2022
Đừng xét đoán
Chúa Nhật Tuần VIII Mùa Thường Niên Năm C
PHÚC ÂM: Lc 6, 39-45
Đừng xét đoán
Giả hình là việc phô trương bên ngoài nhằm che dấu thực tại bên trong. Thánh Kinh kết án sự giả hình, nhất là trong những việc liên quan tới niềm tin.Khi nhắc đến cách sống của những người đạo đức giả với lối sống chuộng hình thức bề ngoài, giả hình kiểu Pharisiêu, Chúa Giêsu thốt lên: “Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em”.
Sống giả hình có nhiều dạng thức biểu hiện, Tin Mừng đã nhiều lần đề cập. Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đặc biệt chú trọng đến hai biểu hiện của người đạo đức giả và Ngài hướng dẫn cách để sửa lối sống giả hình ấy.
Thái độ săm soi những lỗi lầm của người khác, thấy khuyết điểm của người khác thì muốn phóng đại; nhưng bản thân không muốn nhìn về những lầm lỗi và không muốn sửa sai những khuyết điểm của chính mình. Đây là một thái độ đạo đức giả tinh vi hơn. Nếu ở mức thứ nhất chỉ “xét đoán” thì ở mức thứ hai này mang nặng màu đạo đức kiểu như: “Dám góp ý, sửa sai và có ý tưởng giúp đỡ anh chị em nên tốt”.
Với thái độ này, người ta che cho mình một lớp áo đẹp, một vẻ bên ngoài đạo mạo, là muốn làm điều tốt cho người khác, muốn chỉ bảo, sửa dạy, thay vì xét đoán. Họ hướng về người khác với ý hướng cao hơn, nhưng không dám đối diện với Chúa và cũng chẳng đủ khiêm tốn để đối thoại với anh chị em về yếu đuối hay lầm lỗi của mình. Với những người này thì họ bị cái xà ngăn chặn không cho họ thấy những điều tốt đẹp nơi người khác, họ nghĩ rằng ai cũng tội lỗi xấu xa và có cái xà lớn trong mắt giống như họ tưởng. Vì thế, những lỗi lầm của anh chị em dù nhỏ như cái rác, họ cũng biến nó trở thành to lớn như cái xà.
Chúa Giêsu dạy “đừng xét đoán” người khác nhưng trước tiên hãy xét mình,bởi vì khi mình chưa loại bỏ được cái xà trong mắt mình, là những nết xấu và thành kiến của mình, thì mình không thể thấy và lấy được cái rác trong mắt anh em. Với cái nhìn tầm xa hơn, việc xét mình còn giúp mình nhận thức rõ hơn thân phận mình trước mặt Thiên Chúa: thân phận tội lỗi. Như thế, nếu chúng ta mong được Thiên Chúa phán xét với lòng thương xót, thì chúng ta cũng phải biết sống với anh chị em bằng lòng nhân ái bao dung.
Để giúp cho những người đạo đức giả, Chúa Giêsu mời gọi họ nỗ lực khiêm tốn nhìn nhận lầm lỗi, hãy sửa đổi tâm hồn, hãy “lấy cái xà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi mắt người khác”. Hãy sửa sai chính mình trước khi đứng ở nơi cao làm thầy dạy sửa bảo người khác. Hãy đứng về phía anh em để cầu xin lòng thương xót Chúa chứ đừng dành chỗ của Chúa mà “xét đoán” anh em.
Chúa Giêsu còn dạy: xem quả thì biết cây. Thời gian sẽ cho biết cây nào xấu, cây nào tốt, khi chúng ra hoa kết trái. Thời gian sẽ cho biết ai thật ai giả. Công trình xây dựng có giá trị hay không, mưa nắng sẽ chứng nghiệm chất lượng. Chúa cũng căn cứ vào kết quả để biết rõ ai là môn đệ thật. Ngươi môn đệ thật là cây tốt sinh trái tốt.
Thánh Giacôbê đã viết : “Chỉ có một Đấng ra Lề luật và xét xử, đó là đấng có quyền cứu thoát và tiêu diệt, còn bạn là ai mà dám xét đoán người thân cận” (Gia 4,12). Vì vậy, khi chúng ta xét đoán người khác và kết án họ, chúng ta đang tiếm quyền hay ‘ăn cắp’ quyền năng của chính Thiên Chúa.
Trong Tin mừng Luca, Thánh ký có thuật lại câu chuyện, Chúa Giêsu được mời đến tham dự 1 phiên tòa, xét xử người phụ nữ bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình. Rất nhiều ‘các đấng các bậc’ hoặc những nhân vật ‘tai to mặt lớn’ cũng có mặt trong phiên tòa ngày hôm đó. Mỗi người cầm trong tay một hòn đá, rất hỷ hả chờ giây phút tuyên án để ném vào phạm nhân. Nhưng, tình thế cuối cùng đã thay đổi hoàn toàn. “Ai trong các ông vô tội, cứ việc cầm đá mà ném trước đi.”
Dường như câu nói của Chúa Giêsu đã làm lay động lương tâm chai lỳ của đám đông khiến tất cả mọi người lần lượt bỏ ra về hết sạch, từ người lớn tuổi nhất đến người nhỏ tuổi hơn…Cuối cùng khi không còn ai, Chúa mới ôn tồn nói với người phụ nữ : “Tôi không kết án chị đâu. Chị hãy về đi và đừng phạm tội nữa.”. Mỗi lần chúng ta đến tòa cáo giải, Chúa cũng nói với chúng ta giống hệt như vậy. Mọi người chúng ta đều là tội nhân nhưng đã không bị Chúa kết án bao giờ. Vậy tại sao chúng ta lại dám to gan và lạnh lùng kết án lẫn nhau, nhất là nhiều khi chúng ta lại kết án một cách rất hồ đồ với nhiều ác ý. Đây là những sự vu khống rất thường hay xảy ra. Sự kết án với ác ý nhằm bôi nhọ người khác là 1 trọng tội, giống hệt như tội giết người. Ngạn ngữ tây phương có câu “Có một thanh gươm không bao giờ rỉ sét, đó là cái lưỡi của con người”. Thanh gươm không rỉ sét dùng để chém giết hay tàn phá danh dự lẫn nhau luôn là những công cụ rất nguy hiểm mà chúng ta phải hết sức cẩn trọng và đề phòng.
Khi Chúa Giêsu nói về những người biệt phái và về những tiến sĩ luật: “Hãy làm những điều họ nói và đừng làm như họ sống, họ đặt những gánh nặng cho người khác, còn họ không vác”. Chúng ta có thể chắc rằng họ phải nổi giận bất bình với lời tố cáo như thế vì họ không cho họ là giả hình. Chúng ta có tốt hơn họ chăng?
Chúng ta tố giác anh chị em mình, chê trách họ đủ điều sai trái, chúng ta thấy họ nhiều thiếu xót không thể tha thứ được, không thể khoan hồng, không thể thông cảm và không cần tử tế với họ. Chúng ta sẽ giật mình ghê sợ nếu họ cũng kết án chúng ta như chúng ta kết án họ, nếu họ bảo chúng ta biết rõ những lỗi lầm của chúng ta như chúng ta khám phá thấy nơi họ.
Chúa Giêsu không ngại quở trách những người không “biết mình”, mà chỉ soi mói anh em giống như những Pharisêu, luật sĩ là những kẻ giả hình: “Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em!”.
2022
Giáo huấn khó !
Chúa nhật VII TN năm C
Lc 6, 27-38
Giáo huấn khó !
Chúng ta hãy thử hình dung đâu là phản ứng của một người lần đầu tiên nghe lời giáo huấn của Chúa Giêsu mà chúng ta vừa được nhắc lại. “ Hãy yêu thương kẻ thù, hãy làm phúc cho kẻ ghét anh em. Hãy chúc lành cho người nói xấu anh em. Ai vả con một bên má, thì con hãy đưa má bên kia. Ai lấy áo khoác của con, thì con trao cả áo trong nữa”. Chúng ta tự nhủ, đó là điều không thể được. Làm thế nào một người khôn ngoan lại có thể tuyên bố những lời ít thực tế, và dễ dàng mở cửa cho tất cả những sự thái quá như thế ?-“.
Tuy nhiên đây lại là dạy của Chúa Giêsu. Nó trình bày tư tưởng của ngài trong cái điều riêng biệt nhất và đặc trưng nhất. Tình yêu, không chỉ là tình yêu thúc đẩy chúng ta yêu thương những người yêu thương chúng ta, mà là tình yêu yêu thương ngay cả kẻ thù. Đó là bông hoa tinh tế của kitô giáo.
Để giúp hiểu hơn ý nghĩa của giáo huấn trên đây, chúng ta hãy nhớ lại một nguyên tắc đầu tiên khó lòng mà chối cãi cái tính cách phù hợp của nó. “ Điều mà các con muốn người khác làm cho các con, thì hãy làm cho họ” ( 6,3 ). Mà điều chúng ta mong muốn khi chúng ta làm sai quấy đối với một người, không phải là tấn công, buộc tội chúng ta và dùng một thứ thuốc giống như chúng ta đã làm cho họ. Chúng ta mong muốn một sự hiểu biết, và nếu có thể, một dấu chỉ tha thứ. Như thế, Chúa Giêsu mời gọi đối xử với anh em, người hàng xóm và ngay với kẻ thù, bằng một sự kính trọng và nhân từ. Ngài đóng lại tất cả những ý tưởng phục thù và báo oán. Như thế, ngài hy vọng rằng, sự kính trọng và nhân từ thúc đẩy kẻ thù nhìn lại chính mình và ăn năn, thống hối.
Chính với cách thức như thế mà Chúa Giêsu hành động. Chúng ta nhìn thấy điều đó cách đặc biệt khi đọc lại đoạn Thương Khó. Khi người ta tố cáo ngài một cách bất công, ngài không nói một lời. Khi người ta đánh đập ngài, ngài không đáp lại. Khi người ta nhạo báng ngài, khi người ta chối bỏ ngài, khi người ta bán ngài với ba mươi đồng, không bao giờ ngài chọn lấy một thái độ nào khác hơn là tình yêu và lòng thương xót. “ Lạy Cha, xin tha cho chúng; vì chúng không biết việc chúng làm” ( Lc 23 ).
Và cái nguyên tắc thứ hai, đó là ngài qui chiếu về Thiên Chúa. “ Hãy yêu thương kẻ thù ngươi. Hãy làm ơn và cho vay mượn mà không mong đáp trả lại. Bấy giờ phần thưởng của ngươi sẽ trọng đại ở trên trời, và các ngươi sẽ là con cái của Thiên Chúa tối cao, bởi vì ngài tốt lành, ngay cả đối vời kẻ vô ơn và người gian ác “ ( 6 ). Đó là nguồn gốc cao nhất của lời giáo huấn của ngài trên tất cả tình yêu, nhất là tình yêu kẻ thù. Kẻ thù, dù lớn dù nhỏ. Không phải chỉ những kẻ thù mà tất cả các cầu nối bị cắt đứt và những kẻ chỉ biết có chiến tranh, nhưng với con người nào đó làm chúng ta căng thẳng, hay với một người nào đó mà chúng ta không bao giờ có chung một tần số. Con người này, Thiên Chúa yêu thương họ. Ngài đối xử với anh ta một cách công bằng và tốt lành. Chúng ta được mời gọi hành động như thế; và chính đang khi hành động như thế, chúng ta thực sự trở thành con cái Thiên Chúa. Con cái xứng đáng của cha mẹ. Những đứa con có cùng một cái nhìn giống như ngài, cùng một tình cảm và cùng một cử chỉ đối với những người tốt và kẻ xấu.
Thực ra, như lời thánh Phaolô nói về Adam thứ nhất và Adam sau cùng. Adam thứ nhất được nhào nắn bằng đất, thuộc về xác thịt. Adam thứ hai từ trời xuống, thiêng liêng. Giữa hai Adam này, sự căng thẳng rất lớn.
Trước một kẻ thù, Adam thứ nhất phản ứng bằng sức mạnh và bạo lực. Mắt đền mắt, răng thế răng. Adam thứ hai thì có trong tay tình thương yêu. Bản tính tự nhiên của chúng ta thúc đẩy chúng ta hành động như Adam thứ nhất. Rất nhiều người hành động như thế. Trong số đó có cả chúng ta nữa. Chỉ cần một chút ý thức, chúng ta sẽ cảm thấy xấu hổ rất nhiều. Chính vì thế mà cần phải có luật lệ để chận đứng bạo lực và bất công, chiến tranh và bóc lột. Chính vì thế mà người ta không nhìn thấy rõ, làm thế nào tổ chức một xã hội không có tòa án, không có nhà tù.
Thế nhưng chúng ta cũng là anh chị em của Adam thứ hai, anh chị em của Đức Kitô là Đấng đã cho Thánh Thần ngự trong chúng ta: chính Thánh Thần thúc đẩy chúng ta đến tình yêu và sống tình yêu.
Cho đến ngày cuối cùng, cuộc chiến sẽ cam go giữa con người xác thịt và con người thiêng liêng ở trong chúng ta. Giống như thánh Phaolô, trong tất cả mọi trường hợp và bất cứ lúc nào, chúng ta thích làm sự lành, và tuy nhiên, chúng ta lại làm sự dữ.
Chúng ta đừng thất vọng về cuộc chiến thắng, sẽ không kiếm được bằng một cử chỉ đặc biệt, nhưng bằng hàng ngàn những cử chỉ và những nỗ lực nhỏ nhỏ để đào l uyện cho chúng ta một trái tim và một tinh thần giống như của Thiên Chúa.
Chính trong một giây lát mà bí tích rửa tội làm cho chúng ta trở thành nghĩa tử của Thiên Chúa, nhưng cần phải cả một đời để, theo gương Chúa Giêsu, trong tất cả con người chúng ta, chúng ta trở thành những con người mà tình yêu được tỏ lộ ra.
Bí tích Thánh Thể, luôn luôn đặt trước mắt chúng ta những cử chỉ và những lời mà Chúa Giêsu đã thực hiện vào buổi chiều Tiệc Ly, là một nguồn trợ lực lớn lao để đi trước trên con đường tình yêu đưa dẫn chúng ta đến chỗ yêu thương cả kẻ thù.
2022
Hạnh phúc
Chúa Nhật VI TN Năm C
Lc 6, 17. 20-26
Hạnh phúc
Ngày hôm nay chúng ta suy niệm về “các mối phúc thật theo thánh Luca”: Chúng ta biết nhiều hơn về các mối phúc thật của thánh Matthêu, vẫn được hát trong ngày lễ Các Thánh. Nhung vì chúng ta có một Lời Chúa được truyền lại bởi hai truyền thống khác nhau, chúng ta hãy thử lắng nghe bản văn hoàn toàn đặc biệt của Luca. Ở đấy, có một thứ liệu quả của kỹ thuật âm thanh lập thể bởi hai cái loa khác nhau.
Các mối phúc thật theo Thánh Matthêu (5,1):
Bài giảng trên Núi…
Bao gồm chín “mối phúc thật…”
Nhấn mạnh đến sự “nghèo khó tâm linh”, sự đói khát công lý sự đau khổ nội tâm…
Các mối phúc thật của Thánh Luca (6,20):
Bài giảng ở chỗ đất bằng.
Bao gồm “bốn” mối phúc thật và bốn mối hoạ.
Nói về những người nghèo đói thật, bụng đói thật sự và khóc chảy nước mắt.
Chúa Giêsu đi xuống cùng với các ông, Người dừng lại ở một chỗ đất bằng. Tại đó, đông đảo môn đệ của Người, và đoàn lũ dân chúng từ khắp miền Giu-đê, Giê-ru-sa-lem cũng như từ miền duyên hải Tia và Xi-đôn
Hình ảnh Chúa Giê-su xuống núi và đến một chỗ đất bằng, tại đó dân Thiên Chúa tụ tập quanh Người gợi nhớ hình ảnh ông Mô-sê từ trên núi Xi-nai xuống mang theo sứ điệp của Thiên Chúa. Thính giả của Chúa Giê-su đại diện đầy đủ mọi thành phần Dân Thiên Chúa: nhóm Mười Hai, đông đảo môn đệ của Người và đoàn lũ dân chúng từ khắp nơi đến.
Sau khi đã thường xuyên nói Chúa Giê-su giảng dạy, cuối cùng thánh Lu-ca sắp sửa đưa ra một trong những khuôn mẫu cô động nhất của công việc giảng dạy đó. Để làm điều này, thánh Lu-ca không tham khảo sách Tin Mừng Mác-cô nữa mà tận dụng “Nguồn các lời”.
Bài Diễn Từ Trên Cánh Đồng của thánh Lu-ca phù hợp theo mức độ nào đó với Bài Diễn Từ Trên Núi, một bài trình thuật rộng lớn mà thánh Mát-thêu ghi lại cho chúng ta từ chương 5 đến chương 7. Trong suốt sứ vụ công khai của Người ở những miền và những thành phố khác nhau của Ít-ra-en, chắc hẳn Đức Giê-su đã rao giảng những điều như vậy trong những dịp khác nhau. Khi sử dụng “Nguồn các lời” này, mỗi thánh ký, dưới ơn linh hứng của Chúa Thánh Thần, đã sẽ chọn tường thuật những lời mà các ngài cho là hữu ích nhất trong việc giảng dạy cho độc giả đương thời của các ngài: người Ki-tô hữu gốc Do thái trong trường hợp thánh Mát-thêu, người Ki-tô hữu gốc lương dân trong trường hợp thánh Lu-ca.
Trước khi Chúa Giê-su công bố các Mối Phúc và các Mối Họa, thánh Lu-ca ghi nhận: “Đức Giê-su ngước mắt nhìn lên các môn đệ” (6: 20). Tại sao thánh Lu-ca lại ghi nhận cái nhìn của Đức Giê-su như thế? Đức Giê-su là Thiên Chúa làm người để gặp con người, chứ không phải là một đạo sư truyền bá một đạo lý hay một giáo thuyết. Ánh mắt của Người, cũng chính là cái nhìn của Thiên Chúa, đang rọi xuống trên những con người đang hiện diện trước mặt Người. Nơi những con người mà Người đang đưa mắt nhìn, Đức Giê-su thấy những người con được Chúa Cha tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa; vì thế, Người mặc khải cho họ biết họ là ai và làm cách nào để sống cho xứng đáng là những người con đích thật của Chúa Cha.
Tin Mừng hôm nay trình bày bốn lời chúc phúc cho những kẻ nghèo đói, khóc than, bị oán ghét, khai trừ, sỉ vả, kèm theo bốn lời nguyền rủa những người giàu có, no nê, vui cười, được mọi người ca tụng. Đó là những phản dề đối chiếu giữa người nghèo và kẻ giàu, giữa người đói khát và kẻ no đầy. Đó!à hai giai cấp trong xã hội luôn đối chọi nhau mà Tin Mừng muốn mô tả để người tín hữu Kitô chọn lựa.
Một điều rất hiển nhiên là Tin Mừng hướng chúng ta về người xấu số bất hạnh và cho họ niềm hy vọng hạnh phúc ở tương lai. Tin Mừng không hề lên án người giàu chỉ vì họ có nhiều tiền của, nhưng chỉ lên án những ai giàu có mà không biết sử dụng của cải cho đúng, thậm chí còn dùng của cải như chướng ngại vật chặn đứng lối vào Nước Trời. Giàu có mà hành xử như các thành viên của hội thượng lưu ở New York trong câu chuyện còn được Chúa chúc phúc. Họ được hưởng hạnh phúc đời này lẫn đời sau. Bí quyết của họ rất đơn giản, đó chính là biết chia sẻ và trao ban.
Chúa Giêsu không lên án của cải nói chung, nhưng lên án cách sử dụng của cải. Tiền bạc tự nó không có giá trị đạo đức. Nó có thể dùng vào việc tốt cũng như việc xấu. Tự bản chất, của cải không là những gì xấu xa, và tự bản chất, nghèo khó cũng không phải là nhân đức.
Chỉ “khốn cho người giàu có” khi họ không phân định rạch ròi giữa phương tiện và cùng đích, giữa điều kiện vật chất và định mệnh con người. Đời sống của họ bị nhận chìm bởi các con sóng là các phương tiện vật chất như áo quần, xe cộ, nhà cửa và các tiện nghi trong cuộc sống. Đời sống của họ bị đè bẹp bởi các hành trang vật chất chỉ giúp họ duy trì và phát huy sự sống trong cuộc lữ hành ngắn ngủi của một đời người. Họ quên rằng con người sống nhờ phương tiện nhưng lại sống cho cùng đích. Và cùng đích của con người là “Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33). Thảm kịch của cuộc sống chính là lo lắng tìm kiếm phương tiện, và để cho cùng đích tan biến trong phương tiện.
Con đường hạnh phúc là một lược đồ gợi ra những thái độ nội tâm phải sống (tâm hồn nghèo khó, dợn sơ, tin tưởng), những cách xứ sự đối với tha nhân (lòng thương xót, ý muốn hoà bình), những hoàn cảnh khó khăn phải đối phó (những thử thách về tâm hồn và vật chất, những sự bắt bớ). Tất cả những điều này đều hoà hợp chặt chẽ trong bản thân Đức Giêsu, Đấng được coi như thực hiện trọn vẹn nơi mình khát vọng hạnh phúc. Chính Người đã muốn sống cách hoàn hảo tinh thần của Mối Phúc trong cuộc sống của mình và đến cả trong cái chết của Người nữa.
Nếu như các mối phúc dẫn nhập vào một luân lý chủ trương hạnh phúc, thì không phải vì luân lý ấy có những lời khuyên thực hành rõ rệt, hoặc đòi hỏi phải tự mình cố gắng mới được nhưng luân lý ấy chỉ muốn đưa ra cho người ta một ân huệ nhưng không của Thiên Chúa, ân huệ được hiệp thông trong sự sống và hoan lạc với Người. Ân huệ này, người ta sẽ bắt đầu tiếp nhận bằng cách ngày qua ngày sống hai giới luật về tình yêu của Chúa là yêu Chúa và yêu người. Giống như con đường hạnh phúc mà Đức Giêsu đã khởi sự và đi trước vậy.
Chúa Giêsu cũng chính là kho tàng ẩn giấu. Ngài là niềm hạnh phúc lớn lao ở rất gần chúng ta mà chúng ta không nhận ra Ngài. Chúng ta chỉ có thể tìm gặp được Ngài Bằng “con đường ngược chiều”, con đường đau khổ và hy sinh. Chỉ qua con đường này chúng ta mới đến được vinh quang.
2022
Chúa chọn và gọi
Chúa Nhật V Thường niên
Lc 5,1-11
Chúa chọn và gọi
Tin Mừng hôm nay tường thuật về mẻ cá lạ lùng mà Phêrô và các bạn được chứng kiến. Đây khám phá chỉ đơn thuần là một phép lạ lớn lao cho ta ngưỡng phục quyền năng của Thiên Chúa. Nhưng qua dấu lạ này, Chúa Giêsu còn muốn mời gọi ta ra khơi truyền giáo. Và qua tiến trình của phép lạ, Chúa Giêsu đã áp dụng một chương trình đào tạo các môn đệ, đặc biệt là Phêrô, người đứng đầu các môn đệ.
Thánh Phêrô là một người đánh cá, không phải là môn thể thao, nhưng là kế sinh nhai của thánh nhân. Ngài có một nghề nghiệp. Ngài và những người đồng nghiệp đã làm việc vất vả suốt đêm, đó là thời điểm tốt nhất để đánh cá trong vùng sông hồ này, nhưng họ đã không đánh bắt được gì. Tiếp đó, Chúa Giêsu là một người thợ mộc, đã nói với Phêrô là một người đánh cá, hãy thả lưới một lần nữa. Vấn đề to lớn ở đây, bây giờ là thời điểm tệ hại nhất để đánh cá. Chúng ta có thể nghe được việc nhấn mạnh và xác quyết trong giọng của Phêrô: “Lạy Thầy, chúng con đã khó nhọc suốt đêm mà không đánh bắt được gì”. Ngài đã trình bày quan điểm với Chúa Giêsu để nhắc Chúa Giêsu đừng quên điều đó nhưng khi ngài thình lình nhận biết mình đang nói với ai.
Sau một lúc, có lẽ nhìn vào ánh mắt của Chúa Giêsu thấy sự nhấn mạnh trong đôi mắt của Ngài, nên Phêrô nói thêm: “Nhưng nếu Thầy đã phán như thế, con sẽ thả lưới”. Đức tin của Phêrô thì giống như một con trẻ khác xa với những người trưởng thành, nhưng nó đã mạnh đủ để ông đặt sự nhấn mạnh của ông vào từ”Thầy” khi ông nói: “Nếu Thầy nói như vậy con sẽ thả lưới”. Kết quả sự tin tưởng của Phêrô vào Chúa đã đưa đến một mẻ lưới kinh ngạc. Phêrô nghĩ rằng cách của ông là tốt nhất nhưng ông đã học biết rằng cách của Chúa thì tốt nhất.
Chúng ta chú ý đến nhiều điểm. Đức Giêsu sai Phêrô đánh thuyền ra khơi thả lưới. Chúa biết, khi ra lệnh như thế Người đòi hỏi Phêrô làm một việc trái ngước kinh nghiệm dân chài lành nghề. Thật vậy, Phêrô tin chắc rằng sau một đêm mệt nhọc uổng công, bây giờ là ban ngày, cố gắng cũng vô ích. Tuy nhiên vì vâng lời Chúa, vì tin Chúa, Phêrô thả lưới. Sau khi vớt được mẻ Chúa nhiều quá sức tưởng tượng, ông phản ứng như những tâm hồn ngay thẳng khi đứng trước tôn nhan Chúa: “Lạy Thày, con là một kẻ quá nhiều sai lỗi, một kẻ có tội”. Bằng một giọng uy nghi khích lệ, Chúa cho ông rõ phần thưởng đích thật của cuộc gặp gỡ trên mặt hồ. Qua hình ảnh phép lạ đánh cá, ông thoáng nhìn thấy số mệnh ông.
“Hãy ra khơi”. Chúa phán thế vì biết ngoài khơi là vùng có nhiều cá. Chúng ta nghĩ đến một Phêrô thuyền trưởng con thuyền Giáo Hội, như ảnh đạo thời xưa thường trình bày. Thày ra lệnh cho ông hãy lái Giáo Hội tiến vào chỗ hiểm nguy là thế giới trong đó cái khối nhân loại sống, lao động và chết. Trên thuyền với thuỷ thủ đoàn là những Kitô hữu, lệnh được ban ra là thả lưới xuống biển mặc dầu đã phí rất nhiều thì giờ mà chẳng được gì. Đức vâng lời đã đem lại một mẻ lưới thần kỳ. Tuy nhiên có phải bao giờ cũng gặt hái được kết quả lạ lùng không? Nếu thế chẳng quá dễ dàng ư? Điều quan trọng là đừng có lạm dụng cách chơi chữ của Chúa khi Người phán bảo Phêrô: “Từ nay ngươi sẽ là kẻ lưới người”. Thật vậy, nhân loại không bị cưỡng bách vào trong “lưới” của Giáo Hội. Ở đây là một thực tại cơn bản hơn: Phêrô và các tông đồ, do một hành vi biểu lộ đức tin trái ngược sự thật hiển nhiên theo quan niệm loài người, đã tỏ ra xứng đáng được Chúa cho biết số phận. Các ông được liên hợp với công cuộc cứu độ của Người trên thế giới.
Thánh chép sử diễn tả cách đơn giản về một trong những khía cạnh đòi hỏi gắt gao nhất của thiên chức các ông. Giáo Hội đã áp dụng câu đó cho thiên chức tu sĩ và thiên chức linh mục. Phêrô và các bạn không có được gia nghiệp súc tích của thanh niên nhà giàu, nhưng vốn liếng khiêm tốn của các ông, chiếc thuyền đánh cá, căn nhà, thôn xóm, đối với các ông là những gì tha thiết. Các ông cũng như chàng thanh niên đều được kêu gọi bỏ lại mọi sự. Trong thông điệp về sự độc thân của linh múc (đoạn 24), Đức Phaolô VI nhắc đến câu nói trên. Thế giới chúng ta gồm những vùng nước sâu lắm cá cần có những môn đệ bỏ lại mọi sự để theo Đức Kitô.
Chính Thiên Chúa, bằng cách trực tiếp hay gián tiếp, đã chọn gọi những người làm việc cho Ngài, làm cộng tác viên của Ngài trong công trình cứu chuộc nhân loại. Ngài đã gọi các tiên tri, các tông đồ, đã gọi bao nhiêu người khác, đã gọi chính chúng ta. Những ai được Chúa gọi phải mau mắn đáp lại ơn huệ của Chúa – Chúa kêu gọi đó là một ân huệ Ngài ban – một cách khiêm tốn và biết ơn vì ta chẳng đáng được vinh dự lớn lao như thế, và tự sức ta, ta cũng chẳng làm nổi việc gì.
Phải làm trọn ơn gọi của mình, khi đã chấp nhận thì không ngoái cổ lại đàng sau và hãy bắt tay vào việc một cách cần mẫn, hết lòng trông cậy vào ơn phù trợ của Ngài, vâng lời Ngài, tin tưởng phó thác và để Ngài tùy ý hoàn tất công việc lúc nào theo như Ngài muốn.
Chúng ta cầu xin Chúa ban ơn trợ giúp cách đặc biệt cho những người Chúa đã chọn, đã và đang khiêm tốn chịu khó làm việc Chúa trên khắp mọi cánh đồng và vườn nho của Chúa, nhất là cho Đức Thánh Cha, cho các vị Giám mục và các linh mục, cùng tất cả những người cộng tác chặt chẽ với các ngài.
Chúng ta cũng tha thiết xin Chúa kêu gọi thêm những người đang ước muốn vào làm việc tông đồ của Hội Thánh, đặc biệt trong những nơi đang xảy ra tình trạng “lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít”.
Chúa vẫn còn kêu gọi con người, và ngày nay nhu cầu ấy to lớn. Và vẫn còn có những người đáp lại lời Người. Một số người (như các tông đồ) được kêu gọi để tận hiến mình, đi theo Đức Kitô bằng một phương thế “chuyên nghiệp”. Nhưng không phải mọi Kitô hữu đều được kêu gọi theo Đức Kitô bằng cách ấy.
Bằng phép Rửa tội, chúng ta cũng được kêu gọi đi theo Đức Kitô. Nhưng đối với một người bình thường, đi theo Đức Kitô có nghĩa là gì? Là sống xứng danh một Kitô hữu trong ngành nghề của bạn ở bất cứ nơi nào bạn có mặt. Còn có nhiều cách phục vụ Đức Kitô và Tin Mừng Người hơn nữa. Ơn gọi ban đầu không hướng đến những tông đồ nhưng hướng đến những người môn đệ.
Ngày nay Chúa cũng đang kêu gọi chúng ta làm môn đệ Ngài. Vâng phục có thể bao hàm sự hy sinh, nhưng chắc chắn sẽ đem lại kết quả là cứu rỗi các linh hồn.