2023
3 lời hứa của chuỗi Lòng Chúa Thương Xót
3 lời hứa của chuỗi Lòng Chúa Thương Xót
Thánh Faustina Kowalska, một nữ tu người Ba Lan, đã nhận được một số mặc khải tư từ Chúa Giêsu, trong những năm 1930. Ngài đã viết lại những thị kiến này trong cuốn Nhật ký của mình, để sau này nó trở thành nền tảng cho Chuỗi Lòng Chúa Thương Xót cũng như cho ngày Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót.
Thánh Faustina Kowalska đã ghi lại trong nhật ký của mình một số lời hứa mà Chúa Giêsu đã hứa với ngài và với bất cứ ai lần chuỗi Lòng Chúa Thương Xót với một đức tin chân thành và thiện tâm.
Cũng như những mạc khải tư tương tự, Chúa Giêsu không tạo ra con đường tắt để lên Trời, nơi mà một người không chân thành có thể lần chuỗi cách máy móc hoặc nỗ lực bằng cách này hay cách khác để đạt được Nước Trời.
Những lời hứa này luôn là những món quà được trao cho người sẵn sàng đón nhận chúng.
Đây là ba lời hứa chính mà Chúa Giêsu đã ban cho Thánh Faustina.
“Khi những tội nhân cứng lòng lần Chuỗi Thương Xót, Ta sẽ lấp đây linh hồn họ bằng sự bình an, và giờ phút lâm chung của họ sẽ là giờ hạnh phúc” (Nhật ký, 1541)
“Các linh hồn đọc chuỗi kinh này sẽ được Lòng Thương Xót của Ta đón nhận trong suốt cuộc đời của họ và đặc biệt là vào giờ chết của họ” (Nhật ký, 754)
“Khi họ đọc chuỗi kinh này trước mặt người hấp hối, Ta sẽ đứng giữa Cha Ta và người hấp hối, không phải như một Thẩm Phán công minh mà là Đấng Cứu Rỗi đầy xót thương” (Nhật Ký, 1541)
Tác giả bài viết: Giuse Võ Tá Hoàng
2023
Ba nhân đức chúng ta có thể học được khi lần chuỗi mân côi
Tác giả bài viết: G. Võ Tá Hoàng chuyển ngữ
2023
KI-TÔ HỮU SỐNG ĐẠO: CHỌN CHÚA HAY CHỌN VIỆC CỦA CHÚA
Có lẽ trong đời sống đức tin, phần đông tín hữu chúng ta ưa thích làm những việc của Chúa hơn quan tâm chọn Chúa làm trung tâm và cùng đích của đời mình. Tất nhiên, nói như vậy không có nghĩa là chúng ta phủ nhận tinh thần tích cực và lòng nhiệt thành của những ai thực thi những việc của Chúa, từ trong những lễ nghi thờ phượng cho đến những phục vụ trong sinh hoạt cộng đoàn Dân Chúa. Nhưng trên hết, đối tượng mà chúng ta chọn lựa ưu tiên trong đời sống đức tin vẫn luôn luôn là Chúa, Đấng là tất cả trong mọi sự.
Vậy, để không rơi vào ảo tưởng cho rằng mình đã giữ đạo tốt lành, đúng ý Chúa, chúng ta cần phân biệt cách rạch ròi sự khác biệt giữa Chúa và việc của Chúa.
Đức cố HY Phan-xi-cô Xa-vi-ê Nguyễn Văn Thuận đã dành chương 2 trong cuốn sách nổi tiếng “Năm chiếc bánh và hai con cá” để chia sẻ kinh nghiệm thực tế của cá nhân ngài liên quan vấn đề “Phân biệt giữa Chúa và việc của Chúa”.
Ngài kể lại câu chuyện của bản thân ngài như sau:
“Lúc tôi còn là một linh mục sinh viên ở Roma, có một người đã bảo tôi: Ðức tính lớn nhất của bạn là ‘hăng say nhiệt tình’, còn tính xấu tệ nhất là ‘hay tấn công’. Dù thế nào đi nữa, tôi là một người ham hoạt động: hướng đạo sinh, tuyên úy tráng đoàn La-vang, cắm trại trên núi Bạch Mã… Một tư tưởng thúc bách tôi mỗi ngày: phải chạy đua với đồng hồ! Làm tất cả những gì có thể được để củng cố và phát triển Giáo hội trong Giáo phận Nha Trang, trước khi thời gian khốn khó xảy đến, khi phải sống dưới chế độ mới!
“Trọng tâm hoạt động của tôi là huấn luyện nhân sự: gia tăng đại chủng sinh từ 42 đến 147 trong tám năm; gia tăng số tiểu chủng sinh từ 200 đến 500 trong bốn chủng viện; tu nghiệp các linh mục trong sáu giáo phận của Giáo tỉnh miền Trung; phát triển và huấn luyện các phong trào thanh niên, giáo dân, các hội đồng giáo xứ, mục vụ… Tôi rất quí mến giáo phận đầu tiên của tôi là Nha Trang.
“Giờ đây, tôi phải đi vào Sàigòn lập tức, theo lệnh Ðức Phaolô VI bổ nhiệm. Không kịp từ biệt những ai đã từng hiệp nhất với tôi trong cùng một lý tưởng, cùng một quyết tâm, cùng chia sẻ hân hoan và thử thách.
“Ðêm ấy 7-5-1975, khi tôi ghi âm những lời tạm biệt Giáo phận Nha Trang, tôi đã khóc nhiều, đó là một lần độc nhất tôi đã khóc nhiều, đó là một lần độc nhất tôi đã khóc thổn thức trong tám năm ở Nha Trang – vì thương nhớ. Nhưng tâm hồn tôi rất bình an, vì tôi vâng lời Ðức Thánh Cha.
“Tiếp đến là gian khổ thử thách tại Sàigòn, là bị bắt đưa trở lại Nha Trang, nơi mà tôi đã bị biệt giam khắc nghiệt nhất, không xa Tòa Giám mục của tôi. Sáng tối tôi nghe tiếng chuông nhà thờ chánh tòa như xé nát tim tôi. Ðêm đến tôi nghe tiếng sóng biển vỗ cạnh buồng biệt giam.
“Từ Nha Trang tôi bị đưa trở lại Sàigòn, ở trại Thủ Ðức, vùng Tam Hà, ngày đêm nghe không biết bao nhiêu tiếng chuông nhà thờ. Ðêm 1-12-1975, cùng với 1.500 bạn tù đói, mệt, chán nản, còng tay hai người chung một khóa số 8, bước xuống gầm tàu ‘Hải Phòng’ đậu tại bến Tân Cảng gần cầu xa lộ, để chở ra trại cải tạo Vĩnh Quang, tỉnh Vĩnh Phú, trong thung lũng núi Tam Ðảo, mùa đông 1976-77 rét 20C.
“Ðặc biệt nhất là nỗi gian khổ của 9 năm biệt giam một mình với hai người gác, không bạn bè, không có việc làm, tôi ở trong một sự trống rỗng tuyệt đối, đến mức có thể điên đi được. Tôi đi lại suốt ngày trong buồng giam, để vận động cơ thể kẻo nằm luôn thì tôi sẽ chết vì thấp khớp, viêm phổi.
“Nhiều lúc một mình, tôi bị đau khổ giày vò, tại sao đang lúc mình 48 tuổi, trưởng thành và khỏe mạnh, sau tám năm Giám mục tôi đã có nhiều kinh nghiệm mục vụ, lại phải vào phòng biệt giam, xa giáo phận những 1.700 km?
“Một đêm thanh vắng, một tiếng từ đáy lòng nhắc nhở tôi: “Tại sao con quẫn trí, hoang mang như thế làm gì? Con phải biết phân biệt giữa Chúa và công việc của Chúa. Những gì con đã làm và tiếp tục làm như kinh lý giáo phận, huấn luyện nam nữ tu sĩ, giáo dân, thanh niên, kiến thiết thánh đường, cư xá sinh viên, mở mang các thí điểm truyền giáo vv… tất cả những công tác ấy đều là những việc tốt lành, là việc của Chúa, nhưng không phải là Chúa! Nếu Chúa muốn con trao tất cả các việc ấy trong tay Ngài, con hãy làm ngay, và hãy tin tưởng vào Ngài. Chúa có thể làm tốt hơn con muôn nghìn lần. Ngài có thể trao việc của Ngài cho những người tài đức hơn con. Hãy chọn một mình Chúa thôi, chọn thánh ý Ngài, chứ đừng chọn việc của Chúa!”.
“Tôi luôn luôn học tập làm theo ý Chúa. Nhưng ánh sáng này mang lại cho tôi một sinh lực mới, thay đổi tận gốc lối suy nghĩ của tôi, giúp tôi vượt qua những bước gian truân mà hầu như cơ thể không chịu đựng nổi. Từ đây tôi cảm thấy trong lòng tôi ‘một sự bình an mà thế gian không cho được’.
“Theo tính tự nhiên, những lúc chương trình đang thực hiện tốt đẹp phải bỏ dở, hoạt động đang hăng say phải bó tay, nhiệm vụ đang quan trọng phải hạ tầng công tác! Uất ức và chán nản! Tôi tự hỏi: Chúa gọi con ‘Hãy theo Thầy’ hay ‘Hãy theo việc nọ, người kia?’ Ðể đó, Chúa sẽ liệu, Ngài sẽ giải quyết tốt hơn con là cái chắc…”
Trong lúc bị giam cầm tù tội thế này, câu nói chủ đạo của ngài vẫn là: “Tôi phải chọn Chúa chứ không phải việc của Chúa: Chính Chúa muốn cho tôi ở đây, chứ không phải nơi khác”.
Và ngài đã cầu nguyện: Trước bàn thờ, bên Mình Thánh Chúa, con nghe Chúa Giêsu bảo con: “Con hãy theo Chúa, chứ không phải theo việc của Chúa!”. “Nếu Chúa muốn, con hãy trao việc Chúa lại trong tay Chúa, Chúa sử dụng ai tiếp tục, mặc ý Chúa. Có Chúa lo, mà Chúa lo thì muôn vạn lần hơn con lo. Con hãy chọn một mình Chúa”. [1]
Như vậy, ta thấy chọn Chúa là việc ưu tiên số một, nó quan trọng hơn gấp ngàn lần khi ta chọn lựa công việc của Chúa. Tất nhiên, chọn Chúa không hề là một việc dễ dàng chút nào. Bởi vì, khi chọn Chúa, chúng ta phải hy sinh cái “Tôi”, phải chịu từ bỏ ý riêng để chu toàn thánh ý Chúa, phải vâng lời Chúa hơn là nghe theo người phàm. Trong khi đó, kinh nghiệm cho thấy khi say mê làm những công việc của Chúa, chúng ta thường đem cái “Tôi” vào trong đó để đánh bóng, tô son những việc chúng ta làm. Và như thế chúng ta đã dần dần loại Chúa ra khỏi những gì mà chúng ta tưởng rằng mình làm vì Chúa, cho Chúa.
Do đó, trong đời sống đạo của mình, chúng ta nên thường xuyên đặt câu hỏi cho mình: “ Tôi đã và đang chọn Chúa hay chọn việc của Chúa?”.
I- NHƯ THẾ NÀO LÀ CHỌN CHÚA?
Câu chuyện hai chị em gia đình Bê-ta-ni-a đón tiếp Đức Giê-su đến thăm đã được thánh sử Lu-ca phác họa một cách ngắn ngủi nhưng sinh động và ẩn chứa nhiều ý nghĩa đặc biệt (x. Lc 10, 38-42).
Điều khiến cho chúng ta vừa thắc mắc vừa kinh ngạc khi khám phá ra sự khác biệt về thái độ và tâm trạng của hai chị em Mác-ta và Ma-ri-a trong cùng một sự kiện, đó là việc đón tiếp Chúa ở nhà mình. Cũng với lòng yêu mến Chúa như nhau, nhưng Mác-ta thì tất bật lo việc phục vụ bên ngoài, trong khi Ma-ri-a thì cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Ngài dạy. Còn Chúa thì Ngài phản ứng thế nào? Chắc chắn Chúa cũng thương mến cả hai chị em như nhau, nhưng Ngài đã nghiêng về sự lựa chọn của Ma-ri-a, “Mác-ta! Mác-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi” (Lc 10, 41-42).
“Chỉ có một chuyện cần thiết và Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất”. Đó là lời khẳng định dứt khoát của Chúa và lời ấy đã vén mở cho ta về cách sống đạo đẹp lòng Chúa nhất. Khác hẳn với Mác-ta, Ma-ri-a đã coi việc ngồi bên chân Chúa, nghe lời Ngài dạy là chuyện cần thiết và ưu tiên hơn là lăng xăng lo phục vụ cơm nước bên ngoài. Ma-ri-a cũng không phải là người vô cảm, vô trách nhiệm nhưng cô đã nghe theo tiếng nói của trái tim, của lòng mến, của niềm tin để chọn phần tốt nhất.
Có thể nói, Ma-ri-a trong câu chuyện này của Lu-ca đã trở thành hình mẫu người Ki-tô hữu đẹp lòng Chúa hơn cả. Bởi vì, “Để làm môn đệ Chúa Giê-su, điều quan trọng trước hết và trên hết phải là sự gắn bó với chính Thầy Giê-su, cho nên phải dành thời gian để lắng nghe Người (Lc 10, 39), gặp gỡ Người. Nếu không, ta sẽ dễ rơi vào mối nguy hiểm là lao vào đủ thứ công việc được gọi là yêu thương và phục vụ, nhưng thật ra chỉ làm theo ý mình chứ không phải ý Chúa, chỉ đi tìm bản thân mình chứ không kiếm tìm lợi ích thật sự cho người khác”. [2]
Vậy khi chọn Chúa, chúng ta tập trung hoàn toàn vào Chúa, lấy Chúa làm trung tâm đời mình, luôn đặt mình trước mặt Chúa để cầu nguyện và lắng nghe Chúa nói, nhất là kiên trung vâng phục thánh ý Chúa trong mọi sự.
1- Lấy Chúa làm trung tâm đời mình
Một khi người Ki-tô hữu chọn Chúa làm trung tâm đời mình thì họ sẽ trao phó tất cả cho Chúa và không lo lắng gì cả nữa. Nếu họ phải làm những công việc của Chúa, dù đó là việc cao cả trọng đại đi chăng nữa, thì họ vẫn bình an và phó thác vì họ làm theo ý Chúa chứ không theo ý mình.
Đúng như lời chia sẻ của Đức cố HY Phanxicô Nguyễn Văn Thuận, như sau: “Tôi luôn luôn học tập làm theo ý Chúa. Nhưng ánh sáng này mang lại cho tôi một sinh lực mới, thay đổi tận gốc lối suy nghĩ của tôi, giúp tôi vượt qua những bước gian truân mà hầu như cơ thể không chịu đựng nổi. Từ đây tôi cảm thấy trong lòng tôi ‘một sự bình an mà thế gian không cho được’ ”. [2]
Khi chúng ta chọn Chúa, thì Chúa sẽ ra tay làm chủ vận mệnh, con người và cuộc sống của ta. Chúng ta sẽ không còn phải quan tâm tới thành công, thất bại hay kết quả sẽ như thế nào nữa. Khi chọn Chúa, chúng ta sẽ được liên kết mật thiết với Chúa, như cành liên kết với cây, nhờ đó cành có sự sống và sự sống sẽ sinh nhiều hoa trái theo ý muốn của Chúa. Bởi xét cho cùng, không có Chúa, chúng ta không làm được gì.
“Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15, 5).
2- Cầu nguyện và lắng nghe Chúa nói
Việc chúng ta siêng năng cầu nguyện chứng tỏ rằng chúng ta đã quan tâm tới việc chọn Chúa như là Đấng hướng dẫn và làm chủ đời mình. Cầu nguyện cũng là cơ hội để chúng ta nghe Chúa nói. Do đó, việc cầu nguyện chân thành và khiêm tốn sẽ là bảo chứng chúng ta yêu mến Chúa, tin tưởng Chúa và hoàn toàn thuộc về Chúa. Lúc đó, dù chúng ta được Chúa giao phó làm bất kỳ việc gì, thì cũng là làm nhân danh Chúa, vì Chúa và cho Chúa.
Thực vậy, “Cầu nguyện là hiệp thông. Trong Tân Ước, cầu nguyện là sự hiệp thông của con cái với Thiên Chúa Ba Ngôi. Sống đời cầu nguyện là luôn hiện diện trước nhan Thiên Chúa và hiệp thông với Ngài. Lời cầu nguyện mang đặc tính Kitô giáo khi được hiệp thông với lời cầu nguyện của Đức Kitô, và được triển khai trong Hội thánh là Nhiệm Thể Người. Nâng tâm hồn lên là nâng sự hiểu biết từ việc đặt mình làm trọng tâm đến mức đặt Thiên Chúa làm trọng tâm. Nâng tâm hồn lên là kết hợp với Thiên Chúa, là hiệp thông với Ngài”. [3]
Các thánh là những người có một đời sống luôn kết hiệp với Chúa vì đã chọn Chúa làm cơ nghiệp đời mình, nên các ngài rất yêu quý sự cầu nguyện hơn bất cứ việc gì khác. Bởi vì đối với các ngài, cầu nguyện là một đời sống đích thực. Cầu nguyện bao trùm, ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống các ngài. Nó chính là sự sống và hơi thở vậy. Đức Cố HY Phx Nguyễn Văn Thuận đã viết như sau: “Bí quyết nuôi dưỡng đời sống Ki-tô hữu là cầu nguyện. Ai không cầu nguyện, dù có làm phép lạ, con cũng đừng tin” (Sách Đường Hy Vọng, đề mục Cầu Nguyện). Thánh An-phong-sô cũng đã nói như sau: “Sự giàu có của ta là cầu nguyện và ngày nào không cầu nguyện là ngày vất bỏ. Bỏ cầu nguyện là tự dìm mình vào hoả ngục”.
Như vậy những ai chọn Chúa thì sẽ yêu mến việc cầu nguyện bởi vì qua cầu nguyện họ được gặp Chúa và được Chúa yêu thương và chỉ bảo.
3- Vâng phục ý Chúa
Một trong những dấu hiệu nữa chứng tỏ chúng ta chọn Chúa, đó là sẵn sàng vâng phục ý Chúa trong mọi sự. Xin nhắc lại lời của Đức cố HY Phan-xi-cô Xa-vi-ê Nguyễn Văn Thuận: “Hãy chọn một mình Chúa thôi, chọn thánh ý Ngài, chứ đừng chọn việc của Chúa!”.
Chọn Chúa luôn bao hàm chọn lựa và vâng phục thánh ý Ngài. Cha Charles de Foucauld đã phổ biến lời kinh rất hay có tựa đề “Kinh Phó Thác”, như sau:
“Lạy Cha/ con phó mặc con cho Cha/ xin dùng con tùy sở thích Cha/ Cha dùng con làm chi, con cũng xin cám ơn/ Con luôn luôn sẵn sàng, con đón nhận tất cả/ Miễn là ý Cha thực hiện nơi con và nơi mọi loài Cha tạo dựng/ thì lạy Cha/ con không muốn chi khác nữa/ Con trao linh hồn con về tay Cha/ Con dâng linh hồn con cho Cha/ lạy Chúa Trời của con/ với tất cả tình yêu của lòng con/ Vì con yêu mến Cha/ vì lòng yêu mến thúc đẩy con phó dâng mình cho Cha/ thúc đẩy con trao trọn bản thân về tay Cha/ không so đo/ với một lòng tin cậy vô biên/ Vì Cha là Cha của con”.
II- NHỮNG NGUY CƠ KHI CHỌN VIỆC CỦA CHÚA HƠN CHỌN CHÚA
Nhiều Ki-tô hữu rất hăng say làm việc của Chúa, của Hội thánh, của cộng đoàn, nhưng lại lơ là trong đời sống đức tin. Đối với họ, việc của Chúa hấp dẫn hơn là chính Chúa. Do đó, họ có thể hy sinh tất cả, kể cả mạng sống, để làm thật nhiều việc của Chúa. Đó là căn bệnh mà bất kỳ người Ki-tô hữu nào cũng có thể mắc phải. Căn bệnh này có nguy cơ làm cho chúng ta xa Chúa, quên Chúa, lấy mình làm trung tâm thay vì quy hướng về Chúa, sa đà vào tình trạng phô trương, chiến thắng…
1- Nguy cơ quên Chúa và lấy mình làm trung tâm
Quên Chúa, xa Chúa là tình trạng khá phổ biến trong đời sống đạo của chúng ta. Khi say mê làm việc của Chúa, chúng ta dễ dàng để cho những việc của Chúa lấn chiếm hết thời gian dành cho Chúa và khó tập trung vào những bổn phận thờ phượng như cầu nguyện, lãnh nhận các bí tích, viếng Thánh Thể, suy gẫm… ĐTC Phan-xi-cô cũng đã nhắc nhở thế này: “Chúng ta hãy luôn hiệp nhất với Chúa Giêsu, chúng ta hãy tín thác nơi Người, chúng ta hãy định hướng đời mình theo Tin Mừng, nuôi dưỡng mình bằng cầu nguyện hàng ngày, bằng lắng nghe Lời Chúa và tham dự các Bí Tích”.
Một điều đáng lo ngại nhất, đó là chúng ta dễ dàng quên Chúa, bỏ Chúa ngay khi chúng ta thi hành bổn phận thờ phượng Thiên Chúa.
LM Giu-se Thân Văn Tường trong bài “Thờ phượng” tập “Đối diện với Thiên Chúa” đã viết như sau:
“Thờ phượng là sự kính mến của một người đối với nguồn gốc của mình.
“Là tạo vật, con người bao giờ cũng cảm nhận thấy mình bất tất, phải có nguồn gốc ngoài mình, nên tâm tình thờ phượng là xu hướng tự nhiên của họ. Sau khi loài người phạm tội, họ có thể thờ phượng mọi sự: Một người, một tạo vật trong thiên nhiên, một lý thuyết, một ảo tưởng…cái gì cũng có thể biến nên ngẫu tượng để họ tôn thờ.
“Một là người ta tôn thờ Thiên Chúa, hai là người ta tôn thờ chính bản thân mình. Khi tôn thờ Thiên Chúa, người ta không cần phải che đậy. Nhưng khi tôn thờ chính mình, người ta biết mình làm điều sai quấy, nên phải che đậy dưới đủ thứ chiêu bài, kể cả chiêu bài tôn giáo.
“Pha-ri-sêu có nghĩa là thờ mình dưới chiêu bài tôn giáo. Người Pha-ri-sêu làm mọi việc đạo đức, như hãm mình, đánh tội, bố thí, cầu kinh không phải để tôn vinh Thiên Chúa, nhưng để có lợi cho bản thân.
“Thay vì phụng sự Thiên Chúa, thường con người muốn Thiên Chúa phụng sự bản thân họ. Người ta hy sinh vì nhu cầu, vì dục vọng, ít ai hy sinh vì Thiên Chúa. Nhưng nhiều lúc, khi hy sinh vì nhu cầu, dục vụng, người ta cũng nghĩ mình hy sinh vì Thiên Chúa.
“Người ta quên Thiên Chúa trong nghệ thuật, chính trị, kinh tế…thì còn hiểu được, người ta quên Người ngay trong tôn giáo mới chính là điều quái gở”. [4]
2- Thích phô trương và ham mê chiến thắng, thành công
Đức cố HY Phan-xi cô Xa-vi-ê Nguyễn Văn Thuận đã nhắc đến bệnh phô trương chiến thắng của người Công giáo, như sau: [5]
“Làm gì cũng chỉ nhắm chuyện phô trương là chính. Bệnh này tiếng Pháp gọi là ‘triomphalisme’, người Mỹ cũng có từ ngữ ‘show up’.
“Thỉnh thoảng đây đó đọc trên những bản tin sinh hoạt cộng đoàn thật nức lòng: Đại lễ tổ chức vô cùng thành công, cuộc rước kéo dài cả nửa cây số, nhiều chục cha đồng tế, bữa tiệc kết thúc thật linh đình, bà con vô cùng hoan hỉ, chưa có bao giờ và có ai tổ chức được lớn như thế … Nhưng hết tiệc ra về rồi là hết. Đại lễ hôm qua hôm nay thành quá khứ xa lơ. Cảm xúc hôm qua hôm nay gọi mãi chẳng thấy về ! Hãy từ bỏ chứng bệnh phô trương, vì cái chiều sâu thực sự ít ai quan tâm. Ta bảo sáng danh Chúa, nhưng xét cho kỹ Chúa mấy phần trăm, ta mấy phần trăm?
“Có những điều không cần phải phô trương. Nhưng nó sẽ từ từ thấm vào lòng người, người ta sẽ hiểu. Người ta hiểu, nhưng đồng thời người ta cũng có tự ái. Càng huyênh hoang, càng làm cho người ta ghét. Mà thành công đâu phải do mình tài giỏi gì. Nhưng mọi chuyện là nhờ ơn Chúa. Như vậy mình càng không có lý do gì để phô trương. Lúc đang huyênh hoang thì chính là lúc nguy hiểm nhất, tai hại nhất, vì đó là lúc mình mất cảnh giác. Khi nào thấy sau một cuộc lễ, có nhiều người ăn năn trở lại, cộng đoàn hiệp nhất hơn, sốt sắng hơn, đó là dấu thành công thực sự”./.
_________________
[1] https://vntaiwan.catholic.org.tw/banhca/banhca02.htm
[2] ĐGM P. Nguyễn Văn Khảm, “Đường về Emmaus, học Thánh Kinh trong 100 tuần”, NXB.TG trang 561.
[3] x. “Cầu nguyện là gì?”, nguồn giaoly.org
[4] LM Giu-se Thân Văn Tường, Gp Long Xuyên, bài Thờ Phượng, tập Đối diện với Thiên Chúa, trang 35-36
[5] http://conggiao.info/muoi-can-benh-lam-bang-hoai-nguoi-cong-giao-d-48860
Tác giả bài viết: Aug. Trần Cao Khải
2023
Không phải trường học nhưng chính cuộc sống đào tạo chúng ta
Câu chuyện cuộc đời Đức Hồng Y Văn Thuận:
non scholae sed vitae discitur
(Không phải trường học nhưng chính cuộc sống đào tạo chúng ta)
Stéphane OPPES, ofm
Ngày 24 tháng 4 năm 1975, Đức Cha Văn Thuận, Giám Mục Giáo Phận Nha Trang từ năm 1967 được Á Thánh Đức Giáo Hoàng Phaolo VI chọn làm Tổng Giám Mục Phó của Giáo Phận Thành Phố Hồ Chí Minh, khi đó còn là Sài Gòn. Rất ý nghĩa khi vị Tân Chức đã từng chọn khẩu hiệu giám mục của mình Gaudium et spes – Vui mừng và hy vọng, là chính đầu đề của Hiến Chế Mục Vụ Về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay được Công Đồng Vatican II công bố gần 10 năm trước (7 tháng 12 năm 1965). Chỉ vài tháng sau khi được bổ nhiệm, vào ngày 15 tháng 8 năm 1975, ngài bị bắt cầm tù cho đến gần 13 năm sau mới được tự do. Đây là môt sự kiện quá đau đớn đến nỗi đã có thể cướp mất khỏi sứ vụ giám mục cũng như cuộc đời của Đức Cha Văn Thuận niềm vui và hy vọng là chính biểu tượng giám mục của ngài.
Tiểu sử của Đấng Đáng Kính Phanxicô-Xavie Nguyễn Văn Thuận đối với mọi người đã trở thành một mô hình để cắt nghĩa chiều kích sâu xa của Hiến Chế Gaudium et spes và vòng tay mở rộng của Mẹ Thánh Giáo Hội hướng đến “con người ngày hôm nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ” (GS 1). Đây không phải là một nỗ lực nhằm tạo sự lên án, có tính cách ngây thơ thậm chí là lệch lạc, đối với các cấu trúc và hệ thống chính trị đã khinh thường con người, ví dụ như chế độ độc tài đã bỏ tù Đức Hồng Y Thuận. Thực ra đây chính là vòng tay của sự cứu rỗi, của “sự công chính” trong thần học của Thánh Phaolô, sự công chính hoá đến từ lòng thương xót và tha thứ của Chúa Cha. Sự công chính hoá này chỉ có thể được trao ban qua sự tôi luyện của Thập Giá và việc tự hiến tế chính bản thân.
Lịch sử, kinh nghiệm sống (Erlebnis – sự kinh qua) của Đấng Đáng Kính Văn Thuận được quyết định trong cách thế ngài đón nhận ân sủng siêu nhiên của đức cậy và sống nhân đức này mỗi ngày, từ những năm khổ đau trong tù tội cho đến những tháng cuối cùng trên giường bệnh. Một số phát biểu của ngài về niềm hy vọng có thể đã phát xuất từ khẩu hiệu được chọn lựa cho sự vụ giám mục. Trong trường hợp này chúng ta rất dễ quên rằng chúng xuất phát từ trái tim trước khi ngang qua lý trí, rằng tất cả đã được kinh qua, có nghĩa đã được “thử thách”, bởi vì “nhân đức được thử thách làm nảy sinh hy vọng” (Rm 5:4), cho dẫu rằng các điều kiện ngoại tại và vật chất, như tù ngục và bệnh tật, tất cả đều nói lên những gì hoàn toàn trái ngược với niềm hy vọng ngài gìn giữ và trân quí. Chính lex vivendi (luật sống, cách thế sống) đã thiếp lập lex credendi (luật tin, cách thế tin).
Văn Thuận – thần học gia của hy vọng: Tin Mừng và Công Đồng Vatican II
Phạm trù đầu tiên dùng để giải thích niềm hy vọng trong tư tưởng của Đức Hồng Y Thuận tôi xin mượn từ một thần học gia mà với ngài cũng như với Hồng Y chúng ta, niềm hy vọng của đức tin – còn ở vị trí trước hơn cả depositum fidei (kho tàng đức tin) – đó chính là point de depart, điểm khởi đầu. Tôi có ý nói đến Thánh Bonaventura da Bagnorio, Vị Tiến Sĩ Giáo Hội của Dòng Phaxicô, người mà tại viện đại học Seraphicum này, nơi hội nghị chúng ta đang diễn ra, sự tham khảo về ngài chắc chắn đem lại cho chúng ta một hương vị đặc biệt. Phạm trù để giải thích niềm hy vọng của Đấng Đáng Kính Hồng Y Thuận chính là phạm trù “hành trình”. Nơi các chủ đề được đề cập ở trên – và trước hết nơi nội dung của các tác phẩm của ngài – như một điệp khúc các từ ngữ này thường xuyên xuất hiện: “il cammino”, “le chemin”, “peregrinos”, “el camino”; và thông tường hơn hết chúng ta đọc thấy “passi” (những bước), “piccoli passi” (những bước nhỏ).
Trong tập sách Hy vọng không chán nãn (La speranza non delude) xuất bản năm 1997, nhưng được viết trong tù như lá thư thay lời tựa thuật lại, phụ đề của tập sách giải thích: dưới ánh sáng của Kinh Thánh và Giáo Huấn Công Đồng. Qua lá thư thay lời tựa này chúng ta được biết về bối cảnh trong đó các suy tư được thành hình, một “giai đoạn khó khăn, đen tối vô tận”, trong một “đêm ngập tràn thinh lặng và cô đơn”, “tôi không còn một thứ gì cả”, người tù giám mục thốt lên. Tuy nhiên người tù cũng giải thích là chính nơi đây “Thiên Chúa đã ban cho tôi những giờ phút tuyệt vời nhất trong cả cuộc đời… chưa bao giờ lời cầu nguyện thiết tha đến như thế, chưa từng có Thánh Lễ nào sốt sắng hơn, chưa từng có cơ hội nào thuận tiện hơn để tôi kết hợp với tình yêu của Thiên Chúa, để tôi chiếu toả tình yêu giữa nơi thù hận và gieo niềm hy vọng giữa sự thất vọng ê chề”. Như thế, trước hết, đây chính là sự trình bày kinh nghiệm của niềm hy vọng (đức cậy) như là một hồng ân, một nhân đức đối thần. Tuy nhiên, ngay lập tức để cung cấp chìa khoá giúp giải nghĩa ân huệ được sống (đây là thần học) ngài viết: “Hãy đọc các suy nghĩ sâu kín của tôi dưới ánh sáng của Lời Chúa và của Công Đồng”. Với viễn cảnh có thể chết hay bị giết ở trong tù, ngài nhớ lại: “Theo gương Đức Phaolo VI, đây là lời trối của tôi: “Chương trình hành sự của tôi là thực thi Công Đồng Vatican II”. Rồi đổi từ vai trò của một thần học gia đến vai trò của một thầy dạy, ngài mời gọi “những người con chí ái” thúc dục họ “phấn đấu để thắp lên ngọn lửa hy vọng nơi các con sống”, rồi ngài kết thúc lá thư: “Xin Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse củng cố các con trong từng bước con đi trên con đường hy vọng”.
Cũng trong tập sách xuất bản năm 1994, như phụ đề nói lên, đối chiếu với những gì đã viết trước đây, niềm hy vọng lần này được trình bày trong sự năng động của một hành trình, le chemin de l’espérance – con đường hy vọng được soi sáng bởi hai nguồn: à la lumière de la Parole de Dieu et du concile Vatican II– dưới ánh sáng của Lời Chúa và của Công Đồng Vatican II.
Dùng một câu trong bài hát Vexilla regis prodeunt của Venanzio Fortunato, người Tôi Tớ của Thiên Chúa đã khẳng định rằng Đức Giêsu Cứu Thế là niềm hy vọng độc nhất, spes unica! Đây là một nỗ lực để tạo nên một sự rút gọn gấp đôi trong ý nghĩa của reductio của trường phái Thánh Bonaventura, tức là sự rút gọn thuộc nhận thức luận. Đối với thánh Tiến Sĩ Thiên Thần (Bonaventura), một sự rút gọn có thể xảy ra nhờ vào lumen – ánh sáng, sự mạc khải của Thiên Chúa Cha, trong bối cảnh của ý niệm soi sáng (illuminazione) của trường phái Augustino. Đối với vị Hồng Y người Việt Nam chúng ta thì ngược lại, sự rút gọn nhận thức học chỉ xảy ra nhờ vào niềm hy vọng (đức cậy). Do đó toàn bộ Kinh Thánh được rút gọn vào Phúc Âm, và toàn bộ Phúc Âm được rút gọn vào chính Đức Giêsu, Đấng mà chính tên của Ngài có nghĩa là Thiên Chúa Cứu Độ (x. Mt 1:21).
Đối với sự rút gọn thứ nhất, rất an ủi là giáo huấn của Công Đồng Vatican II trong Hiến Chế Tín Lý Về Mạc Khải của Thiên Chúa – Dei Verbum, số 16, rất rõ ràng. Đối với sự rút gọn thứ hai chỉ cần đọc câu đầu tiên của Phúc Âm Thánh Marco cũng đủ: Thánh Sử đã dùng sở hữu từ để diễn tả “Tin Mừng Đức Giêsu Kitô”, Phúc Âm của Chúa Giêsu Kitô.
Cùng nhau chúng ta sẽ nghiên cứu cụ thể hơn các bản văn của tác giả để tìm xem reductio – sự rút gọn được thể hiện thế nào thông qua niềm hy vọng. Itinerarium mentis in spem – hành trình của tâm linh trong hy vọng là hành trình và con đường được vạch ra với chính những bước đi của Con Thiên Chúa. Hành trình này mỗi người chúng ta đều có thể vạch lại trong cuộc đời và lịch sử của chính mình bằng cách bước theo dấu chân Ngài, chiêm nghiệm trong chính cuộc hiện sinh của mình những bước chân của Đức Giêsu Kitô. “Con đường hy vọng” là con đường được in những dấu chân của Chúa “tiến về máng cỏ Bêlem” trong cung lòng Đức Maria và rồi được ôm ấp nơi lòng Mẹ “rong ruỗi trên con đường Ai-Cập”. Đó là những bước chân “nhanh nhẹn trở về nhà Nazaret”, “hớn hở cùng với cha mẹ tiến lên đền thờ”, “mỏi mòn với 30 năm lao động cực nhọc”. Đó là những bước chân “nâng đỡ khích lệ trong ba năm rao giảng Tin Mừng” và những bước chân “lo lắng đi lùng kiếm chiên lạc” trong ba năm của sứ vụ công khai. Cuối cùng nơi trung tâm điểm của mầu nhiệm Đức Kitô, mầu nhiệm Tử Nạn Phục Sinh, đó là “những bước chân đau đớn tiến vào Giêrusalem”, “cô đơn đứng trước công tọa”, “lê lết dưới sức nặng của thập tự trên con đường Calvario”; đó là những bước chân thất thế của người phải chết và bị chôn cất (trong ngôi mộ không phải là của mình!). Đó là những bước chân vâng lời Cha, là sự “lắng nghe tùng phục” Chúa Cha. Chính những bước chân này cho chúng ta nơi hành trình trong hy vọng của mình có thể đi “với những bước chân khổng lồ”, với “những bước chân dũng cảm” và “với những bước chân phiêu lưu”.
Phương cách chú giải Tin Mừng bằng chìa khoá hy vọng của Đức Hồng Y Văn Thuận đã được Công Đồng Vatican II khuyến khích, đặc biệt trong Gaudium et spes, mà ngài đã chọn làm khẩu hiệu cho sứ vụ giám mục của mình. Ngài đã viết: “Đối với tôi, sống là một sự đổi mới liên tục trong tinh thần của Công Đồng Vatican II”.
Xét về phương pháp của itinerarium in spem – cách diễn tả mang trong chính nó, trong chính từ ngữ học, con đường và hành trình – người ta dần dần và liên tục tiến về phía hy vọng, vào trong hy vọng. “Con đường hy vọng được lát bằng những bước hy vọng nhỏ. Cuộc đời hy vọng được cấu tạo bằng những giây phút hy vọng ngắn ngủi”. Nơi đây Đức Hồng Y Văn Thuận từ thầy dạy trở thành nhà thần học của hy vọng: niềm hy vọng Kitô giáo – sự tiếp nhận người Kitô hữu tạo nên nhờ hồng ân của Thiên Chúa, là một nhân đức đối thần – hình thành từ “những bước ngắn ngủi” trong “những giây phút ngắn ngủi”. Đó là hoạt động bền bỉ, hay nói cách ngắn gọn, hoạt động “bướng bỉnh”. Thánh Toma (Aquino) đã giải thích một cách tổng thể rằng niềm hy vọng (đức cậy) là một “đam mê”, và “sự đam mê là một chuyển động, như Aristote giải thích”. Như vậy, hy vọng không có gì liên hệ với sự chờ đợi thụ động hay sợ hãi.
«Chúa hướng dẫn con trên còn đường đó để con có thể “đi và mang lại hoa trái tồn tại” (Gio 15:16). Con đường có tên là “con đường hy vọng” bởi vì nó cũng đẹp như chính niềm hy vọng đang dọi sáng nó. Tại sao con không có hy vọng khi con cùng lên đường với Đức Giêsu hướng về Chúa Cha?”. Đây chính là lời nói đầu của cuốn Hy vọng không chán nãn. Ngay sau đó Đức Hồng Y Văn Thuận đã giải thích và chỉ ra “bí mật của con đường này bao gồm 3 giai đoạn: 1. Khởi hành: “Từ bỏ chính mình”; 2. Bổn phận: “Vác lấy thập giá mỗi ngày”; 3. Bền chí: “Hãy theo Ta” (Lc 9:23).
Văn Thuận – thầy dạy của hy vọng: cầu nguyện và chiêm niệm
Cầu nguyện trong itinerarium in spem của Đấng Đáng Kính của chúng ta được xem như chiếc thang, với các nấc hoặc chốt của nó, cho phép đi lên cho đến Nguồn Hy Vọng là Thiên Chúa Cha. Điều này được Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI quảng diễn trong Tông Huấn viết về niềm hy vọng Spe salvi, ngày 30 tháng 11 năm 2007. Giải thích cái gọi là “nơi chốn” của việc học hành và tập tành nhân đức cậy, Tông Huấn đưa ra thứ tự sau: I. Cầu nguyện (n. 32-34); II. Hành động và đau khổ (n. 35-40); III. Phán đoán (n. 41-48).
Trong ba đoạn trong đó Đức Benedicto XVI nói về “nơi chốn cần thiết đầu tiên để học tập đức cậy” (I. Cầu nguyện như học đường của đức cậy), có hai trích dẫn trong Tông Huấn liên quan đến Đấng Đáng Kính Văn Thuận. Như trong một bố cục văn chương, hai trích dẫn của Đức Hồng Y đáng ghi nhớ (từ ngữ trong tiếng Latinh “recolentae memoriae” rất ít kịch tính và gắn liền hơn với ký ức về một người cha trong đức tin) mở đầu và kết thúc cho chủ đề cầu nguyện, đặt giáo huấn của người Tôi Tớ Thiên Chúa như hải đăng cho toàn thể vấn đề. Hai tác phẩm khác nhau của vị mục tử Việt Nam được trích dẫn: trích dẫn thứ nhất lấy từ “tuyển tập quí giá” (praestantem libellum) Lời cầu nguyện của hy vọng; trích dẫn thứ hai lấy từ tập Linh Thao ngài giảng cho Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II và Giáo Triều Roma vào Mùa Chay của Đại Năm Thánh 2000: Những chứng từ của hy vọng.
Đức Benedetto XVI, trong Tông Huấn Spe salvi, viết rằng ” Đức cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, một người tù trong 13 năm, trong đó có 9 năm bị biệt giam, đã để lại cho chúng ta cuốn sách nhỏ quí giá: Những Lời Cầu Nguyện của Niềm Hy Vọng. Trong vòng 13 năm tù đầy, trong một tình trạng hầu như là tuyệt vọng, sự kiện là ngài có thể lắng nghe và thân thưa với Chúa đã trở nên một quyền năng hy vọng gia tăng cho ngài, khiến ngài, sau khi ra khỏi tù, đã trở nên một chứng nhân hy vọng cho dân chúng trên toàn thế giới – chứng nhân của một niềm hy vọng lớn lao không tàn lụi ngay cả trong những đêm đen của cô liêu” (n. 32).
Bản văn không trưng dẫn một lời nào trong Những Lời Cầu Nguyện của Niềm Hy Vọng, nhưng chính con người cầu nguyện của Đức Hồng Y Thuận, niềm hy vọng của ngài và đức tin sống động của ngài được đề cao. Nơi đây người Tôi Tớ của Thiên Chúa được nói đến như một người thầy của niềm hy vọng Kitô giáo. Trên tất cả, Tông Huấn đã đề cao chính cách thế qua đó ngài dùng để đáp trả một cách anh hùng đối với ân sủng của Thiên Chúa: «sự kiện là ngài có thể lắng nghe và thân thưa với Chúa đã trở nên một quyền năng hy vọng gia tăng cho ngài”.
Tiếp tục theo dõi Tông Huấn Spe salvi, chúng ta đọc thấy Đức Benedicto XVI, trong khi nhấn mạnh đến việc trộn lẫn kinh nguyện phụng vụ và lời nguyện cá nhân rất cần thiết cho cuộc sống trong hy vọng, đã nhắc đến gương mẫu và giáo huấn của Người Tôi Tớ Thiên Chúa: « Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, trong quyển sách của ngài về luyện đàng thiêng liêng, nói với chúng ta rằng trong cuộc đời ngài, có những thời gian dài ngài đã không thể cầu nguyện được và ngài đã phải bám lấy những kinh nguyện của Giáo Hội như kinh Lậy Cha, kinh Kính Mừng và các kinh nguyện phụng vụ. Cầu nguyện phải luôn luôn có sự pha trộn giữa lời cầu nguyện chung và cá nhân” (n. 34).
Trích dẫn này được lấy ra từ một bài viết về Phụng vụ Đức Hồng Y Thuận dùng trong khi ngài giảng tĩnh tâm cho Giáo Triều có sự tham dự của Thánh Gioan Phaolo II; trong đó Đức Hồng Y Đáng Kính viết: “Chúng ta không thể hình dung hết được sức mạnh của những lời kinh phụng vụ có thể thẩm thấu vào trong linh hồn. Khi tôi cảm thấy buồn chán trong tù, tôi đã hát thánh thi kinh chiều của lễ các thánh tử đạo (Sanctorum meritis) và mỗi lần như vậy dường như có một sự tiếp sức mạnh mẽ của Thánh Thần trong tôi… Một cách cuối cùng để cầu nguyện như một giám mục trong tù là tôi để mình chìm đắm vào Di Chúc của Đức Giêsu: vào trong những lời nói sau cùng của Ngài, vào trong những hành vi sau cùng của ngài”. Tôi thiết nghĩ hình ảnh “chìm đắm” mà Đấng Đáng Kính dùng có thể hiểu là chính sự “chiêm niệm”. Đối tượng của sự chiêm niệm, trước hết và trên hết, chính là Mầu Nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Kito, những bước cuối cùng của Đức Giêsu ghi dấu cho itinerarium mentis in spem – hành trình tâm linh trong hy vọng.
Di chúc của Đức Giêsu và Mầu Nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài được thực tại hoá trong Bí Tích Thánh Thể mà các Kitô hữu Đông Phương gọi là Phụng Vụ tuyệt hảo, Phụng Vụ Thần Thánh. Trong tập sách Năm Chiếc Bánh Và Hai Con Cá, chương 4 với tựa đề “Chiếc bánh thứ tư: sức mạnh duy nhất của tôi, Thánh Thể”, Người Tôi Tớ của Thiên Chúa nhớ lại cách thức ngài đã cải trang để có cử hành Thánh Lễ trong tù, truyền phép trong một bàn tay với vài giọt “thuốc chữa bịnh dạ dày” và “bánh thánh giấu trong một lọ chống ẩm”. Ngay trong cách thức này Đức Hồng Y Văn Thuận cũng sống và kinh nghiệm điều Công Đồng dạy trong Gaudium et Spes: “Chúa đã để lại cho những kẻ thuộc về Người bảo chứng cậy trông và lương thực đi đường trong bí tích đức tin; trong bí tích ấy, những yếu tố thế trần, kết quả của lao công con người, được biến thành Mình và Máu vinh hiển, nên bữa ăn hiệp thông huynh đệ và nếm hưởng trước bữa tiệc trên trời” (n.38).
Đức Hồng Y Thuận trong Những Lời Nguyện của Hy Vọng nhấn mạnh rằng “con dâng Thánh Lễ đúng qui thức phụng vụ không đủ. Ngày xưa Chúa không theo qui luật phụng vụ ngày nay”: Cần phải dõi bước theo Đức Kitô trên con đường hy vọng. Để giúp chúng ta hiểu phải cử hành Thánh Lễ như thế nào, ngài cầu nguyện: “Xin cho chúng con dâng lễ như Chúa. Nếu chúng con không dâng chính mình, làm hy lễ toàn thiêu; Nếu cuộc đời chúng con không chịu đói, chịu khát, chịu sỉ nhục, chịu nhổ, chịu vả vào mặt, chịu đội mão gai, chịu vác thánh giá, chịu đánh đòn, chịu trói, chịu ngã quỵ, chịu đóng đinh, chịu chết, chôn trong mồ người khác; thì con phải xét mình, phải sám hối, hoán cải; phải biến chuyển, lột xác; vì con chưa tế lễ như Chúa. Nếu con còn lo sợ, con kiếm cách tránh né thân phận Chúa, thì dù con có theo nghi thức nào có long trọng đến đâu con cũng không tế lễ với tâm tình Chúa”.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô, trong Tông Huấn mới nhất Gaudete et Exultate về lời mời gọi nên thánh trong thế giới hôm nay, giới thiệu Hồng Y Văn Thuận như bậc thầy của niềm hy vọng. Ngài đã làm điều này ngay trong chương đầu “Lời Mời Gọi Nên Thánh”, trong tiểu đề “Cả bạn nữa cũng thế”, Đức Giáo Hoàng viết: « Có những lúc cuộc sống gặp phải những thách đố lớn lao. Xuyên qua chúng, Chúa lại mời gọi chúng ta đi vào một cuộc hoán cải vốn có sức làm cho ân sủng của Ngài trở nên rõ ràng hơn trong đời sống mình, ‘để chúng ta có thể tham dự vào sự thánh thiện của Ngài’ (Dt 12,10). Có những lúc khác, chúng ta chỉ cần tìm ra cách thế hoàn hảo hơn để làm những gì mà mình vốn làm: ‘Có những cảm hứng chỉ thúc đẩy ta làm cho hoàn hảo những việc bình thường trong đời sống bằng một cách thế phi thường’. Khi Đức Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận bị cầm tù, ngài từ chối phung phí thời gian trong việc chờ đợi ngày được phóng thích. Thay vào đó, ngài chọn ‘sống giây phút hiện tại, lấp đầy nó với tình yêu’. Ngài quyết định: ‘Tôi sẽ tận dụng các cơ hội có được mỗi ngày; tôi sẽ chu toàn các việc thường ngày của tôi một cách phi thường’ (Gaudete et exsultate, n. 17).
Trích dẫn muốn nói đến những bước nhỏ tạo nên itinerarium mentis in spem – hành trình tâm linh trong hy vọng của Đức Hồng Y Văn Thuận như một lời đáp trả vui mừng cho ơn gọi nên thánh hướng đến mọi người. Chớ gì khi nhìn vào hành trình này của Đấng Đáng Kính Văn Thuận, toàn thể Giáo Hội và mỗi một người trong chúng ta cảm nếm được những gì ngài để lại cho chúng ta như lời cầu chúc và phúc lành:
Hãy khám phá niềm vui của hy vọng!
Lm Paulus Ý chuyển ngữ từ tiếng Ý