhận thức này. Nhóm Mười Hai đã ký thác và tín nhiệm hoàn toàn vào Chúa Giêsu. Trên nền tảng của thái độ này, các ông đã hiểu và nhận biết rằng Chúa Giêsu là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (c. 69). “Thánh” chính là điều thuộc về Thiên Chúa. Nếu Chúa Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa, điều này có nghĩa là Người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa và được kết nối với Thiên Chúa trọn vẹn. Chính vì Chúa Giêsu có một tương quan đặc biệt với Thiên Chúa, Người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, mà Người có những lời ban sự sống vĩnh cửu, và do đó, thật là điên rồ nếu xa lánh Người.
Khi suy niệm bản văn Ga 6, 60-69, người tín hữu hôm nay không được phép bằng lòng với việc trách móc nhóm môn đệ đã bỏ đi hoặc khen ngợi Nhóm Mười Hai vẫn còn ở lại. Làm như thế là quên mất rằng chính mình cũng là một môn đệ, là một trong Nhóm Mười Hai. Do đó, họ phải tự hỏi: Quan niệm của tôi về Chúa Giêsu lâu nay như thế nào? Tôi đang đặt những niềm chờ mong gì nơi Người? Tại sao tôi còn ở lại với Người? Những câu hỏi này bắt tôi phải ra khỏi tình trạng nửa vời để dứt khoát chọn Chúa Giêsu.
2023
Hãy đến với Thánh Thể
28.4 Thứ Sáu trong tuần thứ Ba Mùa Phục Sinh
Cv 9:1-20; Tv 117:1; 2 Ga 6:52-59
Hãy đến với Thánh Thể
Trong bữa Tiệc ly, Chúa Giêsu chia sẻ với các môn đệ những lời rất thân tình, tha thiết: Ngài sẽ ra đi về cùng Cha rồi Ngài sẽ trở lại đón các ông, để Ngài ở đâu, môn đệ cũng ở đó với Ngài. Ngài cho các ông biết sứ mạng của Ngài là đến trần gian để dẫn đưa nhân loại về cùng Chúa Cha, đến sự sống đời đời. Chính Ngài là con đường duy nhất. Ai muốn đến cùng Cha, muốn có sự sống đích thực thì phải qua con đường đó. Nếu từ chối Ngài, không bao giờ chúng ta có thể đạt tới hạnh phúc viên mãn.
Chúa Giêsu khẳng định với người Do Thái : “Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống”.
Lời quả quyết đó không khỏi thắc mắc cho họ, như họ nêu lên ngay từ câu đầu bài Tin Mừng : “Làm sao ông này có thể lấy thịt mình mà cho chúng ta ăn được?”
Tuy nhiên, Chúa Giêsu muốn làm chứng rằng : Ngài chính là nguồn mạch sự sống của con người; Ngài chính là Đấng mang đến cho nhân loại sự sống thần linh; Ngài chính là của ăn nuôi sống linh hồn con người. Nhưng chỉ những ai có đức tin mới có thể đón nhận được sự sống thật nơi Bí tích Thánh Thể, như Chúa Giêsu quả quyết : “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha là Ðấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta.”
Vì thế, một nguyên lý quan trọng nhất của tế lễ Thánh Thể không phải chúng ta làm cho Thiên Chúa xuống trong những dấu chỉ, nhưng chính Thiên Chúa đến với chúng ta, cho chúng ta được ở trong Ngài, cho chúng ta được liên kết với Ngài, được giao ước với Ngài và được sống với Ngài.
Chúng ta xác tín rằng : Chỉ Thiên Chúa mới có thể trao ban cho con người như lương thực để con người được sống. Khi tiếp nhận Chúa Giêsu trong Thánh Thể, người tín hữu tuyên xưng rằng con người không thể sống mà không có Thiên Chúa. Chỉ có sức sống thần linh mới làm cho con người được sống và sống dồi dào.
Chúng ta luôn nhớ rằng : Bí tích Thánh Thể ban cho chúng ta sức mạnh. Chúng ta hãy đón nhận lấy Chúa Giêsu như hai môn đệ làng Emmaus, họ đã được Chúa Giêsu chia sẻ trong tiệc bẻ bánh, và từ những người buồn sầu và thất bại họ đã trở thành những người tươi vui.
Chúa Giêsu Thánh Thể luôn luôn làm cho chúng ta tràn đầy niềm vui. Chúng ta hãy nhớ kỹ điều đó! Khi buồn sầu, khi nản lòng, hãy đi tham dự thánh lễ Chúa Nhật và rước lễ, tham dự vào mầu nhiệm của Chúa Giêsu!
Tin Mừng hôm nay trình thuật lời tuyên bố của Chúa Giêsu về một vấn đề quan trọng, liên quan trực tiếp tới Ngài và tới tất cả những ai tin Ngài, đó là “Bánh Hằng Sống”. Ngài không nói quanh co bóng gió, nhưng rõ ràng minh bạch: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống”. Khi tuyên bố như thế, ngay sau đó, Ngài liền khẳng định: “Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6, 51).
Như một sự tiệm tiến, Chúa Giêsu không chỉ ao ước, cũng như không chỉ có ý định trở thành lương thực cho con người, nhưng Ngài còn thực sự muốn và thực hiện điều đó. Vì thế, Ngài nói: “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”; “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (x. Ga 6, 54-56).
Khi tuyên bố như thế, Chúa Giêsu cho thấy, lương thực Ngài ban tặng chính là lương thực Thần Linh, hoàn toàn khác biệt với những thứ lương thực trong đời thường, bởi vì Bánh mà Đức Giêsu trao ban chính là Ngài.
Khi trao ban cho con người chính bản thân mình, Chúa Giêsu mong muốn được trở thành nguồn nuôi sống và nhất là thông truyền sự sống Thần Linh của Ngài cho nhân loại. Sự liên kết này được thể hiện qua việc ăn Thịt và uống Máu Chúa trong niềm tin. Chính vì thế, thánh Phaolô đã nhắc nhở tín hữu Côrintô: “Ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt mình”.
Nói như thế, thánh Phaolô muốn nhấn mạnh đến việc chuẩn bị và ý thức cách xứng đáng để tương xứng với hồng ân cao trọng mà vì yêu, nên Chúa Giêsu sẵn sàng trao hiến cho con người.
Thánh lễ quả là một dịp rất quý giá để chúng ta ăn uống Chúa, nhờ đó được ở trong Ngài và chia sẻ sự sống thần linh của Ngài. Thế nhưng các lễ nghi Thánh lễ vẫn cứ lập lại hầu như ngày này cũng như ngày khác. Điều đó khiến chúng ta quá quen đến nỗi không còn chú ý. Việc rước lễ cũng thế, có nhiều ngày nó chỉ là hành động theo thói quen không chút ý thức.
Thỉnh thoảng tôi cần phải làm sống lại ý thức khi tham dự Thánh lễ và Rước lễ.
Hãy đến với Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng ta mới cảm nghiệm được thế nào là tình yêu của Chúa Giêsu muốn ở cùng chúng ta, muốn trao ban sự sống của Ngài cho chúng ta. Sự sống của Chúa, tình yêu của Chúa luôn ngự trị trong Bí tích Thánh Thể.
2023
Tin Vào Lời Chúa
27.4 Thứ Năm trong tuần thứ Ba Mùa Phục Sinh
Cv 8:26-40; Tv 66:8-9,16-17,20; Ga 6:44-51
Tin Vào Lời Chúa
Rất nhiều khi chúng ta cũng có quan niệm sai lầm về Thiên Chúa. Nói khác đi, chúng ta thường quan niệm theo mẫu mực và lối suy tưởng riêng của chúng ta, do đó Thiên Chúa mà chúng ta muốn chối bỏ không phải là Thiên Chúa thật: chúng ta chối bỏ vị Thiên Chúa theo quan niệm của chúng ta chứ không phải vị Thiên Chúa được mạc khải cho chúng ta, và nhờ qua Chúa Giêsu Kitô, Ðấng đã quả quyết: “Ai thấy Ta là thấy Cha Ta”. Chúa Giêsu là mạc khải hữu hình của Thiên Chúa vô hình, và Thiên Chúa được Chúa Giêsu mạc khải hoàn toàn khác với Thiên Chúa mà chúng ta thường quan niệm hoặc tự vẽ ra cho chính mình.
Phần tiếp theo trong diễn từ của Chúa Giêsu về Bánh Hằng Sống khiến chúng ta xem xét một chiều kích trong hành động của Chúa Cứu Thế. Hãy tóm lược những giai đoạn khác nhau của diễn từ này và sự tiến triển vào chiều sâu trong diễn từ đó.
Giai đoạn đầu tiên là hóa bánh ra nhiều, một phép lạ để cho đám đông ăn và khiến họ đi tìm người làm phép lạ đó. Sau đó, Chúa Giêsu ra nơi thanh vắng, Ngài rút lui lúc đêm về và gặp lại các môn đệ ngày hôm sau ở bờ bên kia. Thực ra, có nhiều hơn là một cái hồ giữa phần này với phần còn lại của diễn từ Chúa Giêsu, có một khoảng cách về chiều sâu và ý nghĩa. Sự thay đổi được gợi lên qua việc thay bờ được thục hiện trước hết trong sự thay đổi về ý nghĩa.
Chúa Giêsu đồng hóa bánh mới với bản thân Ngài : ai thiết lập quan hệ với Ngài thì sẽ được sống. Sau đó, Chúa Giêsu bày tỏ mục đích của quan hệ đó: cho phép con người sống trong sự phục sinh. Hôm nay, Ngài nói với chúng ta cách thức mà con người của Ngài trở thành nguồn mạch phục sinh: Ngài ban máu thịt mình.
Cho đến khi Ngài phán: Này là Mình Thầy phó nộp vì anh em, trong buổi tiệc ly, và kể từ ngày Ngàị khẳng định: Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây để cho thế gian được sống, có một động lực sống trong Chúa Kitô. Đó là tính chất ân huệ của toàn bộ hoạt động của Ngài, của tất cả những gì liên quan đến xác thịt Ngài, qua những mệt mỏi, những chống đối, những đêm canh thức, những chuyến đi, cho đến chết.
Chúa Kitô là một con người sống cho tha nhân, không phải chỉ trong lý tưởng hay trong suy nghĩ mà thôi: Ngài đã sống sự trao ban này trong thân xác Ngài. Như thế, hơn ai hết. Ngài có thể kết hợp sự sống với những biểu hiện của thân xác và khẳng định rằng trao ban mạng sống là trao ban máu thịt mình.
“Ta là bánh hằng sống từ Trời xuống, ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời” (c.51).
Tất cả chúng ta đều đang sống. Nhưng chúng ta hiểu rất lờ mờ về sự sống. Sự sống đến với chúng ta lúc nào… Không ai biết được, nhưng nếu có nó thì chứng tỏ phải có một nguồn. Cũng như bất cứ cái gì có ở đời này đều có một nguồn gốc, một người làm ra. Vậy sự sống bởi đâu ? Kinh Thánh trả lời bởi Thiên Chúa.
Thiên Chúa tự mạc khải “Ta là sự sống” (Ga 11,25). Trong Cựu ước đã nói đến việc Thiên Chúa tạo nên sự sống của thực vật, động vật và con người (Stk 1,10-30). Điều này chứng minh Thiên Chúa hằng sống. Không ai cho cái gì không có. Thiên Chúa là sự sống nên Ngài mới trao ban cho chúng ta được. Sách Quan án gọi “Giavê là Đấng sống” (1Sa 14,39. 2Sm 12,5). Chính Thiên Chúa phán: “Ta là Thiên Chúa hằng sống” (Ds 14,21. Đnl 32,40). Dân Israel thường thề bởi chữ “Thiên Chúa hằng sống” (2Sm 12,5). Thiên Chúa là nguồn sự sống (Tv 36).
Trong Tân ước, Chúa Giêsu quả quyết “Ta là sự sống và là sự sống lại” (Ga 51,25), “Ngài là Thiên Chúa của kẻ sống” (Mt 22,32), “Ngài là Đấng bất tử (1Tm 1,17). Chính Chúa Giêsu đã làm 4 phép lạ cho kẻ chết sống lại (Lc 8.49.7,11; Ga 11,1).
Những dữ kiện đó đủ làm bằng chứng nền tảng cho câu Chúa phán hôm nay: “Ta là bánh hằng sống từ Trời xuống” (c.51). Và Chúa quả quyết “Ai ăn bánh này thì sẽ được sống đời đời” (c.51). Giuda là người đầu tiên nghe câu đó lấy làm chói tai và bỏ đi, ra đi trong hư mất đời đời.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta đọc thấy lời mạc khải của Chúa Giêsu: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời”. Những lời giảng dạy của Chúa Giêsu nói lên sự thật quan trọng và là trung tâm của đức tin Kitô giáo: con người không những phải tin nhận, mà còn phải ăn thịt và uống máu của Chúa để có sự sống đời đời. Giáo Hội đã trải qua bao thử thách, chống đối, vẫn kiên trì trong niềm tin này: tin vào Lời Chúa và hàng ngày cử hành Thánh Thể để con người được thông phần vào sự sống của Thiên Chúa.
Lời Chúa như sương sa, đã rơi xuống thì không trở lên trời nữa, nhưng phát sinh hoa trái. Lời Chúa là lời sinh hiệu quả, không phải do trí tưởng tượng, mà do đức tin. Muốn gặp Thiên Chúa, con người phải đến với Chúa Giêsu như chính lời Chúa Giêsu đã nói: Không ai đã thấy Chúa Cha, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha
Ước gì chúng ta cũng biết lắng nghe và đón nhận lời Chúa, để chúng ta có thể nhận ra Thiên Chúa chân thật, Đấng hằng yêu thương và muốn cho chúng ta được ơn cứu độ