2023
Là bạn hữu của Chúa
20.5 Thứ Bảy trong tuần thứ Sáu Mùa Phục Sinh
Cv 18:23-28; Tv 47:2-3,8-9,10; Ga 16:23-28
Là bạn hữu của Chúa
Hôm nay tôi tìm gặp trong lời Chúa Giêsu một vài câu nói đau lòng nhất trong Phúc âm. “Bây giờ Thầy rời thế gian và về cùng Cha” và “Thầy không nói với anh em bằng dụ ngôn nữa”.
“Bây giờ Thầy rời thế gian và về cùng Cha . Một lời đại loại như thế đã từng làm cho chúng ta xa cách với một người bạn, một người con. Cậu con trai lập gia đình nói theo cách thứ mình: “Bây giờ con rời cha mẹ để về với gia đình con”. Cô gái hai mươi tuổi cũng nói: “Con sẽ đi ở nơi khác”. Đối với nhttng người ở lại và chịu sự mất mát của một cuộc ra đi, cuộc đi mang một dư vị đăng đắng. Và lúc ấy, ta cảm thấy rõ ràng hơn bao giờ hết rằng con người cần sống trong sự hiệp thông và với sự hiện diện của người khác; họ thấy hụt hẫng khi phải chia ly.
Dù cho Chúa Giêsu trình bày về sự ra đi của Ngài như môït điều có lợi cho chúng ta, cái gánh nặng của sự vắng Ngài vẫn còn đó. Chúa Giêsu sẽ không bao giờ còn hiện diện bằng xương bằng thịt nữa.
Câu thứ hai mà tôi thấy đau lòng là câu sau: “Thầy không nói với các con bằng dụ ngôn nữa”. Thời của dụ ngôn đã qua rồi. Ngôn ngữ của Chúa Kitô bây giờ là ngôn ngữ của thực tại, của biến cố.
Thế nhưng ngôn ngữ này rõ ràng quá, chính xác quá, đòi hỏi quá. Ngôn ngữ này quá dễ hiểu. Khi thực tại cho ta thấy một nơi có cảnh người bóc lột người, khi nó cho chúng ta thấy nhtrng bất bình đẳng trong xã hội, khi nó phô bày rằng chúng ta đối xử với loài chó tốt hơn với loài người và luật lệ bảo vệ cho hải cẩu hơn là cho những con người bị bóc lột ; vào những lúc ấy, ngôn ngữ này quá dễ hiểu.
Chúa Kitô nói với chúng ta bằng thực tại, bằng biến cố. Và trong khi Ngài trở về với nếp sống hoàn toàn thông hiệp với Cha, Ngài cho chúng ta cảm nhận một cách gay gắt hơn nữa rằng những bất công, những ti tiện , những dửng dưng giữa anh em với nhau là điều không thể nào chịu nổi. Ngài mời gọi chúng ta chia sẻ sự hiệp thông với Cha, nếu chúng ta có dũng cảm hiểu được thực tại cuộc đời hầu sống hiệp thông với anh chị em chúng ta, những người con của Chúa.
Trước đây Chúa Giêsu giảng dạy bằng dụ ngôn và chỉ khi ởù riêng với các môn đệ Ngài giải thích cho các ông mọi điều. Bây giờ đây đến lúc Ngài không dùng dụ ngôn nữa nhưng nói thẳng cho họ hiểu về Cha với một mức độ thân tình giữa Thầy và môn đệ. Chia sẻ các hiểu biết là yếu tố căn bản để xây dựng mối thân tình. Càng nhiều hiểu biết được chia sẻ mối thân tình càng bền chặt. Con người ai cũng quí trọng bạn tri kỷ, vì chỉ với người bạn này, họ mới cởi mở, mới san sẻ được mọi nỗi niềm. .
Chúa Giêsu cũng muốn các môn đệ là bạn tri kỷ của Ngài. Không những trao gởi niềm tâm sự, Chúa Giêsu còn trao ban chính Thịt Máu Ngài như dấu chứng của một mối thân tình bền chặt. Hãy hành động với Ngài và trong Ngài, con người sẽ gặp được điều mình mong muốn: “Những gì các con sẽ xin cùng Cha thì Ngài sẽ ban cho nhân danh Ta”. Từ thân phận tôi tớ, các môn đệ được nâng lên hàng bạn hữu, bởi vì Chúa Giêsu muốn cho họ được sống như Ngài trong chức phận làm con Thiên Chúa, một giá trị đã bị con người đánh mất nhưng đã được Đức Kitô phục hồi bằng cái chết tự hiến của Ngài.
Nhờ Bí tích rửa tội mỗi Kitô hữu được lãnh nhận chức vị làm con Thiên Chúa. Đây không phải là một tước hiệu khoác lên người nhưng là một tiếp xúc với sự sống của Thiên Chúa. Với Đức Kitô và trong Đức Kitô những gì chúng ta cầu xin sẽ được nhạâm lời. Đức Kitô đã đem lại cho chúng ta một giá trị mới đồng thời mời gọi chúng ta sống xứng đáng với giá trị ấy. “Chính Chúa Cha yêu các con vì các con đã yêu Ta và tin rằng Ta đã đến tự Thiên Chúa”. Nhờ tin nhận và yêu mến Đức Kitô, chúng ta sẽ sống trong tình yêu Thiên Chúa.
Trước kia, Chúa Giêsu giảng đay các môn đệ bằng dụ ngôn, nhưng giờ đây Ngài không còn dùng dụ ngôn nữa, Ngài muốn nói thẳng cho các ông hiểu về Chúa Cha, về mức độ mối thân tình giữa Ngài và các ông. Vì là môn đệ, cho nên trước đây, khigặp khó khăn, các ông xin Chúa giải thích và Ngài đã giải thích cho các ông. Lúc này đây, hơn cả chức phận là môn đệ, họ được gọi là bạn hữu của Ngài, vì tất cả những gì Ngài đã nghe biết nơi Chúa Cha, thì Ngài đã tỏ lộ hết cho họ.
Chia sẻ các hiểu biết là yếu tố căn bản mối thân tình giữa bạn hữu . Càng nhiều hiểu biết được chia sẻ cho nhau thì mối thân tình càng bền chặt. Con người ai cũng qúy trọn bạn tri kỷ, vì chỉ với người bạn tri kỷ, người ta mới có thể chia sẻ hết mọi điều, cởi mở hết mọi nỗi niềm. Bá Nha đã đập vỡ cây đàn vì Tử Kỳ không còn nữa. Mất Tử Kỳ là mất người thông cảm qua tiếng đàn, thì Bá Nha không còn thiết tha đàn chuyện gảy đàn nữa.
Chúa Giêsu cũng muốn các môn đệ trở thành bạn tri kỷ của Ngài. Không những trao gởi niềm tâm sự, Ngài còn traoban chính Thịt Máu Ngài như dấu chứng của một mối thân tình bền chặt. Hãy hành động với Ngài và trong Ngài, họ sẽ gặp được điều mong muốn. Điều gì các con nhân danh Thầy xin cùng Cha, thì Ngài sẽ ban cho . Từ thân phận nô lệ , tôi tớ, các môn đệ được nâng lên hàng bạn hữu, vì Chúa Giêsu muốn họ sống như Ngài trong chức phận làm con Thiên Chúa, .một giá trị dã bị con người đánh mất, nhưng đã được Chúa Kitô phục hồi bằng cái chết tự hiến của Ngài.
Chúa Kitô đã mang lại cho người Kitô hữu một giá trị mới, nhưng Ngài cũng đòi buộc họ phải sống xứng đáng với giá trị ấy. Tin nhận và yêu mến Chúa Ki tô, sẽ cho phép người Kitô hữu sống trong tình yêu của Thiên Chúa. Như các môn đệ, họ cũng dược Chúa chọn làm bạn tri kỷ của Ngài.Tất cả những hiểu biết về Thiên Chúa đã được gói trọn trong lời Ngài. Không thể là bạn tri kỷ của Ngài, nếu không đón nhận và đáp trả lời Ngài:
Ước gì lời Chúa hôm nay giúp chúng ta vui mừng hãnh diện và sống xứng đáng địa vị là con Chúa, bằng cách tin nhận và yêu mến Chúa Kitô, để được ở mãi trong tình yêu của Ngài.
2023
Niềm vui không ai lấy mất được
19.5 Thứ Sáu trong tuần thứ Sáu Mùa Phục Sinh
Cv 18:9-18; Tv 47:2-3,4-5,6-7; Ga 16:20-23
Niềm vui không ai lấy mất được
Các môn đệ được Chúa căn dặn “Thầy ra đi thì ích lợi hơn cho các con” (Ga 16, 7). Đó là một cuộc biệt ly. Có cuộc biệt ly nào mà không buồn, không xót, không thương. Cuộc chia ly ở đâu đâu cũng buồn khổ hết. Chia ly ở bên đường, bến đò, ga xe, phi trường, nghĩa địa… đều da diết, đều chết đi trong lòng một ít, và đối với các tông đồ hẳn không phải là ít, vì họ đã từ bỏ tất cả để đi theo Ngài.
Trở đi mắc núi, trở về mắc sông. Giờ đây, Chúa ra đi, đi sang một thế giới khác hẳn. Chúng ta thử tưởng tượng các môn đệ lúc ấy bơ vơ biết như thế nào. Cùng lắm họ mới theo đạo Chúa được ba năm. Với ba năm theo Chúa chập chững, giờ đây mất Chúa. Kẻ âm người dương. Từ đây một người Do thái với 33 tuổi tên là Giêsu, sẽ biến khỏi sân khấu lịch sử của nhân loại, với không gian, thời gian khí hậu của miền Palestin. Cho nên các tông đồ buồn khổ là phải lẽ. Từ đây, lấy ai làm trụ cột mà dựa dẫm, lấy đâu làm nơi nương tựa cho những ngày mệt mỏi đời tông đồ. Chính Chúa Giêsu đã thấy họ buồn và Chúa xác nhận rằng: “Vì Ta đã nói thế nên ưu phiền tràn ngập lòng các ngươi” (c.6).
Đó là một nỗi buồn nhân loại thấm thía. Nhưng Chúa Giêsu nói rằng phải vượt qua như thế như nỗi buồn khổ của một người mẹ sinh con (c.21). Giây phút chờ đợi đứa con ra đời với biết bao nhiêu là lo lắng hồi hộp, cho sự sống cả mẹ lẫn con và cho cả tương lai đứa con… Nhưng khi đứa con ra chào đời thì nó trở thành niềm vui tràn ngập vì đã cộng tác vào chương trình sáng tạo và tiếp tục dòng dõi nhân loại. Người mẹ vui hẳn lên vì tương lai huy hoàng đang chờ đón con mình, và tương lai của người mẹ như được bảo đảm hơn vì có thêm gậy chống cho tuổi đời.
Cũng tương tự như thế, các môn đệ buồn rầu trước cuộc ra đi của Đấng đã chịu đóng đinh vì mình. Họ lo âu cho tương lai đời họ sẽ đi về đâu, số phận của họ Con Tạo sẽ xoay vần ra sao. Nỗi lo âu có trên một phạm vi nhân loại rất là hữu lý, có vẻ là khôn ngoan, lo xa nữa. nhưng Chúa nói đó chỉ là nỗi lo âu tạm bợ thôi. Cũng như xưa kia các môn đệ lo lắng làm sao ra của ăn nơi hoang địa, thì Chúa đã ban bánh hóa ra nhiều 2 lần. Nơi vườn cây dầu, các môn đệ lo sợ sống những giây phút căng thẳng… Nhưng rồi Chúa đã phục sinh hiện đến giữa họ, ban an bình, lấy lại niềm tin hy vọng. Nay niềm vui chưa trọn thì Chúa lại về Trời. Sự vui qua sự sầu lại tới là thường thế đó.
Nhưng các môn đệ đâu có ngờ Chúa về Trời mà vẫn còn ở lại với họ và những người kế tiếp họ cho đến tận thế. Ngài vẫn sống, nhưng sống cách thiêng liêng vượt trên mọi điều kiện không gian, thời gian. Chính nhờ đó các môn đệ không còn cảm thấy lo sợ và họ còn vui mừng đón nhận cái chết như chính Chúa nữa, vì họ biết có phần tốt nhất đang dành cho họ trên Trời.
Đời sống người Kitô hữu luôn luôn bao gồm nhưng lúc chờ đợi với ít nhiều buồn thảm và những lúc gặp gỡ vui mừng. Như một đợt sóng có lúc hạ xuống. Đời sống con cái Chúa cũng bồng bềnh trong đau khổ và niềm vui như vậy. Xin đừng quên lời Chúa: “Nỗi vui mừng của các con không ai giật mất được” (c.22). Niềm vui của chúng ta là niềm vui đã được Chúa cứu chuộc, không còn bị án nào nữa. Chúng ta đã được thâu nhập vào Giáo hội cùng phép rửa tội, được Chúa huấn luyện bằng lời Chúa, được Ngài nuôi dưỡng bằng Mình Ngài. Mỗi ngày sống chúng ta vui mừng vì sẽ được về gần trời.
Thông thường, đau khổ được coi là hình phạt dành cho những kẻ gây ra tội ác. Nếu hình phạt chưa đến với họ, thì đời con đời cháu sẽ phải gánh chịu: “Đời cha ăn mặn đời con khát nước, Cha ăn nho xanh con ghê răng”.
Chúa Giêsu đã có cái nhìn lạc quan về đau khổ. Với Ngài, đau khổ không hướng về quá khứ, nhưng mở cửa cho tương lai. Con người không tuyệt vọng trong đau khổ, nhưng hy vọng vui mừng vì thành quả của đau khổ. Người đàn bà sinh con thì ưu phiền, nhưng sinh con rồi thì quên hết cơn đau, vì niềm vui đã có một người con sinh ra đời. Đoạn đường dẫn đến Núi Sọ được dệt bằng đau khổ tủi nhục của tuyệt vọng, nhưng lại mở lối cho vinh quang Phục Sinh.
Trước nỗi buồn của các môn đệ vì sự ra đi của Ngài, chúa Giêsu vẫn không bỏ dở công trình cứu chuộc của Thiên Chúa. Ngài mời gói các ông đừng lắng đọng trong buồn phiền khổ sầu, nhưng hướng về niềm vui tương lai: “Bây giờ các con phải ưu phiền, nhưng Ta sẽ gặp lại các con, lòng các con sẽ vui mừng, và nỗi vui mừng của các con không ai giựt mất được”.
Niềm vui chỉ có được khi chúng ta sống trong hy vọng và mong chờ. Tôi có hy vọng, mong chờ gì nơi Chúa không ? Có Chúa là niềm vui vì Chúa có một chỗ đứng quan trọng trong đời sống các Tông Đồ; còn tôi, Chúa có chỗ đứng nào trong đời tôi không ? và biết bao nhiêu câu hỏi ta có thể đặt ra cho chính mình trước niềm vui phục sinh của các Tông Đồ.
Lời nhắn nhủ của Chúa Giêsu cũng được gửi đến mỗi người Kitô hữu chúng ta: chỉ than trách hoặc đặt câu hỏi thì đau khổ vẫn mãi là đau khổ, nhưng chỉ khi hướng về Thập giá, chúng ta sẽ khám phá ra ý nghĩa và giá trị của đau khổ. Ước gì Thập giá là ánh sáng soi đường chúng ta trong những tăm tối cuộc đời, và qua thập giá, chúng ta sẽ tới ánh sáng.
2023
Hiện diện mới
18.5 Lễ Thăng Thiên
Hiện diện mới
Biến cố Đức Giêsu lên trời là một biến cố lịch sử. Vì biến cố này đã diễn ra trong một thời gian và không gian nhất định, có sự chứng kiến của nhiều người và đã được sách Cộng Vụ Tông Đồ và các sách Tin mừng ghi lại. Bài đọc I cho chúng ta biết, sau thời gian thi hành nhiệm vụ ở thế gian, Ngài chịu nạn chịu chết, sống lại và hiện ra với nhiều người. Hôm nay, trước mặt các Tông đồ, Ngài được cất nhắc lên trời (Cv 1, 1-11). Cũng trong khung cảnh đó, bài Tin mừng cho chúng ta biết, theo lời hẹn trước, Mười một Tông đồ đã đến Galilê gặp Đức Giêsu. Trước khi lên trời, Ngài trao cho các ông sứ mạng loan báo Tin mừng (Mt 28, 18-20).
Sự kiện Chúa Giêsu thăng thiên đánh dấu việc Người trở về “nơi” mà Người đã hiện hữu trước khi nhập thể (Ga 3, 13). Lễ này nói lên việc nhân tính của Người tiến vào trong vinh quang của Thiên Chúa một cách vĩnh viễn (Ga 16, 28; 17, 5). Nó đánh dấu sự kết thúc sứ mệnh hữu hình của Chúa Giêsu ở trần gian và khởi đầu sứ mệnh của Giáo Hội. Vào chính ngày Phục Sinh, Chúa Giêsu đã được tôn vinh, được siêu thăng và “ngự bên hữu Chúa Cha” trong thân xác vinh quang của Người rồi.
Tuy nhiên, theo trình thuật của Thánh Luca, sau khi phục sinh, Chúa Giêsu còn hiện ra nhiều lần với các môn đệ trong khoảng thời gian 40 ngày. Đây là thời gian Chúa Giêsu dùng để khẳng định sự Phục Sinh của Người, củng cố niềm tin của các môn đệ, hoàn tất việc giảng dạy và sai các ông đi rao giảng Phúc Âm.Với biến cố thăng thiên, Chúa Giêsu không còn hiện diện trong thân xác hữu hình như trước kia, nhưng Người vẫn hiện diện với Giáo Hội cho đến ngày tận thế (Mt 28, 20) theo phương cách mới – theo quyền năng của Chúa Thánh Thần, với tư cách là Chúa của vũ trụ (Pl 2, 10-11).
Chúa lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha. Theo Thánh Kinh, ngự bên hữu nghĩa là đồng hàng trong danh dự, phẩm vị và quyền năng. Chúa Giêsu lên trời sau khi hoàn tất công cuộc cứu độ. Người lấy lại vinh quang, uy quyền và danh dự của một Thiên Chúa đồng hàng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Người lấy lại những sự ấy là vì đã tự nguyện trút bỏ nó khi vào trần gian để thực thi chương trình cứu độ. “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2,6-7).
Các Tông đồ đã được “thực mục sở thị” mầu nhiệm thăng thiên của Thầy mình, cũng tức là đã được củng cố đức tin vững vàng về mầu nhiệm Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, xuống thế làm người, chịu khổ hình thập giá vì tội lỗi loài người, đã sống lại và thật sự lên trời vinh hiển. Những việc làm, những Lời dạy của Thầy đã là hiện thực 100%. Vậy thì còn “đăm đăm nhìn theo bóng dáng Thầy” làm chi nữa, bởi chính Thầy đã dạy “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28, 20). Lời thiên sứ “ Chúa Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” cũng đã được Thầy nhắn nhủ từ trước: “Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14, 2-3). Người còn nói rất rõ chính Người sẽ đến: “Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người.” (Mt 25, 31).
Biến cố Chúa lên trời chỉ là một cách Thiên Chúa mạc khải cho con người dễ hiểu mà thôi. Còn thực chất trời không phải là một không gian cố định nào và kể từ khi Chúa phục sinh thì Người không còn bị giới hạn bởi thân xác phàm tục nữa, mà là cùng lúc Người vẫn kết hợp mật thiết với Ngôi Cha và Ngôi Ba, đồng thời Người còn ở khắp mọi nơi “cả trên trời, dưới đất và trong nơi âm phủ nữa”. Như vậy là đã rõ, trời không phải là ở chỗ này hay chỗ kia, ở trên cao hay dưới thấp, mà là ở khắp mọi nơi. Chúng ta vẫn thường nói khi con người sống thánh thiện là đã nên thánh giữa đời, lên thiên đàng ngay ở trần gian này. Và quả thật chỉ có như thế thì mới có “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20) được.
Vấn đề quan trọng không phải là cứ đăm đăm nhìn theo bóng dáng Thầy, để mà tiếc nuối, hoặc để mà thắc mắc xem trời ở đâu và Thầy lên trời sẽ cư ngụ chỗ nào (kiểu như những con người ở thế kỷ XXI này thắc mắc); mà là hãy nhớ lại lời Thầy đã truyền: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.” (Mt 28, 19).
Vì thế, nên “Các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.” (Mc 16, 20). Sở dĩ các Tông đồ tiên khởi làm được như vậy, chính là nhờ các ngài đã có một lòng tin sắt đá vào Thầy của mình, bởi “Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ.” (Mc 16, 17-18).
Hôm nay Chúa Giê-su đang ở trong mỗi người chúng ta như lời Ngài phán: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” Ngài tha thiết kêu mời chúng ta hợp tác với Ngài trong việc loan Tin mừng và cứu độ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những gì Thầy đã truyền cho anh em.” (Mt 28, 19-20)
Còn rất nhiều người chưa nhận biết Tin mừng của Chúa Giêsu. Tâm hồn họ là những trang giấy trắng. Chúa Giêsu rất muốn nắm lấy bàn tay nhỏ bé yếu đuối của chúng ta để viết lên trong tâm hồn họ những trang Tin mừng về Thiên Chúa là Cha yêu thương, về mọi người là anh em một nhà, về tình huynh đệ không biên giới… Chúa Giêsu muốn sử dụng chúng ta như khí cụ hữu hiệu mang lại ơn cứu rỗi cho nhiều người. Điều quan trọng là chúng ta có bằng lòng để cho Ngài thực hiện kế hoạch cứu độ của Ngài qua chúng ta hay không.
Lễ Chúa Giêsu lên trời không phải là kết thúc, nhưng là khởi đầu một chặng đường mới, chặng đường của chứng nhân. Mỗi chúng ta hãy lên đường, nhờ ơn Chúa Thánh Thần, mạnh mẽ can đảm làm chứng cho Chúa, như Người đang mời gọi chúng ta.
2023
Chúa Thánh Thần là Thầy dạy Kitô hữu
17.5 Thứ Tư trong tuần thứ Sáu Mùa Phục Sinh
Cv 17:15,2218; Tv 148:1-2,11-12,12-14,14; Ga 16:12-15
Chúa Thánh Thần là Thầy dạy Kitô hữu
Trước khi trở về cùng Chúa Cha, Chúa Giêsu đã hứa ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ (Ga 14, 16). Chúa Thánh Thần là Thần Chân Lý giúp các môn đệ thấu hiểu Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Giêsu (Ga 16, 5-13). Mầu Nhiệm này, tự sức mình, con người không thể thấu hiểu được (Ga 16, 12b), bởi lẽ, không ai biết được những gì nơi Thiên Chúa, nếu không phải là Thánh Thần của Thiên Chúa ban cho (1 Cr 2, 11). Như vậy, với sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, con người sẽ thấy được vẻ đẹp tròn đầy của Sự thật (Ga 16, 13).
Chúa Giêsu đã nói trước với các Tông đồ và đồng thời cũng là lời hứa với các ông, là Ngài sẽ sai Chúa Thánh Thần, là Thần Chân lý đến để tiếp tục giảng dạy cho các ông và cho cả thế giới biết tất cả sự thật về Ngài.
Tin mừng hôm nay trình bày về sư phạm của Chúa Thánh Thần, giúp chúng ta hiểu biết, huấn luyện ta lớn lên. Điều này giúp chúng ta tin tưởng vào ơn phù trợ và ơn soi sáng hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, để nhờ đó chúng ta ý thức và sốt sắng hơn trong việc cầu nguyện với Chúa Thánh Thần.
Chúa Giêsu là mạc khải trọn vẹn về Chúa Cha. Nhưng các môn đệ Người có khả năng tiếp nhận trọn vẹn mạc khải ấy hay không là một chuyện khác. Người xác nhận rằng các ông chưa “có thể chịu nổi” sự thật toàn vẹn. Người hứa rằng Thần khí sự thật, tức Chúa Thánh Thần, sẽ đến – nhưng không phải để trao “cú một” nguyên gói sự thật, mà là để “dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn”. Như thế, việc khám phá sự thật là một quá trình cần phải được tiếp tục không ngừng trong sự dẫn dắt của Thánh Thần; và thái độ đúng đắn của người môn đệ Chúa Giêsu là khiêm tốn, ngoan ngoãn lắng nghe sự dẫn dắt – thường một cách rất tế nhị và từ những phía rất bất ngờ – của Chúa Thánh Thần. Thái độ hãnh thắng, tự mãn, coi mình hoàn toàn đúng và kẻ khác hoàn toàn sai… chắc chắn không phải là thái độ của một người ở trong Thần Khí sự thật.
Chúa Thánh Thần đến hướng dẫn những môn đệ của Đức Giêsu đến sự thật toàn vẹn. Chúa Giêsu dùng từ ngữ “hướng dẫn đến sự thật toàn vẹn” để nói lên một trong những trách vụ của Chúa Thánh Thần. Đây không có nghĩa là Chúa Thánh Thần mạc khải thêm cho các môn đệ Chúa Giêsu biết những sự thật mới mẻ về Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần không mạc khải thêm những điều mới. Mạc khải của Chúa Giêsu đã trọn vẹn, nhưng các môn đệ chưa lãnh hội trọn vẹn hết mọi sự được, cần nhờ đến Chúa Thánh Thần để được dẫn sâu vào trong các sự thật của Chúa, để hiểu mỗi ngày một hơn mạc khải của Chúa. Các ngài cần đào sâu hơn giáo huấn của Chúa Giêsu, cần hướng dẫn đến sự thật toàn vẹn, cần hiểu sâu xa hơn về mầu nhiệm của Chúa Giêsu Kitô, nhờ qua Thánh Thần. Chúa Giêsu biết các môn đệ còn là những người có những giới hạn và cả những tật xấu nữa, và do đó đang cần đến sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần biết là chừng nào để có thể làm chứng cho Chúa cách đáng tin.
Chỉ trong Chúa Thánh Thần, nghĩa là trong đức tin, con người mới cảm nhận được sự hiện diện của Chúa Giêsu, chỉ trong Thánh Thần, con người mới có thể hiểu biết về Chúa Giêsu. Đó là cảm nghiệm mà các môn đệ Chúa Giêsu có thể có được từ sau lễ Ngũ tuần. Trước đó, Chúa Giêsu phục sinh đã nhiều lần hiện ra cho các ông, nhưng sự hiểu biết của các ông về mầu nhiệm của Ngài vẫn còn bị giới hạn. Chỉ sau khi Thánh Thần hiện xuống, các môn đệ mới cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Giêsu Phục sinh và chân lý của Ngài mới sáng tỏ trong tâm hồn các ông. Chúa Giêsu đã khẳng định vai trò giáo dục của Chúa Thánh Thần, khi Ngài nói với các môn đệ: Khi Thần chân lý đến, Ngài sẽ đưa các con vào tất cả sự thật.
Ngày nay đối với chúng ta, đời sống chúng ta luôn luôn cần đến sự giúp đỡ, hướng dẫn và giữ gìn. Ai sẽ giúp chúng ta điều đó? Thưa là Chúa Thánh Thần. Ngài không hiện diện giữa chúng ta theo kiểu Chúa Giêsu đã hiện diện giữa các Tông đồ, nhưng Ngài ở trong lòng chúng ta, để thực hiện nơi chúng ta những gì Chúa Giêsu đã thực hiện nơi các Tông đồ lúc Ngài còn tại thế. Ngài soi sáng trí khôn chúng ta, Ngài sưởi ấm cõi lòng chúng ta, Ngài thúc giục chúng ta làm điều lành và tránh điều xấu.
Chúa Giêsu khẳng định: “khi nào Thần Khí Sự Thật đến, Ngài sẽ đưa anh em tới sự thật toàn vẹn” (c.13a). Một sự thật về Chúa Cha, về Chúa Giêsu và về Ba Ngôi Thiên Chúa. Một sự thật về Tình Yêu của Thiên Chúa và con đường cứu độ của Ngài. Sự thật ấy đời đời ở trong Ba Ngôi Thiên Chúa, ở nơi cung lòng Chúa Cha. Sự Thật ấy chính là Ngôi Hai Thiên Chúa: “Ngài không tự mình nói ra, nhưng những gì Người nghe, Ngài sẽ nói lại và loan báo những điều sẽ xảy đến” (13b).
Như thế, Chúa Thánh Thần ở đây đóng vai trò giảng dạy và củng cố niềm tin cho các Tông Đồ. Ngoài ra, Ngài cũng tỏ lộ những điều sẽ xảy ra trong tương lai như một bằng chứng về quyền năng Thiên Chúa của Ngài.
Một sứ vụ khác của Chúa Thánh Thần là tôn vinh Chúa Giêsu “Ngài sẽ tôn vinh Thầy, vì Ngài sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em” (c.14). Như thế, Chúa Thánh Thần là ngôn sứ mới, sẽ nói về Chúa Cha và ở đây Ngài cũng nói về Chúa Con. Ngài tôn vinh Chúa Con trong Chúa Cha, vì việc làm của Chúa Con là thực hiện trọn vẹn chương trình cứu độ của Chúa Cha. Ngài chỉ nói lại, chỉ làm sáng tỏ những Mầu Nhiệm nơi Chúa Con, những lời nói hành động của Chúa Con mà các Tông đồ chưa thấu hiểu khi các ông còn ở trong trần gian, còn sống trong xác thịt yếu đuối.
Lãnh nhận niềm vui Phục sinh, mỗi người chúng ta được Hội thánh mời gọi làm cho niềm vui ấy được kéo dài trong từng ngày sống và lan toả đến những người chung quanh, bằng cách để Thánh Thần hướng dẫn đời mình. Nhờ đó, họ trở nên những chứng nhân về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa (Cv 1, 8); và, hoa trái của Thánh Thần là: bác ái, hoan lạc, bình an, quảng đại, nhân từ, lương thiện, trung tín, hiền hòa, và tiết độ (Gl 5, 22-23) sẽ trổ sinh trong cuộc đời của họ.