2021
THỰC HIỆN LỆNH TRUYỀN
17 12 X CHÚA NHẬT XXIX THƯỜNG NIÊN.
Ca vịnh tuần I.
Chúa Nhật Truyền Giáo.
Hôm nay là ngày truyền giáo trong cả Hội Thánh; các giáo hữu hãy tận tâm hợp ý cầu nguyện và dâng việc lành phúc đức, góp phần mở Nước Chúa cứu rỗi linh hồn anh chị em.
Chúa Nhật III trong tháng. Ngày truyền giáo của giáo phận.
Thánh Phan-xi-cô I-si-đô-rô Ga-de-lin Kính (Francois Isidore Gagelin), Linh mục (U1833), Tử đạo.
Có thể cử hành Thánh lễ Cầu Cho Việc Rao Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc (Trong Sách Lễ Rôma).
Không cử hành lễ Thánh I-nha-xi-ô thành An-ti-ô-ki-a, Giám mục, Tử đạo. Và không cử hành lễ cầu cho người qua đời (D2, D3), trừ lễ an táng.
Is 53,10-11; Hr 4,14-16; Mc 10,35-45 (hoặc Mc 10,42-45).
THỰC HIỆN LỆNH TRUYỀN
Vì yêu thương nhân loại, Ngài đã xuống thế làm người và ở giữa chúng ta. Suốt quãng đời công khai, Ngài đã làm biết bao nhiêu phép lạ, cho kẻ què được đi, kẻ mù được sáng, kẻ phong cùi được lành sạch, hầu xoa dịu phần nào những đớn đau và bất hạnh. Chúng ta có thể nói về Ngài như sau: Đi tới đâu, Ngài liền thi ân giáng phúc tới đó.
Và sau cùng để cứu độ chúng ta, Ngài đã phải chịu chết trên thập giá, như lời Ngài đã xác quyết: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu. Chính Ngài cũng đã đúc kết về cuộc đời của mình: Con người đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.
Đồng thời, Ngài cũng muốn chúng ta noi gương bắt chước Ngài đi vào con đường dấn thân để phục vụ. Trong bữa tiệc ly vào buổi tối ngày thứ năm Tuần thánh, Ngài đã quì xuống rửa chân cho các môn đệ và nói: Các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm. Nhưng nếu ta là Thầy và là Chúa mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau.
Ta thấy ai cũng muốn có danh vọng, và người ta thường xếp tiền tài danh vọng như một cặp bài trùng. Caphu đã từ chối ngai vàng để phục vụ Chúa đắc lực hơn. Còn Giacôbê và Gioan, hai ông lại tới xin Chúa cho một địa vị trong Nước Chúa, các ông hiểu đây là nước trần gian mà các ông nghĩ Chúa sắp thiết lập.
Nhân dịp này Chúa Giêsu cắt nghĩa cho các ông hiểu thêm về công việc của Người. Người là Chúa Cứu Thế, Đấng Cứu chuộc trần gian bằng đau khổ, bằng thập giá chứ không phải bằng một hoạt động chính trị, Chúa buồn rầu trách nhẹ các ông. Các con chẳng biết mình xin cái gì! Nhưng Chúa thấy các ông chân tình và nồng nhiệt, nên Chúa cũng hé mở cho các ông một vài nét về tương lai: Các con sẽ uống chén đắng Ta uống, và đắm mình trong phép rửa bằng máu như Ta. Còn việc ngồi bền tả hay bên hữu Ta thì lại là chuyện khác. Những lời này làm hai tông đồ hoang mang, nhưng về sau các ông sẽ hiểu và coi đó là một động cơ cho niềm tin trong hoạt động rao giảng Tin Mừng.
Các Tông đồ và những cộng sự của các ngài đã thừa hành mệnh lệnh này một cách xuất sắc. Trải qua bao khó khăn dọc dài lịch sử, các ngài đã đem Tin Mừng Phục Sinh tới nhiều miền và cho nhiều tâm hồn. Hơn hai ngàn năm qua, dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, các thế hệ tông đồ truyền giáo đã nối tiếp nhau mang Tin Mừng đi khắp địa cầu.
Như vậy, truyền giáo xuất phát từ Thiên Chúa, qua Đức Kitô sứ mạng này đã được trao cho Giáo Hội, nhờ Thánh Thần hướng dẫn Giáo Hội trung thành và nhiệt thành chu toàn sứ mạng cho đến ngày tận thế.Thực thi sứ mạng truyền giáo là chia sẻ cuộc sống như chính Chúa Giêsu đã sống, là yêu thương mọi người, yêu thương đến cùng, yêu thương đến nỗi dám chấp nhận hy sinh tính mạng cho những người mình yêu. Truyền giáo là làm chứng cho Chúa Kitô bằng đời sống.
Đọc lại câu chuyện hai tông đồ, có lẽ chúng ta mỉm cười. Nhưng trong cuộc đời Kitô hữu, nhiều khi chúng ta cũng chỉ nhằm lợi ích, địa vị cho mình, chúng ta nghĩ tới một bảo đảm cho cuộc sống hiện tại và mai sau. Đáng lẽ chúng ta phải đặt Chúa làm trung tâm đời sống, chúng ta muốn thực thi lòng tôn sùng, muốn dâng lời cảm tạ ngợi khen và phó thác tin tưởng vào Chúa. Còn tương lai của ta hoàn toàn do Chúa xếp định. Đó mới là tâm tình của người con thảo sống bên Cha hiền.
Lời thỉnh cầu của Giacôbê và Gioan đã làm các tông đồ khác khó chịu, vì tất cả các ông đều cùng tâm trạng như nhau, dù chưa dám xin Chúa. Cho tới lúc đó chưa ai hiểu được tư tưởng của Chúa. Chúa đã nói về cuộc khổ nạn của Người tới ba lần (Mc 10, 32-34) với những lời lẽ rõ rệt: Con Người sẽ bị bắt nộp, sẽ bị xử tử, bị chế giễu, người ta khạc nhổ vào mặt, đánh đòn và giết chết… Trong lúc Chúa Giêsu tự chọn chỗ rốt hết, thì các môn đệ lại mơ màng danh vọng, lại nghĩ tới địa vị cao sang. Một lần nữa Chúa nói lại chủ trương của Chúa trong tổ chức Người. Khác hẳn mọi tổ chức trần gian, ở đây người nào muốn lãnh đạo phải là tôi tớ, ai muốn đứng đầu phải trở thành nô lệ cho mọi người. “Vì Con Người không đến để cho người ta hầu hạ, nhưng để hầu hạ và hiến mạng sống làm giá cứu chuộc muôn dân”. Đó là căn bản Hiến pháp của Giáo hội Chúa.
Mỗi người Ki tô hữu phải là nhà truyền giáo, vì đó là bản chất của Giáo Hội. Khi nói về công việc truyền giáo, chúng ta thường nghĩ ngay đến việc loan báo Tin Mừng. Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay xác định cho chúng ta nội dung của việc loan báo Tin Mừng được cô động ở nơi lời phát biểu của Chúa Giêsu: “Con Người không đến để được kẻ hầu người hạ, nhưng là để hầu hạ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người”.
Nếu công việc truyền giáo được định nghĩa theo truyền thống Đông Phương “kể cho nhau nghe cuộc đời của Đức Ki tô”, thì mỗi người Ki tô hữu phải kể về cuộc đời của Chúa Giêsu cho anh chị em mình không chỉ bằng lời nói mà bằng chính cuộc sống của mình, nghĩa là, tự đặt mình vào trong tình liên đới với những anh chị em chung quanh mình, biến cuộc đời mình thành cuộc đời phục vụ và những đau khổ của mình thành giá cứu chuộc muôn người. Đó là lời loan báo Tin Mừng cụ thể nhất, sống động nhất và hữu hiệu nhất.
2021
Được gấp trăm
10 05 X CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN.
Không cử hành lễ cầu cho người qua đời (D2, D3), trừ lễ an táng.
Kn 7,7-11; Hr 4,12-13; Mc 10,17-30 (hoặc Mc 10,17-27).
Cuộc sống không ngừng đòi hỏi chúng ta phải lựa chọn và chọn lúc nào cũng đòi hỏi hy sinh. Kẻ bắt cá hai tay vẫn luôn luôn là người thua thiệt nhiều nhất. Hãy nhớ lại Lời Chúa đã phán :”Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được”(Mt 6,24).
Hãy bán tất cả những gì anh có mà cho người nghèo anh sẽ được một kho tàng trên trời, rồi hãy đến mà theo Ta.
Đó là đòi hỏi Chúa Giêsu đã đưa ra cho chàng thanh niên giàu có, sau khi biết chàng đã tuân giữ những giới luật từ thuở còn nhỏ. Đó là điều anh ta phải làm để được sống đời đời. Và đó cũng là điều anh ta còn thiếu. Đòi hỏi của Chúa Giêsu là một đòi hỏi đặc biệt dành riêng cho cá nhân anh ta. Đòi hỏi ấy đụng tới con người anh ta thật sâu, bởi vì nó đụng tới sự an toàn, chỗ dựa và lòng gắn bó của anh ta đối với của cải.
Dĩ nhiên Chúa Giêsu không đòi hỏi mọi người phải bán tất cả của cải để rồi tay trắng mà bước theo Ngài. Ladarô, bạn thân của Ngài vẫn sống cuộc đời bình thường bên hai bà chị là Martha và Maria. Giakêu đã tự nguyện cho người nghèo phân nửa tài sản, chứ không do đòi hỏi của Chúa Giêsu.
Vậy hẳn Ngài phải có lý do khi đưa ra một đòi hỏi quyết liệt như thế đối với chàng thanh niên. Ngài thấy anh có nhiều mặt tốt, nhưng Ngài cũng thấy anh bị trói buộc, bị cản trở, bị mất tự do bởi một điều, đó là sản nghiệp của anh. Ngài thấy rõ kho tàng dưới đất thực sự là một mối nguy hiểm cho anh, khiến anh có thể vuột mất kho tàng trên trời. Tình trạng hiện nay của anh chưa có gì đáng ngại, nhưng đam mê cứ lớn thêm mãi với thời gian.
Trước lời đề nghị của Chúa Giêsu, anh đã buồn sầu cúi mặt và bỏ đi. Phải chăng sự buồn sầu của anh bắt nguồn từ việc anh thấy mình không đủ quảng đại và liều lĩnh để đáp lại một lời mời gọi tốt đẹp như vậy. Một mặt anh bị hấp dẫn bởi lời đề nghị của Chúa Giêsu mà anh biết đó là con đường tốt nhất để đạt đến ước mơ của anh. Mặt khác anh lại quá gắn bó với của cải trần gian đến nỗi không thể rời bỏ chúng dễ dàng.
Có lẽ lòng yêu mến sự sống đời đời nơi anh chưa đủ mạnh để anh dám hy sinh điều cần phải hy sinh. Anh đã chọn điều anh yêu hơn, nhưng chọn lựa đó đưa anh vào nỗi ray rứt buồn phiền. Không phải anh sở hữu của cải, nhưng của cải đã sở hữu anh. Anh không có được niềm vui của Giakêu, niềm vui của người bắt đầu được siêu thoát với tiền của. Anh cũng chẳng có được niềm vui của người thương gia đi tìm ngọc quý. Bởi vì Nước Trời đáng cho chúng ta hy sinh tất cả.
Ai nhận ra được giá trị cao quý của Nước Trời, và sống theo tinh thần đó, thì giống như những người được nhắc trong dụ ngôn kho báu và viên ngọc quý ở Mt 13, 44-46: “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy. “Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp.Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.”
Và người đó đang bắt chước Đức Kitô, Đấng“vốn dĩ là Thiên Chúamà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2, 6-8).
Chúa Giêsu mời gọi người đàn ông giàu có trong Phúc Âm làm một chọn lựa. Chúa Giêsu đã yêu cầu anh ta bán tất cả những gì mình có mà bố thí cho người nghèo khó và đi theo Người. Người giàu có đã làm một quyết định sai. Ông ta đã quá dính bén đến của cải khiến ông ta không thể từ bỏ. Của cải của ông ta thì giống như một dãy núi, tách riêng ông ta với Chúa Giêsu. Ông ta thấy chướng ngại đó quá lớn và không thể vượt qua. Chúng ta cũng không biết điều gì xảy ra cho ông ta. Có thể dần dần ông ta tìm thấy một con đường đi vòng để theo Chúa Giêsu nhưng để trở thành môn đệ, ông đã bỏ lỡ cơ hội đầu tiên.
Một số người nam và người nữ qua lịch sử của Giáo Hội đã đáp trả lại lời mời gọi của Chúa Giêsu theo cách trên đây. Họ đã thật sự từ bỏ tất cả mọi của cải, vật chất để bước theo một đời sống ẩn tu hay tu sĩ hoặc là những nữ tu. Hầu hết mọi người chúng ta thì không nồng nhiệt cho lắm theo gương của họ, sự thật là Giáo Hội và xã hội sẽ không hiện hữu nếu tất cả mọi người chúng ta đều làm như thế. Không phải mọi người trong Giáo Hội đều có cùng một ơn gọi hoặc cùng một lời kêu gọi như nhau, và chúng ta không thể đơn giản giảm nhẹ lời mời gọi của Chúa Giêsu như là không liên quan hoặc là một điều không thể
Những gì các môn đệ bỏ lại đàng sau đều là những con người gần gũi, và những nhu cầu rất cần thiết cho đời sống thường ngày. Đó là nhà cửa, là gia đình… Nhưng đâu phải vậy mà các ông phải sống vất vưởng nơi đầu đường xó chợ. Cuộc đời của các ông giờ đây là cuộc đời của Đức Kitô, một cuộc đời của người gieo giống đem hạt giống Tin Mừng rải khắp mọi nơi, một cuộc đời đến với những anh chị em nghèo khổ, là cuộc đời luôn cất lời để rao giảng về Thiên Chúa là tình yêu, là Đấng cứu độ tất cả mọi người. Chính trong sứ vụ cao quý này, mà các ông đã nhận lại được biết bao nhiêu.
Vâng, lời nói của Giêsu: “ngay bây giờ” là lời nói rất đúng. Nếu ngồi chiêm ngắm cuộc đời của những người chân tu theo Chúa thực sự, và sống hoàn toàn cho Tin Mừng, chúng ta sẽ nhận ra ngay ở đời này họ đã nhận được biết bao nhiêu là nhà cửa, là ruộng đất. Rồi cả cha mẹ, lẫn anh chị em, con cái nữa. Mà tất cả lại là “gấp trăm” nữa chứ! Cái “gấp trăm” này tương hợp với con số tăng trưởng 30, 60 và 100 của dụ ngôn người gieo giống (Mc 4, 1-20)
2021
TRÁNH THÓI BÈ PHÁI VÀ TẬP ỨNG XỬ BAO DUNG
26 20 X CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN.
Ca vịnh tuần II.
Ds 11,25-29; Gc 5,1-6; Mc 9,38-43.45.47-48.
TRÁNH THÓI BÈ PHÁI VÀ TẬP ỨNG XỬ BAO DUNG
Tin Mừng hôm nay cho thấy óc phe nhóm và tinh thần bè phái cục bộ ngay trong hàng ngũ các môn đệ Chúa Giêsu: Khi thấy có người khác không theo Chúa Giêsu nhưng đã nhân danh Thầy mà trừ quỷ, ông Gioan đã ra sức ngăn cản họ và báo cho Chúa Giêsu hay biết sự việc để có hướng xử lý (Mc 9, 38). Ông không thể chấp nhận có người không thuộc Nhóm Mười Hai, lại dám cậy nhờ danh Thầy của ông để trừ quỷ, mặc dù họ cũng đã trục xuất được quỷ ra khỏi người bị nó ám. Ông muốn giữ độc quyền nhân danh Thầy để trừ quỷ cho Nhóm của ông.
Vào thời ông Môsê cũng vậy. Giôsuê cũng muốn dành độc quyền nói tiên tri cho nhóm bẩy mươi Kỳ Mục, nên đã yêu cầu Môsê hãy ngăn cấm hai ông Enđát và Mêđát, không thuộc Nhóm Bảy Mươi, mà cũng được Thần Khí tác động để nói tiên tri. Môsê đã trả lời cho môn đệ như sau: “Anh ghen giùm tôi hay sao ? Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ !” (Ds 11,29).
Trong quá khứ, Hội Thánh cũng đã lần do muốn bảo vệ sự độc quyền chiếm hữu Thiên Chúa của mình, nên đã có những hành động cục bộ khép kín, có những quyết nghị nặng tính trừng phạt răn đe đối với những ý kiến bất đồng…, làm mất đi sự trong sáng của khuôn mặt bao dung nhân hậu của Đức Giêsu trước mặt anh em dân ngoại. Nhưng từ Công Đồng Vatican II, Hội Thánh đã mở ra một trang sử mới, khi trong những văn kiện không còn những lời kết án, miệt thị những tư tưởng khác biệt. Thay vào đó Hội Thánh khiêm tốn chân thành nhìn nhận giới hạn của mình, và công nhận có những điều chân thiện mỹ nơi các tôn giáo và các nền văn hoá khác.
Chúa Giêsu chính là hiện thân lòng thương xót bao dung của Thiên Chúa, Ngài đã khẳng định, Ngài đến thế gian này là để tìm kiếm và cứu chữa những người tội lỗi, để tìm con chiên lạc, vì thế có thể nói ngược lại nếu thế gian này không có người tội lỗi không có chiên lạc, thì Đức Kitô đã không cần phải đến thế gian. Trong kinh tin kinh lát nữa chúng ta tuyên xưng cũng khẳng định như vậy: Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế. Chúa Giêsu đã dành cả cuộc đời để tìm kiếm và kêu gọi những con chiên lạc, những tâm hồn thiện chí khi đón nhận Tin Mừng của Ngài và quyết tâm hoán cải thì đều được đón nhận vào Nước trời, còn trái lại những người kiêu căng tự mãn sẽ đánh mất cơ hội của mình.
Câu chuyện trong trang Tin Mừng hôm nay được nói cho các Thượng Tế và Kinh sư trong dân Do Thái là những người thế giá đứng đầu trong dân, những người tự cho mình là những người công chính, luôn tuân hành mọi lề luật, nhưng thực ra họ giống như người con thứ hai trong dụ ngôn, khi được cha mời đi làm vườn nho, thì anh ta ngon ngọt thưa vâng con sẽ đi, trên mội miệng mà thực tế anh không hành động, không đi làm, không vào vườn nho. Còn trái lại, những người thu thuế và tội lỗi, xem ra bên ngoài họ là những người từ chối lời mời gọi của Thiên Chúa: Con không đi, thế nhưng sau đó họ hối hận và đã đi làm.
Dụ ngôn hôm nay còn cho thấy một Thiên Chúa hết sức nhân từ bao dung, Ngài chính là Người cha trong dụ ngôn chúng ta vừa nghe. Ông không hề nổi giận trước câu trả lời như tạt nước của đứa con thứ nhất: Con không đi, ông cũng không trách nó nửa lời, ông như người cha cắn răng chịu đựng sự ngỗ nghịch của những đứa con, ông lại lặng lẽ đến với đứa con thư hai, vẫn một thái độ ân cần như năn nỉ: Con hãy đi làm vườn nho cho cha! người cha này đã chờ đợi cả hai đứa con vào làm vườn nho, thế nhưng đứa con đã từ chối ông làm ông khổ tâm, lại là đứa mang đến cho ông niềm an ủi vì sự hối hận của nó, còn đứa ngon ngọt kia lại là kẻ gây đau khổ cho ông khi nó nói có mà không làm, khi nó hứa mà không giữ lời.
Như vậy, điều làm hài lòng Thiên Chúa không phải là những lời lẽ trên môi hay những câu kinh vô hồn mà là một tấm lòng và thái độ đáp lại cụ thể lời mời gọi của Chúa. Và Thiên Chúa Ngài không kể gì đến quá khứ của con người khi con người đã hối hận và thật lòng quay trở về với Ngài.
Chúng ta phải sống với Chúa như thế nào cho trọn đạo làm con? Thánh Phaolô trong thư Philip đã giới thiệu cho chúng ta tấm gương của một người con đó là Đức Giêsu, Ngài vốn dĩ là Thiên Chúa, là Con Thiên Chúa, vậy mà Ngài đã chấp nhận từ bỏ mọi vinh quang sống hoàn toàn vâng phục Cha trong mọi sự, chấp nhận mang thân phân con người, hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết; Chính vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người đặt Ngài làm Chúa tể trên trời dưới đất.
Đó chính là tấm gương của một người con thảo hiếu với Thiên Chúa, mà chúng ta cần noi theo. Để noi theo tấm gương này, Thánh Phaolô cũng chỉ cho chúng ta là, mỗi người hãy có những tâm tình như Chúa Giêsu đó là tâm tình vâng phục trong yêu mến dành cho Thiên Chúa, và gắn bó thông hiệp với Chúa Giêsu trong Thần Khí, Ngài sẽ chỉ cho chúng ta biết sống cho phải đạo làm con.
Trong Tông thư “Tiến Tới Thiên Niên Kỷ Thứ Ba” (10/11/1994). Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã viết: “Giáo Hội phải ý thức sâu sắc trách nhiệm về tội lỗi của con cái mình, khi hồi tưởng lại trong lịch sử những thái độ lạc xa Thánh Thần của Đức Kitô và Tin Mừng… Trong số những tội lỗi đòi hỏi phải có một nỗ lực sám hối và hoán cải đặc biệt hơn, hiển nhiên phải kể đến những tội phá hỏng sự hiệp nhất mà Thiên Chúa muốn có nơi dân của Ngài.
Qua những ngàn năm đã qua, kể cả ở ngàn năm thứ nhất, mối hiệp thông Giáo Hội đôi khi bởi lỗi lầm của thành phần này hay thành phần khác, đã bị xé rách một cách đau đớn, điều đó rõ ràng đi ngược lại với ý muốn của Đức Kitô và là cớ vấp phạm cho thế giới” (số 34).
Chúng ta là những môn đệ của Đức Kitô hôm nay cần học tập Thầy Giêsu để sẵn sàng giơ tay ra với mọi người thiện chí và mời gọi mọi người cùng hợp tác trong các việc tốt. Đồng thời tránh sự loại trừ, bất hợp tác với người khác trong các việc mang lại ích lợi cho môi trường sống và trật tự xã hội. Tinh thần bao dung này phải mang tính bao dung không biên giới, không đóng khung trong một phe nhóm hay tổ chức nào. Tinh thần đó phải vượt lên trên mọi khác biệt, vì “Thần Khí Chúa được ban cho mọi người không phân biệt ai”.
Ngày hôm nay cũng vậy, đôi khi chúng ta thấy có những anh em Phật tử hay vô tín ngưỡng làm được những việc tốt như: vệ sinh môi trường, hiến máu nhân đạo, chia sẻ cơm áo gạo tiền cho người nghèo khó bất hạnh, mổ mắt miễn phí… hoặc khiêm tốn phục vụ những bệnh nhân ung bướu, HIV-AIDS… thì hãy nhớ rằng: những anh em đó cũng thuộc về Thiên Chúa như chúng ta và họ đang làm công việc tốt lành của Thiên Chúa Tình Thương giống như chúng ta, như lời thánh Gioan: “Phàm ai yêu thương thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4, 7-8).
2021
TIN VÀ CHẤP NHẬN
12 06 X CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN.
Ca vịnh tuần IV.
Không cử hành lễ Danh Rất Thánh Trinh Nữ Ma-ri-a. Và không cử hành lễ cầu cho người qua đời (D2, D3), trừ lễ an táng.
Is 50,5-9a; Gc 2,14-18; Mc 8,27-35.
TIN VÀ CHẤP NHẬN
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay thuật lại một cuộc trắc nghiệm Chúa Giêsu đưa ra cho các tông đồ sau một thời gian đi theo Chúa. Sau khi chữa lành người câm điếc mà chúng ta nghe Chúa nhật tuần trước, Chúa Giêsu và các môn đệ tiếp túc tách khỏi đám đông ồn ào, và đi sâu vào vùng đất của dân ngoại Cesare-Philipphê, ở đó trong thân tình chỉ có thày trò với nhau, Chúa Giêsu đã đặt vấn đề với các tông đồ, trước tiên, Ngài muốn biết dư luận dân chúng nghĩ gì về Ngài nên Ngài mới hỏi các tông đồ: Người ta bảo con người là ai?
Các câu trả lời của dân chúng đã không chính xác: Họ bảo Thày là Gioan Tây giá, hay Elia hoặc một tiên tri nào đó. Chúa Giêsu đã không quan tâm đên những dư luận sai lạc đó, Ngài đưa ra câu hỏi trực tiếp cho các tông đồ, như một bài trắc nghiệm niềm xác tin và sự hiểu biết cùa các ông sau một thời gian theo Chúa: Còn các con, các con bảo Thày là ai? Simon Phêrô đã thay cho anh em để trả lời: Thày là Đấng Kitô.
Câu trả lời này thật chính xác, Đấng Kitô có nghĩa là Đấng được Thiên Chúa xức dầu, là Đấng Mesia, Đấng Cứu thế mà các tổ phụ các tiên tri đã loan báo và muôn dân đang trông đợi. Chúa Giêsu đã chấp nhận lời tuyên xưng ấy, và Chúa muốn giải thích rõ hơn cho các ông hiểu về vai trò cứu thế của Ngài, Ngài là Đấng Cứu Thế không như những điều mà người Do Thái mong đợi, vì người Do Thái mong đợi một Đấng Cứu thế sẽ kế vị ngai báu của vua Đavít, sẽ xưng vương và là người đứng lên khởi nghĩa lật đổ chính quyền Roma, và xây dựng nên một vương quốc Giuda hùng mạnh. Chúa Giêsu đã không cứu thế theo con đường đó, mà Ngài muốn các môn đệ chấp nhận một đường lối của Thiên Chúa: Đấng cứu thế sẽ đến trong khiêm hạ, bị người ta bắt, đánh đòn và giết chết sau ba ngày Người sẽ sống lại.
Giống như những người Do Thái khác, Simon Phêrô đã không chấp nhận con đường khiêm hạ của Đấng Cứu thế, nên đã can ngăn Chúa Giêsu: Thưa Thầy, xin Thầy đừng làm như vậy. Chúa Giêsu đã thẳng thắn trách ông: Satan! lui lại đàng sau Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là tư tưởng của loài người. Tại sao Chúa trách Simon nặng lời như thế? Thưa, vì Simon đã quên mất vị trí của mình là một người môn đệ, người học trò của Chúa, đã là môn đệ, thì phải đi theo sau Thày, nghe lời Thầy, chứ không phải là người chỉ đường cho Thầy. Simon Phêrô đã muốn vượt lên phía trước để trở thành người dẫn đường, điều khiển Chúa theo ý mình, muốn Chúa phục vụ cho mình, nên Chúa Giêsu đã cảnh tỉnh để ông trở về đúng vị trí của mình là người môn đệ: Hãy lui lại đàng sau Thày.
Để giải thích thêm về đòi hỏi này, Chúa đưa ra cho mọi người một điều kiện tiên quyết: Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Để trở nên môn đệ của Chúa, đòi mỗi người phải có một chọn lựa dứt khoát: Ai muốn theo thì phải bỏ chính mình. Từ bỏ những cái bên ngoài như tài sản, danh vọng, và những mối liên hệ thân thiết như gia đình anh em bạn bè đã là điều khó, và từ bỏ chính mình là điều còn khó hơn.
Từ bỏ chính mình là chấp nhận nhận trở nên trống rỗng để cho Thiên Chúa đổ tràn đầy ân sủng của Người vào trong chúng ta, là chấp nhận từ bỏ những sở thích riêng, sự tự ái và cái tôi ích kỷ để hoàn toàn thuận theo ý Chúa, bước theo Chúa trong tin tưởng phó thác, và dám để cho Thiên Chúa thực hiện những điều Ngài muốn trên cuộc đời mình.
Kế đến là vác thập giá mình mà theo Chúa; vác thập giá của mình chứ không phải của ai khác, và bước đi theo Chúa chứ không phải bước đi trên con đường khác. Thập giá của mình là những việc bổn phận hàng ngày trong gia đình, nơi xí nghiệp, là những khó khăn thử thách trong mỗi ngày sống; và phải can đảm bước trên con đường theo Chúa, chứ không thể đi theo đường riêng hay ngõ tắt, mà phải đi vào con đường thập giá của Chúa, là chấp nhận mất để được, chết đi để được sống đời đời. Đó cũng chính là cái nghịch lý mà Chúa nói đến: Ai muốn cứu mạng sống mình sẽ mất, và ai liều mất mạng sống vì tôi và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy.
Chúa Giêsu đã sống cái nghịch lý này khi chấp nhận cứu chuộc nhân loại bằng con đường khiêm hạ, hoàn toàn vâng phúc thánh ý Thiên Chúa cha như một người đầy tớ. Tiên tri Isai đã phác họa gương mặt của đấng cứu thế qua bài ca về người tôi tớ trong bài đọc một: Người tôi tớ này đã chấp nhận để cho Thiên Chúa thực hiên mọi sự trên cuộc đời mình: Người đã mở tai tôi mà tôi không cưỡng lại, Tôi đã dưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu và không che mặt giấu mày khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ vì có Chúa là Đấng phù trợ tôi… Dù bị đối xử tàn tệ, nhưng người tôi tớ này vẫn không một lời than trách, nhưng vẫn một niềm cậy trông vào Chúa.
Cuộc đời mỗi người không phải lúc nào cũng thành công. Bên cạnh những điều như ý vẫn có những nỗi cay đắng, tủi nhục, những tai nạn rủi ro, những thất bại đau khổ… mà dù muốn hay không chúng ta cũng phải chịu. Đau khổ thất bại vẫn có thể trở thành nguyên nhân dẫn đến thành công, như người ta thường nói: “Thất bại là mẹ thành công”. ‘Thiên Chúa có thể rút từ sự dữ ra sự lành”, từ việc tổ phụ Giu-se bị các anh bán làm nô lệ bên Ai Cập, lại trở thành tể tướng triều đình Ai Cập và đưa cả dòng tộc Gia-cóp sang bên Ai cập tránh nạn đói kém. Tin là chấp nhận con đường thánh giá chật hẹp leo dốc như thánh Phao-lô đã khuyên đồ đệ Ti-mô-thê : “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người. Nếu ta chối bỏ Người, Người cũng sẽ chối bỏ ta. Nếu ta không trung tín, Người vẫn một lòng trung tín, vì Người không thể nào chối bỏ chính mình (2 Tm 2, 12-14).
Biết Chúa Giêsu và nói một cách chính xác về Chúa Giêsu đó là trách nhiệm của các bậc làm cha mẹ trong gia đình, là những Kitô hữu, các bậc cha mẹ sẽ phải là người nói về Chúa Giêsu cho vợ chồng con cái trong gia đình. Hãy nói về một Chúa Giêsu nhân từ yêu thương và phục vụ qua đời sống yêu thương phục vụ của cha mẹ, hãy nói về một Chúa Giêsu quảng đại và tha thứ qua chính sự quảng đại tha thứ trong gia đình. Người ta chỉ có thể biết và nói về Chúa Giêsu khi ta thực sự đã được gặp Ngài, do đó để nói một cách xác tin về chúa Giêsu cho vợ chồng con cháu, thì trước tiên bậc ông bà cha mẹ hãy gặp Chúa Giêsu trong Thánh Thể, trong Lời Chúa mỗi Ngày, để chúng ta có thể xác tín hơn khi nói về Ngài.
Chúa Giêsu phản ứng rất mãnh liệt; thái độ của thánh Phê-rô tái hiện trong tâm trí của Ngài cơn cám dỗ mà Ngài đã kinh qua trong hoang địa; Chúa Giêsu đáp trả vị Tông Đồ của Ngài cũng bằng những lời mà Ngài đã dùng để trục xuất Tên Cám Dỗ: “Sa-tan kia, xéo đi!” (Mt 4, 10), nhưng với thánh Phêrô, Ngài còn nói thêm: “Lui ra đằng sau Thầy”, nghĩa là “Anh không hiểu rằng nếu là môn đệ trung thành, anh phải bước đi theo con đường của Thầy”.
Và với tất cả những ai muốn làm môn đệ của Ngài, Chúa Giêsu cũng căn dặn một lời như vậy: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Hễ mỗi lần gợi lên cuộc Khổ Nạn của Ngài, Chúa Giêsu đều liên kết các môn đệ của Ngài, và qua họ, tất cả các Ki tô hữu, vào con đường đau khổ này: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì cứu được mạng sống ấy”. Ở đây Chúa Giêsu sử dụng một từ hai nghĩa: “mạng sống” vừa có nghĩa cuộc sống tạm thời ở đời nầy vừa cuộc sống đời đời ở mai sau.
Biết và tin vào Chúa Giêsu không phảỉ là tin vào một câu chuyện, mà là tin và chấp nhận Ngài là một vị Thiên Chúa làm người, và dám để cho Ngài bước vào cuộc đời và thay đổi cuộc sống chúng ta. Biết Chúa tin Chúa, là chấp nhận giáo huấn và lời dạy của Ngài và thực hành những điều Ngài mời gọi chúng ta. Ngài mời gọi chúng ta dám sống cái nghịch lý của tin Mừng, Ngài đòi chúng ta phải đi theo con đường của Tám mối Phúc Thật, đó là con đườnmg mà người đời cho là hèn kém, nhưng đối với Thiên Chúa thì đó là những con đường đưa tới hạnh phúc đời đời.