2023
Công việc của Thánh Thần
16.5Thứ Ba trong tuần thứ Sáu Mùa Phục Sinh
Cv 16:22-34; Tv 138:1-2,2-3,7-8; Ga 16:5-11
Công việc của Thánh Thần
Trong diễn văn từ biệt Chúa Giêsu hứa sẽ sai Thánh Thần đến, nhờ đó các môn đệ cảm nghiệm được sự hiện diện mới của Ngài. Sự hiện diện mới ấy của Chúa Giêsu giữa các môn điện sẽ là một bản án cho thế gian. Thật thế, khi Chúa Giêsu bị đem ra xét xử và bị treo trên thập giá, thế gian tường đã kết án Ngài. Nhưng trong Chúa Thánh Thần, bản án thế gian dành cho Chúa Giêsu đã trở thành lời tố cáo đối với thế gian.Từ nay, thập giá Chúa Giêsu sẽ mãi mãi là lời tố cáo về tội ác của thế gian.
Tin Mừng cho biết, các môn đệ tràn ngập ưu phiền vì sắp phải xa Thầy. Chúa Giêsu trấn an các môn đệ bằng cách cho họ thấy sự cần thiết của việc Ngài ra đi: Đấng Bảo Trợ sẽ đến. Rồi dường như sợ các học trò không hiểu Đấng Bảo Trợ sẽ làm gì khi đến với họ, nên Chúa Giêsu tiếp tục cho họ biết nhiệm vụ của Chúa Thánh Thần: chứng minh rằng thế gian sai lầm về tội lỗi, về sự công chính và về việc xét xử.
Công việc của Thánh Thần, do Chúa Kitô sai đến, là một điều khó hiểu: Ngài phải chất vấn thế gian về tội lỗi, về sự công chính và về việc xét xử. Chất vấn một ai có thể mang nhiều nghĩa. Ở đây, từ ngữ này trước tiên có nghĩa là chứng mình sự sai lầm hay dối trá hoặc còn là đặt ai vào vị thế không thể nào đối đáp được. Thánh thần trở nên người buộc tội khiến chúng ta không còn biết đối đáp thế nào, khiến chúng ta hết đường chạy lỗi.
Nhưng chất vấn một ai về tội lỗi, về sự công chính và về việc xét xử, điều ấy nghĩa là gì? Nghĩa là khi cho thấy ý nghĩa của tội lỗi, của sự công chính, của việc xét xử, Thánh Thần sẽ lật tẩy những nhận thức của chúng ta về ba điều ấy.
Thánh Thần cho ta thấy ý nghĩa của tội lỗi. Trước khi là một sự phạm luật, tội lỗi là một vấn đề từ chối không chịu tin, từ chối đón nhận chứng từ của Chúa Kitô, từ chối gắn bó với Ngài. Dù cuộc sống chúng ta có trong sạch đối với những lề luật Thiên Chúa hay tự nhiên thì chúng ta vẫn sống trong tội lỗi, nếu chúng ta không đón nhận chứng từ của Chúa Kitô. Thánh Phaolô phát biểu theo một cách khác : “Nếu Chúa Kitô không sống lại, anh em vẫn còn ở trong tội lỗi”, và ngài nói thêm “lề luật không ích gì cả, chỉ có đức tin mới cứu vớt”.
Thánh Thần cho ta thấy ý nghĩa của sự công chính. Ở đây cũng vậy, sự công chính trước hết không phải là vấn đề công bình, mà là thánh thiện. Chúa Giêsu là người công chính vì Ngài chia sẻ sự thánh thiện của Cha Ngài bằng cách tiến gần đền Người, qui hướng về Người. Sự công bình thế gian thì chưa đủ để ta có thể chia sẻ sự sống của Thiên Chúa; ta cần phải nên thánh.
Cuối cùng, Thánh Thần cho ta thấy ý nghĩa của sự xét xử. Việc xét xử nói đây đã được thực hiện rồi, không phảì là trong tương lai. Việc xét xử được tiến hành trong hiện tại tương ứng với sự từ chối của mình: chúng ta tự định vị mình, tùy theo hoạt động hay việc làm mình, ở bên ánh sáng hay bóng tối. Ý nghĩa của sự xét xử không phải là một lời tuyên án tương lai và chỉ xảy ra một lần, nhưng đó là một sự kiện kéo dài suốt đời, từng giây từng phút.
Công việc của Thánh Thần là cho chúng ta thấy ý nghĩa đích thực của tội lỗi: ấy là từ chối không tin; một sự công chính mới: ấy là sự thánh thiện; một loại xét xử mới: ấy là sự xét xử đang tiến hành, tương ứng với mức độ trung thành hay bất trung của chúng ta hằng ngày.
Mỗi ngày, sau lời truyền phép, khi tuyên xưng: Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết người Kitô hữu lặp lại quyết tâm không khoan nhượng trước tội ác và bất công. Giáo hội sẽ không chu toàn sứ mệnh tiên tri của mmhvà không lâm chứng cho sự hiện diện của Chúa Kitô, nếu vìmột chút lợi lộc hay đặc ân trước mắt, mà tìm cách thỏa hiệp hay im lặng đồng lõa với sức mạnh của tối tăm Dĩ nhiên, lời tố cáo tội ác mà Giáo hội tuyên bố không chỉ là một phản kháng trên môi miệng hay văn bản, màthiết yếu phải được thể hiện trong chính cuộc sống của Giáo hội và của mỗi Kitô hữu. Người Kitô hữu tố cáo tội ác thế gian khi họ nói “Không” với những gì đi ngược giá trị Tin mừng, khi họ sẵn sàng mất tất cả hơn là bóp nghẹt tiếng nói lương tâm và đánh mất phẩm giá của mình hay chà đạp phẩm giá của người khác.
Có thể nói Thánh Thần được sai đến với các môn đệ Chúa Giêsu và thế gian năm xưa, cũng chính là Thánh Thần mà Mẹ Giáo Hội đang muốn chuẩn bị cho con cái mình lãnh nhận trong lộ trình phụng vụ mùa phục sinh năm nay. Đấng Ấy sẽ đến với bộ mặt của tình yêu, với tiếng nói của tình yêu ; sẽ đưa những sai lầm của chúng ta đến với ánh sáng của tình yêu và sẽ đốt cháy những sai lầm ấy bằng ngọn lửa của lòng xót thương vô bờ nơi Trái Tim Thiên Chúa. Đó là cung cách hành động của Tình Yêu. Và khi Tình Yêu hành động, ta sẽ được biến đổi, được sống, được an bình trong Ánh Sáng Vĩnh Cửu của Đấng Phục Sinh.
Ước gì lời tuyên xưng : Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết được thể hiện bằng những cố gắng hằng ngày, để chống lại tội ác và muôn hình thức bất công trong chính bản thân và môi trường sống của chúng ta.
2023
Ở trong tay Chúa
8.5 Thứ Hai trong tuần thứ Năm Mùa Phục Sinh
Cv 14:5-18; Tv 115:1-2,3-4,15-16; Ga 14:21-26
Ở trong tay Chúa
Chúa Giêsu khai mạc một kỷ nguyên mới và Ngài mời gọi con người tham dự vào kinh nghiệm thiêng liêng làm nên vận tống của họ, đó là sống đời sống Chúa Cha qua Chúa Con linh nghiện này chỉ có thể trung thực khi nó bén rễ sâu đong việc tuân giữ lời Chúa.
Tin mừng hôm nay, khi tông đồ Giuđa Thađêô đặt câu hỏi: Tại sao Thầy tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ ra cho thế gian ? Chúa Giêsu trả lời bằng cách nhắc đến tình yêu mà con người phải có đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa không giới hạn hành động cứu rỗi của Ngài, nhưng chỉ có con người mới là kẻ ngăn cản và chống lại sự thật của Chúa, không yêu mến Chúa và không tuân giữ các giới răn của Ngài. Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy, Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy, Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại trong người ấy . Đây là một thực tại cao cả đối với con người khi chấp nhận yêu mến Thiên Chúa, hay đúng hơn đểcho Thiên Chúa yêu thương mình.
Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Sự quyết tâm bước theo Chúa được đo lường bằng sự trung ưu với lời Ngài. Ai yêu mến Chúa và được Ngài yêu mến sẽ liên kết với Ngài một cách mật thiết, lời Chúa sẽ thám nhập và đi vào tận lâm hồn họ, biến đổi họ và làm cho họ trở thành những người góp phần làm sáng tỏ khuôn mặt Thiên Chúa cho thế giới.
Để được ở trong tay Chúa, để được ở với Chúa, để được Chúa cư ngụ trong tâm hồn, đó là mục đích của cuộc sống đức tin mà người Kitô hữu phải không ngừng theo đuổi. Đó cũng là một trong những ý tưởng nổi bật trong Tin mừng Gioan. Những môn đệ đầu tiên đã đến xem nơi Chúa Giêsu cư ngụ và đã ở lại với Ngài. Chúa Giêsu đã kêu gọi họ trước tiên là đến và ở với Ngài.
Tin mừng hôm nay cũng muốn đào sâu ý tưởng ấy: “Ai yêu mến Ta, Ta sẽ yêu mến nó và sẽ tỏ minh ra cho nó”. Trong Cựu ước Đền thờ vốn được quan niệm như nơi cư ngụ của Thiên Chúa. Nhưng với Chúa Giêsu, Đền thờ Thiên Chúa từ nay sẽ là tâm hồn con người; từ nay nhờ phép rửa: người Kitô hữu thờ thành đền thờ của Chúa. Nhưng sự hiện diện ấy của Thiên Chúa, người Kitô hữu chỉ cảm nhận được khi họ yêu mến Chúa Giêsu và tuân giữ giới răn của Ngài. Sự hiện diện ấy, người Kitô hữu chỉ có thể làm lan tỏa chung quanh bằng việc tuân giữ giới răn của Chúa Giêsu, nghĩa là sống theo Ngài, sống bằng chính sức sống của Ngài.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở người Kitô hữu về sứ mệnh làm chứng cho sự hiện diện của Chúa trong trần thế. Người ta không thể cho đi điều mình không có. Nguyên tắc này càng đúng hơn trong đời sống đức tin: người Kitô hữu sẽ không là chứng nhân sự hiện diện của Chúa nếu cuộc sống của họ không có sức tỏa lan sự hiện diện ấy. Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta cách làm chứng cho sự hiện diện ấy, đó là tuân giữ các giới răn của Ngài. Khi những người ngoài nhìn vào cộng đoàn Kitô tiên khởi, họ đã phải thốt lên: “Kìa xem họ yêu thương nhau dường nào! Đó cũng là thách đố đang được đặt ra cho người tín hữu chúng ta: chúng ta phải sống thế nào để sự hiện diện của Chúa không chỉ giới hạn trong nơi thờ phượng hay trong những sinh hoạt tôn giáo, mà phải được thể hiện bằng cả cuộc sống chúng ta nữa.
Chúng tôi không cầu nguyện để thoát khỏi tay các ông, mà để được ở trong tay Chúa ước gì, qua cuộc sống mỗi ngày, chúng ta luôn cảm nhận được sự hiện diện yêu thương của Chúa, và đáp trả tình yêu ấy bằng những cố gắng sống yêu thương, quảng đại để sự hiện diện về tình yêu của Chúa cũng được người khác cảm nhận.
Chúng ta không đếm xuể những lần chúng ta bất trung với Chúa. Những lần chúng ta phạm luật, phạm giới răn của Người. Ngược lại, có một sư trung thành đối với Chúa mà chỉ là bề mặt thôi: ta có thể chỉ trung thành với Người thông qua lề luật. Luật đạy như thế, thì tôi làm thế. Luật cấm làm thế, thì tôi không làm, nếu không tôi sẽ phạm một tội nặng.
Nếu chúng ta trở về với cốt lõi của Phúc âm, chúng ta sẽ thấy xuất hiện một chiều kích khác, chiều kích đầu tiên của quan hệ giữa chúng ta với Thiên Chúa và với giới răn Người: “Ai yêu mến Thầy, thì giữ lời Thầy”. Tình yêu ở Chúa trở nên sai lệch: Người sẽ là một Thiên Chúa hay trả thù, khát máu và thích xử phạt.
Rất nhiều Kitô hữu vẫn còn sợ Chúa; họ giữ lời Người vì sợ bị phạt chứ không phải vì yêu thương. Thiếu tình yêu, những đòi hỏi của việc nên thánh trở nên khổ cực: đấy là một cái ách quá nặng nề, một gánh nặng quá sức vác. Trong lòng mình âm ỷ ngòi nổi loạn.
Ngược lại, nếu quan hệ với Chúa được thiết lập trong tình yêu, thì tình yêu đòi hỏi phải có lòng trung thành. Thiên Chúa sẽ đáp lại lòng trung thành này bằng cách đến cư ngụ trong người ấy. “Cha Thầy sẽ yêu thương người ấy và Chúng Ta sẽ đến cư ngụ trong lòng”
Thiên Chúa không cưỡng bách con người chấp nhận sự hiện diện của Người. Người không hành động như thể đến viếng một nhà nghỉ trong những ngày cuối tuần. Người đến trong một tâm hồn dành chỗ cho Người, nơi mà tình yêu và lòng trung thành gặp nhau.
Trong gia đình, người ta cảm thấy mình bị cưỡng bách phải nhận một đứa con nếu đứa con ấy không được đón nhận trong yêu thương. Trước khi đến, Thiên Chúa chờ đợi chúng ta một câu trả lời được biểu hiện qua những hành động cụ thể.
Chúng ta khó nhận ra sự hiện diện này. Chúng ta muốn cảm thấy ấm lòng. Tuy nhiên, nếu chúng ta tin, nếu chúng ta yêu mến, nếu chúng ta cậy trông, thì Thiên Chúa đã ở trong chúng ta rồi. Thật vậy, đức tin, đức cậy và đức mến, ba nhân đức đối thần, chính là những phẩm chất của Thiên Chúa, đấy là một cái gì của Người mà Người ban cho chúng ta, những phẩm chất làm cho chúng ta nên giống hình ảnh Người, vì Người trông cậy vào mỗi người chúng ta, Người tin tưởng vào khả năng chúng ta, và yêu mến chúng ta bất chấp những yếu đuối của mình.
2023
Nếu các con biết Thầy
6.5 Thứ Bảy trong tuần thứ Tư Mùa Phục Sinh
Cv 13:44-52; Tv 98:1,2-3,3-4; Ga 14:7-14
Nếu các con biết Thầy
Thường tình chúng ta không tiếc lời ca ngợi kẻ xa lạ vì đã làm được những việc đáng kể, nói ra nhiều câu chí lý, có một hành động đáng phục. Trong khi đó chúng ta lại rất hà tiện lời khen đối với người sống gần bên cạnh, trong chính tập thể chúng ta, dù người đó không những đã làm, đã nói, đã sống, mà còn hơn cả những người được ca ngợi, nhưng lại sống xa chúng ta.
Ðây có thể phần nào là hoàn cảnh sống của các môn đệ, nhất là của Philipphê. Họ đã sống gần Chúa Giêsu, Thầy của mình, bao nhiêu năm qua, nhưng dường như họ vẫn chưa hiểu Chúa và mối tương quan của Ngài với Thiên Chúa Cha. Chính vì thế, mà trong câu nói của Chúa Giêsu cho các môn đệ có mang chút ít sự chua xót và trách móc: “Thầy đã ở với các con lâu rồi mà các con không biết Thầy sao? Hỡi Philipphê, ai xem thấy Thầy thì cũng xem thấy Cha. Hãy tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy. Ít nhất, các con hãy tin điều đó vì thấy các việc Thầy đã làm”.
Thật thế, không thiếu những dấu chỉ cho chúng ta biết mối quan hệ thâm sâu và đặc biệt giữa Chúa Giêsu và Thiên Chúa Cha. Ðặc biệt trong đoạn Phúc Âm vừa đọc trên, chúng ta có thể ghi nhận một dấu chỉ đặc biệt, đó là Chúa Giêsu qua Chúa Thánh Thần mà Ngài sẽ ban xuống, sẽ ban cho các môn đệ làm những việc cả thể hơn nữa. Họ sẽ hành động nhân danh Chúa, sẽ khai sinh một cộng đoàn mới, một Giáo Hội của Chúa. Nhưng chắc chắn các môn đệ sẽ gặp khó khăn và phương thế để vượt qua những khó khăn là cầu nguyện, cầu nguyện nhân danh Chúa. Hai lần trong cùng một đoạn văn vừa đọc, Chúa Giêsu đã yêu cầu các môn đệ của Ngài hãy cầu nguyện, cầu nguyện hết lòng tin tưởng, cầu nguyện nhân danh Chúa. Chúng ta có xác tín về những gì Chúa Giêsu giãi bày cho chúng ta hay không?
“Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con biết Chúa Cha, thế là đủ cho chúng con” (c.8). Có lẽ trong mỗi giây phút hăng say bồng bột của tuổi trẻ Philip đã xin với Chúa như vậy. Thật ra đấy cũng là ước mơ của nhiều người Do thái, vì xưa kia Maisen đã được đặc ân này trên núi Sinai (Xac 24,9-11), Elia đã được ở núi Horeb (1V 19,10-14), hoặc như Isai trong đền thờ (Is 6).
Nhưng như Chúa đã xác nhận không ai thấy được Thiên Chúa Cha trừ ra Đức Kitô mà thôi (Ga 1,18. 6,46). Thiên Chúa không còn hiện ra trong sấm chớp hay bằng thị kiến như xưa nữa. Kể từ nay Thiên Chúa Cha tỏ ra trong con người đức Kitô, Đấng không bao lâu nữa sẽ được ánh vinh quang bao phủ. Thứ vinh quang mà Isai chiêm ngắm trong đền thờ xưa chỉ là hình bóng của đức Kitô (Is 6. Ga 12,41). Chúa Kitô đã từng quả quyết “Cha Ta và Ta là một” ( Ga 10,30). “Ai thấy Ta là thấy Cha Ta” (c. 9). Vì thế từ đây không phải là đền thánh Gierusalem của người Do thái, hay đền thờ của người Samaria ở Garisim (Ga 4, 20) nữa, chỉ còn một nơi duy nhất, một chỗ gặp gỡ duy nhất là chính bản thân đức Kitô, Con Thiên Chúa (Ga 4, 21-24. 2, 13-22). Từ đây ai đón nhận Ngài là đón nhận Cha Ngài.
Có lẽ câu Philip “Xin tỏ cho chúng con thấy Thiên Chúa Cha” (c.8) phần nào minh chứng ông chưa hiểu mấy về chính Chúa Kitô. Chúa Cha và Chúa Con không thể tách lìa nhau. Con đâm rễ sâu trong Cha và Cha ẩn mình trong Con, Thiên Chúa Cha ở nơi Con và làm việc qua Con. Chúa Giêsu đã quả quyết “Cha ở trong Ta và Ta ở trong Cha” (10, 38). Các lời nói việc làm của đức Kitô là của Thiên Chúa Cha (5, 17-26.30.36.7, 16-17. 8,26-29.10, 25). Vì thế Chúa Kitô nói nếu không tin vào lời Ngài thí ít ra là hãy tin vào việc làm của Ngài là các phép lạ (10,25.37.38).
Qua bản văn trên chúng ta thấy Chúa Giêsu muốn minh chứng Ngài là một người thực sự giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi. Nhưng một đàng Ngài lại khác chúng ta một trời một vực vì Ngài là Thiên Chúa đồng bản tính, đồng việc làm với Thiên Chúa Cha. Chúa Giêsu muốn mạc khải cho chúng ta về Thiên Chúa Cha qua chính bản thân, lời nói và việc làm của Ngài. Có lẽ lời Chúa trách cứ “Philip à, Thầy đã ở giữa các con biết bao lâu rồi thế mà con chưa biết Thầy” (c.9). Lời nói này cũng bao hàm như câu của Gioan tiền hô “Trong thế gian có một người mà thế gian không biết” (Ga 1, 10).
Nhưng lời ấy vẫn là lời tiên tri vang dội cho mỗi thời đại. Cũng như xưa kia Chúa Giêsu đã sống giữa dân Ngài 33 năm ròng. Ngài đã gặp gỡ, chuyện vãn, nhìn ngắm quê hương Ngài, Ngài đã dạy dỗ và làm phép lạ. Nhưng họ mỉa mai Ngài là con bác thợ mộc (Mc 6, 3), là bị mát, cần phải dẫn về quê, là thông đồng với Beelgiêbuth…
Hình như giữa Ngài và chúng ta như có một bức tường lãnh đạm chống đối nào đó, mỗi người trong chúng ta đều mang trong mình một thứ chống đối Thiên Chúa. Chúng ta như cố vùng vẫy thoát ly khỏi tay Ngài. Dù được Ngài mời gọi, nhưng chúng ta vẫn cứ viện những lý do riêng để từ chối Ngài như những người kia từ chối tiệc cưới con vua vậy (Mt 22, 1-14). Sau 20 thế kỷ ai trong chúng ta tránh được lời trách của Chúa “Thày đã ở giữa các con biết bao lâu… “. Đã từ lâu các con chưa nhận ra Ta đói khát, cô đơn, hất hủi, khinh miệt. Sau hai ngàn năm sự có mặt của Chúa như thể là sự có mặt trong bóng tối. Và có lẽ không sẽ có mặt như thế mãi đến tận thế. Thiên Chúa ở giữa sự im lặng.
Thiên Chúa sinh ra trong cảnh im lìm của đêm thâu. Ngài sống 30 năm trầm lặng. Ngài phục sinh trong đêm khuya. Ngài sống lai, hiện ra rồi đấy nhưng Madalêna tưởng đâu là bác làm vườn (Gio 20, 15), hai môn đệ Emmaus tưởng Ngài là khách bộ hành (Lc 24, 13), các môn đệ tưởng là ma (Lc 24, 36).
Người của Chúa nhận ra tiếng Chúa “Chiên Ta biết Ta” (Ga 10, 14). Ai nhẫn nại làm quen với công việc của Chúa sẽ dễ nhận ra Ngài khắp nơi. Chúa ở gần chúng ta lắm ! sách Khải huyền nói “Đây Ta đứng ngoài cửa lòng và Ta gõ. Nếu ai nghe tiếng Ta và mở cửa, Ta sẽ vào dùng bữa với nó, nó với Ta” (3, 20).
Sự hiệp nhất giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha trở thành lý tưởng cần phải đạt đến đối với những môn đệ Chúa, những kẻ được Ngài sai đi tiếp tục sứ mệnh của Ngài. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con. Người môn đệ được mời gọi thể hiện sự hiệp nhất với Chúa trong cuộc sống chứng tá, cũng như Ngài luôn thể hiện sự hiệp nhất với Cha Ngài khi chu toàn sứ mệnh đã lãnh nhận từ Cha. Chắc chắn người môn đệ sẽ gặp khó khăn, nhưng một khi sống hiệp nhất với Chúa, họ sẽ nhận được sức mạnh thần linh và trở thành hữu hiệu hơn trong lời cầu nguyện. Bất cứ điều gì các con nhân danh Thầy mà xin, thì Thầy sẽ làm, để Chúa Cha được tôn vinh nơi người Con.
Nguyện xin Chúa Kitô Phục sinh luôn gìn giữ chúng ta trong mối hiệp thông với Ngài, và đừng để chúng ta đi tìm một Thiên Chúa khác mà quên đi Đấng đang hiện diện giữa chúng ta.
2023
Con Đường
5.5
Thứ Sáu trong tuần thứ Tư Mùa Phục Sinh
Cv 13:26-33; Tv 2:6-7,8-9,10-11; Ga 14:1-6
Con Đường
Cũng trong khung cảnh bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đang nói cho các tông đồ những lời rất thân tình, tha thiết. Ngài báo cho họ biết Ngài sẽ ra đi, đi đến một nơi mà họ rất lạ. Nhưng Ngài hứa sẽ trở lại đón họ để cùng đưa họ đến nơi đó. Ông Tôma tò mò hỏi: “Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi ?”. Chúa Giêsu đáp: “Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”. Nghĩa là: mục tiêu hành trình của mọi người là về với Thiên Chúa là Cha, Chúa Giêsu chính là người dẫn đường, hơn nữa Ngài chính là con đường đẫn ta đến đích điểm đó.
Đọc Tin Mừng theo thánh Gioan ta hiểu hơn về Chúa Giêsu Đấng mạc khải qua kiểu nói Ta là. Ta là Ánh sáng (8,12), sự sống (14,6), tình yêu (1Ga 4,8), chủ chiên (10,14), cửa chuồng chiên (10,7), là đường đi (14,6).
Ai trong chúng ta không phân biệt con đường ? Có đường hẻm, đường rừng, đường bộ, đường sắt, đường hàng không, đường liên tỉnh, đường quốc tế, đường không gian. Con đường nào cũng quan trọng, vì con đường nào cũng dẫn tới một đích điểm. Dân Do thái sống thời du mục, cho nên đường hẻm, đường mòn, đường rừng đóng một vai trò thiết yếu hơn cả nhà ở. Chúa Giêsu đã dùng ngay hình ảnh đó để nói về Ngài: “Ta là đường” (c.6). cuộc xuất hành của dân Do thái là một con đường đi về đất hứa (Xac 13,21). Tiên tri Eâlia cũng đi con đường rừng lên núi Horeb (1V 19,1t). Trong Tân ước cũng nói đến những con đường thả bộ như đường Jerichom là nơi Chúa chữa cho một người mù (Mc 10,46), con đường của dụ ngôn người Samaritanô (Lc 10,30-37), con đường vào thành Giêrusalem ngày lễ Lá (Lc 19,28), con đường núi Sọ, con đường Emmaus (Lc 24,13t).
Mỗi con đường đều có một kỷ niệm, mỗi con đường đều có mục dích. Con đường nào cũng nối ít nhất là hai điểm với nhau. Con đường nào cũng là để đi tới. Nhờ con đường mà người ta giao tế, liên lạc gặp gỡ nhau, cũng nhờ có con đường mà giải quyết được nhiều chuyện như vấn đề kinh tế. Hầu như càng văn minh thì con đường càng nhiều, giăng mắc như hệ thống thần kinh vậy.
Trên phạm vi tự nhiên thân xác còn có con đường để đi lại để rồi mới có thể kiến tạo một cuộc sống hoàn bị, tươi đẹp, thì linh hồn cũng cần có một con đường. Con đường của linh hồn có hai thứ: con đường tốt và con đường xấu. Con đường xấu được Kinh thánh mô tả là con đường cong (Cn 21,8), là đường tội lỗi (Tv 1, 1. Hđ 21, 10), đường của ác nhân (Tv 1, 6. Gr 12, 1). Đường đó dẫn đến sự hư mất (Tv 1,6) và cái chết (12, 28). Ngược lại, con đường tốt là con đường nhân đức, là con đường ngay thẳng, toàn thiện (1Sm 12, 23. 1V 7, 36. 1C 12,31), là đường chân lý (Tv 119, 30. Tb 1, 3), bình an (Lc 1, 79), là con đường của sự sống (Cn 2,19.5,6), trường thọ và thịnh vượng.
Chúa Giêsu đã tự xưng mình là đường và Ngài mời gọi chúng ta bước theo Ngài trên con đường Ngài đã đi là con đường Thánh giá (Mt 16, 23. Lc 24, 26). Thánh Phaolô bảo: cuộc đời dương thế của chúng ta là con đường mà người ta đi là lữ khách (Dt 3, 14). Ngài nhấn mạnh: trên con đường đó, chúng ta phải đi (Col 2,6) hơn nữa phải chạy đua với người khác nữa. Chúng ta biết khi chạy đua thì chỉ phát phần thưởng vào cuối cuộc đua chứ không ai phát phần thưởng từ đầu bao giờ. cho nên mọi người phải cố gắng cật lực…
Ðường về quê trời có nhiều thử thách nhưng người đồ đệ có thể vượt qua dễ dàng nếu biết để cho Chúa hướng dẫn, để cho Chúa đưa mình đến nơi Chúa muốn. Bí quyết căn bản của đời sống Kitô là để cho Chúa tự do hướng dẫn mình đi, là biết cộng tác với ơn Chúa, là để cho Chúa Giêsu Kitô chiếm hữu như thánh Phaolô tông đồ ngày xưa, ngài đã bộc lộ cho những người con tinh thần của ngài bí quyết đời Kitô, đó là: “Tôi sống nhưng không phải là tôi sống, mà chính Chúa Kitô sống trong tôi. Kiếp sống tôi đang sống, tôi muốn sống trong niềm tin hoàn toàn vào Ðấng đã yêu thương tôi và trao nộp chính mình cho tôi”.
Trên con đường chạy đua, có người thấy con đường của mình dài thòng, xa xôi, vất vả nên bỏ cuộc. Có người chạy được ít bước đã ngoái cổ lại xem mình chạy bao xa mà trẽ lối. Có người chạy đua mà khinh đối thủ, chỉ la cà bên đường để rồi chẳng bao giờ về tới đích. Có người thì chạy hăng hái quá mà chệch đường, chạy lạc lối. Có người chạy trước mà về sau.
Là một lực sĩ chạy đua, người ta khem khổ hy sinh, vất vả tập dượt, dùng sức mạnh ý chí… huống chi là trên con đường về Trời, chúng ta phải vất vả đến độ nào. Cuối chặng đường mỗi người là Thiên Chúa Cha đúng giang tay đón chờ ôm đứa con vào lòng..