2023
7 thái độ của phụ nữ trong Kinh Thánh mà mọi Kitô hữu nên bắt chước
Các nghiên cứu ngày nay khẳng định rằng phụ nữ không còn chiếm đa số trong Hội thánh. Họ đã từng là phúc lành tuyệt vời trong Hội thánh của Chúa Giêsu. Mặc dù não trạng trọng nam khinh nữ còn tồn tại trong các nền văn hóa được nói đến nhiều trong Kinh thánh, chúng tôi tìm thấy ở đây những người phụ nữ tuyệt vời, họ có rất nhiều điều để dạy chúng ta.
Để tỏ lòng kính trọng đối với phụ nữ, tôi muốn nêu lên đây 7 thái độ của người nữ trong Kinh thánh mà mọi người nên bắt chước.
SỰ KHIÊM NHƯỜNG CỦA ĐỨC MARIA, MẸ CHÚA GIÊSU
Đức Maria được chọn trong số các thiếu nữ khác nhau để làm mẹ Đấng Cứu Chuộc. Điều đó có thể đem lại niềm tự hào nhất định, một sự kiêu căng trong tâm hồn mẹ. Thế nhưng, Mẹ đã nói một điều mà tất cả chúng ta cần phải thưa với Chúa mỗi ngày: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng cứu chuộc tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn Người đoái thương nhìn tới, từ nay hết mọi thời sẽ khen tôi có phúc” (lc 1,46-48).
Sự khiêm nhường của Đức Maria khi đặt cuộc đời vào bàn tay quan phòng của Chúa và cộng tác với Chúa trong sứ mệnh cao cả của mình là điều thực sự hấp dẫn mà mọi Kitô hữu nên bắt chước.
SỰ KIÊN TRÌ TRONG LỜI CẦU NGUYỆN CỦA BÀ ANNA
Bà Anna đã có một cuộc sống không thực sự dễ dàng. Chồng bà là Encana đã lợi dụng truyền thống để có hai vợ (1Sam 1,2). Ngoài ra, Anna là người nữ vô sinh, thứ mà thời đại của bà coi là bị nguyền rủa. Bà bị người vợ kia của chồng coi thường và mang trong mình một nỗi buồn khôn tả vì chuyện này (1Sam 1,6). Nhưng bà không từ bỏ mục tiêu sinh con và không quan tâm đến những lời đàm tiếu, trái lại, bà vẫn kiên trì cầu nguyện, “ngày qua tháng lại, bà Anna thụ thai, sinh con trai và đặt tên cho nó là Samuen, vì bà nói: “Tôi đã xin ĐỨC CHÚA được nó.” (1 Sam 1,20).
SỰ CAN ĐẢM CỦA MARIA MAĐALÊNA ĐỂ VƯỢT QUA QUÁ KHỨ
Kinh thánh kể rằng Maria Mađalêna bị quỉ ám. Chúa Giêsu đã đuổi bảy quỉ ra khỏi bà (Lc 8,2). Chúng ta không có nhiều chi tiết về quá khứ của người phụ nữ đó, tuy nhiên, chắc chắn đó là một quá khứ không đẹp lòng Chúa. Thế nhưng bà đã can đảm vượt qua quá khứ đen tối của mình và trở thành người tôi tớ trung thành tuyệt vời của Chúa Giêsu. Bà luôn được nhắc đến trong đội ngũ các môn đệ, và là người đầu tiên biết và tin vào sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô (Mt 28,1). Bà là người phụ nữ đã thể hiện một sự vượt qua không thể sánh, một bức chân dung về sự biến đổi mà Thiên Chúa hành động trong đời sống của mọi người.
SỰ KHÔN NGOAN CỦA MIRIAM ĐỂ VƯỢT QUA KHỦNG HOẢNG
Pharaon ra lệnh cho toàn dân của mình: “Mọi con trai người Aicập sinh ra, hãy ném xuống sông Nin; mọi con gái thì để cho sống” (Xh 1,22).
Mệnh lệnh đó khiến cho cuộc sống của Môsê, khi còn là trẻ thơ, gặp nguy hiểm. Nhưng chiến lược của người mẹ và Miriam, chị của ông, đã cứu mạng ông. Thật không dễ tí nào. Miriam đã thể hiện sự khôn khéo tuyệt vời khi dõi mắt theo cậu bé được đặt trong một chiếc thúng trôi trên sông, rồi thuyết phục cô công chúa của vua Pharaon giao cậu bé cho mẹ của mình để bà ta chăm sóc cho cậu một thời gian (Xh 2,7). Cô đã cứu mạng Môsê qua cách xử lý cách khôn ngoan trước những tình huống thật sự bất lợi.
LÒNG KÍNH SỢ CHÚA CỦA CÔ GÁI ĐIẾM RAKHÁP
Rakháp được nhắc đến trong Kinh thánh như một cô điếm. Kinh thánh không che giấu sự gì về cô ta. Kinh thánh cũng không che giấu sự thay đổi đang diễn ra trong lòng của cô ấy. Trong cuộc đối thoại với những người do thám của Israel, những người mà cô giấu trong nhà với mục đích bảo vệ họ, cô cho chúng ta thấy nỗi sợ hãi Thiên Chúa của mình: “Khi chúng tôi nghe đồn, thì tâm thần chúng tôi sợ hãi như muốn chảy tan ra, không ai còn nhuệ khí trước mặt các ông, vì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ông, là Thiên Chúa ngự chốn trời cao cũng như nơi đất thấp” (Gs 2.11). Một lời thú nhận về lòng kính sợ Thiên Chúa rất tuyệt vời. Xét thấy rằng, Rakháp sống giữa những người ngoại giáo cho nên lời nói của cô cho thấy được nỗi sợ Thiên Chúa của cô to lớn đến mức nào. Thái độ của cô dành cho Thiên Chúa rất tuyệt vời, để rồi cô được trở nên một phần trong gia phả của Chúa Giêsu Kitô (Mt 1,5).
SỰ NHIỆT THÀNH TRUYỀN GIÁO CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ SAMARI
Như chúng ta đã biết, người phụ nữ Samaria đã có cuộc gặp gỡ tuyệt vời với Chúa Giêsu cạnh một cái giếng nơi cô đến lấy nước (Ga 4,9). Chúa Giêsu đã tỏ cho cô thấy những lỗi lầm mà cô ta đã phạm trong quá khứ và hiện tại. Những lời nói mạnh mẽ của Chúa đã đánh động con tim của người phụ nữ đó. Kết quả thế nào? Lòng nhiệt thành truyền giáo đã xâm chiếm tâm hồn người phụ nữ ấy, cô đã đem những lời của Chúa Giêsu đã nói đến cho dân làng của mình dù chưa biết Chúa là ai: “Người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với người ta: “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao? ” Họ ra khỏi thành và đến gặp Người” (Ga 4,28-30).
NHỮNG NGƯỜI PHỤ NỮ ĐỨC HẠNH VÔ DANH TRONG SÁCH CHÂM NGÔN
Những câu cuối cùng của sách Châm ngôn được dành để ca ngợi đức tính của người phụ nữ vô danh, nhưng cũng có thể họ là những người phụ nữ vĩ đại của Thiên Chúa, đang tồn tại và có thực trong thời đại của chúng ta. Những người phụ nữ này đã sống các nhân đức trong việc chăm sóc gia đình, chồng con; trung thực và tận tâm trong công việc của mình. Bản văn này trình bày cho chúng ta như một bản tóm tắt về phẩm chất của người phụ nữ của Thiên Chúa và cho thấy họ quan trọng biết là dường nào.
IX. NGƯỜI VỢ ĐẢM ĐANG
Tìm đâu ra một người vợ đảm đang ?
Nàng quý giá vượt xa châu ngọc.
Chồng nàng hết dạ tin tưởng nàng,
chàng sẽ chẳng thiếu chi lợi lộc.
Suốt đời, nàng đem lại hạnh phúc
chứ không gây tai hoạ cho chồng.
Nàng tìm kiếm len và vải gai,
rồi vui vẻ ra tay làm việc.
Giống như những thương thuyền,
nàng đem lương thực về từ tận phương xa.
Nàng thức dậy khi trời còn tối,
cung cấp phần ăn cho cả nhà, và sai bảo con ăn đứa ở.
Nàng để mắt đến một thửa ruộng và tậu lấy ;
nàng dùng huê lợi đôi tay mình làm ra
mà canh tác một vườn nho.
Nàng thắt lưng cho chặt,
luyện cánh tay cho mạnh mẽ dẻo dai.
Nàng thấy công việc sinh nhiều lợi nhuận,
đèn trong nhà thắp sáng thâu đêm.
Nàng tra tay vào guồng kéo sợi,
và cầm chắc suốt chỉ trong tay.
Nàng rộng tay giúp người nghèo khổ
và đưa tay cứu kẻ khốn cùng.
Nàng không sợ người nhà bị lạnh vì tuyết sương,
bởi cả nhà đều được mặc hai áo.
Nàng tự tay làm lấy chăn mền,
nàng mặc toàn vải gai, vải tía.
Chồng nàng được tiếng thơm nơi cổng thành
khi ngồi chung với hàng kỳ mục trong dân.
Nàng dệt vải đem bán,
cung cấp dây lưng cho nhà buôn.
Trang phục của nàng là quyền uy danh giá,
nàng mỉm cười khi nghĩ đến tương lai.
Nàng khôn ngoan trong lời ăn tiếng nói
và dịu hiền khi dạy dỗ bảo ban.
Nàng để mắt trông nom mọi việc trong nhà,
bánh nàng ăn là do mồ hôi nước mắt nàng làm ra,
con nàng đứng lên ca tụng nàng có phúc,
chồng nàng cũng tấm tắc ngợi khen :
“Có nhiều cô đảm đang,
nhưng em còn trổi trang gấp bội.”
Duyên dáng là giả trá, sắc đẹp là phù vân.
Người phụ nữ kính sợ ĐỨC CHÚA
mới đáng cho người đời ca tụng.
Hãy để cho nàng hưởng những thành quả tay nàng làm ra.
Ước chi nơi cổng thành nàng luôn được tán dương ca tụng
do những việc nàng làm.
(Cn 31,10-31)
Tác giả bài viết: G. Võ Tá Hoàng chuyển ngữ
2023
3 cách để dâng mình cho Chúa
Thánh Phaolô mạnh mẽ thúc dục chúng ta : “Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người” (Rm 12,1).
Nhưng ý nghĩa dâng hiến bản thân như như một hy lễ thực sự là gì?
Trong tiếng Do thái từ “hy lễ” là korbán, nó có nghĩa là “tiến lại gần hơn”. Mục đích của hy lễ là đến gần Chúa hơn; đó là một lời mời gọi sống trong sự hiệp thông mãnh liệt với Chúa. Vì vậy, cần phải thực hiện “teshuvá”, nghĩa là hoán cải. “Teshuvá” bao gồm việc đổi mới cách nhìn và suy nghĩ về thực tại “Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12,2). Điều đó có nghĩa là xem xét cuộc sống và thế giới của chúng ta “từ trên cao” qua cặp mắt xót thương của Thiên Chúa. Dưới đây là ba chiều kích của hành vi dâng hiến.
Thánh Gioan Tẩy giả de la Salle đã nói: “Hãy hiến dâng chính mình và tất cả những gì thuộc về chúng ta đều dâng cho Chúa, nghĩa là dâng lên Ngài mọi tư tưởng, lời nói và việc làm, tất cả mọi tài sản của chúng ta, dù đó là thiêng liêng hay trần tục, tắt một lời, dâng tất cả những gì chúng ta đang sở hữu trên thế gian này”.
1. DÂNG HIẾN BẢN THÂN
Phạm vi cuộc sống của chúng ta đã là một “món quà” đến từ Thiên Chúa, chúng ta cần phải xem lại tất cả những gì là tốt đẹp nơi hữu thể và sự hiện hữu của mình: linh hồn, thể xác, tài năng, di sản văn hóa, gia đình của chúng ta…. như thánh Phaolô đã viết : “Thật vậy, nào có ai coi bạn hơn kẻ khác đâu? Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh? Nếu đã nhận lãnh, tại sao lại vênh vang như thể đã không nhận lãnh?” (1Cor 4,7). Thực hiện teshuvá nghĩa là nhận biết Thiên Chúa là nguồn gốc của mọi điều thiện hảo. Và do đó, điều đòi hỏi nơi chúng ta là cần phải thích ứng cuộc sống của mình với Lời Chân Lý của Chúa.
Dâng hiến bản thân được thực hiện bằng cách tạ ơn và ca ngợi vì những ân huệ mà bạn đã lãnh nhận. Nó được thể hiện qua việc luôn mong muốn phục vụ Thiên Chúa và đồng loại của mình; hoàn toàn đặt mình tuân theo ý Chúa, phù hợp với từng giai đoạn của cuộc đời, để xây dựng Nước Trời; đặt mọi tư tưởng của chúng ta, lời nói và hành động của chúng ta trong sự gắn kết với cuộc sống.
2. DÂNG CHÚA MỌI TỘI LỖI CỦA CHÚNG TA
Dưới đây là một giai thoại về cuộc đời của thánh Jerome. Một ngày kia Chúa hỏi Jerome: “Hôm nay con có gì cho Ta không?”. Thánh nhân trả lời: “Lạy Chúa, con dâng cho Chúa lời cầu nguyện của con” – “Tốt, nhưng còn gì nữa không”, Chúa nói. Và thánh Jerome đã kể ra hàng loạt những kỷ luật bản thân, nào là sự tỉnh thức, tình yêu dành cho những ai đến thăm mình… Rồi Chúa lại hỏi Jerome: “Còn gì nữa không?”. Jerome thưa : “Con không biết có còn gì để dâng Chúa nữa!”. Cuối cùng Chúa nói với thánh nhân : “Có một điều mà con chưa dâng cho Ta đó là tội lỗi của con!”.
3. DÂNG CHÚA NỖI KHỔ CỦA CHÚNG TA
Và sau cùng, có những điều chúng ta phải “chịu đựng” : đó là những thử thách lớn lao của cuộc sống, cũng như những điều nhỏ nhặt thường ngày làm chúng ta khó chịu. Chúng ta dâng lên Chúa những khoảnh khắc đau khổ này để “lồng chúng vào bên trong lòng trắc ẩn vô biên của Chúa Kitô”, để những khổ đau “trở thành một phần trong kho tàng thương xót mà con người đang cần” để sống yêu thương, để lãnh nhận và rao truyền ơn cứu rỗi (Benedict XVI).
Mẹ Têrêsa đã cầu nguyện:
Lạy Cha nhân từ, xin giúp chúng con,
để chúng con biết chấp nhận mọi điều Cha ban cho chúng con,
và biết cho đi mọi thứ mà Cha đòi hỏi chúng con với một nụ cười thật to.
Nụ cười bên trong – và bên ngoài – là dấu chỉ của việc dâng hiến một cách tự do trong mọi hoàn cảnh. Nụ cười đó chống lại mọi nỗi buồn vì đã từ bỏ, hay giận dữ sau những lời phàn nàn của chúng ta.
Tác giả bài viết: Võ Tá Hoàng chuyển ngữ
2022
Nhìn lại tương quan giữa Phẩm trật và Đặc sủng để hiệp hành
Nữ tu Lê Loan
Dòng Nữ Vương Hòa Bình
Trong Văn thư Iuvenescit Ecclesia gửi các Giám mục của Giáo hội Công giáo về tương quan giữa các hồng ân phẩm trật và đặc sủng đối với đời sống và sứ mệnh của Giáo hội, Bộ Giáo Lý Đức Tin khẳng định rằng: ‘Giáo hội tự trình bày mình như “một dân được làm nên một với sự hợp nhất của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần,” trong đó, mối tương quan giữa các hồng ân phẩm trật và đặc sủng xuất hiện như được điều hướng vào việc tham dự trọn vẹn của các tín hữu vào sự hiệp thông và sứ mệnh loan báo Tin Mừng của Giáo hội.’[1] Trong tài liệu ‘Synodality in the Life and Mission of The Church’ (‘Tính Hiệp hành trong Đời sống và Sứ mệnh của Giáo hội’), Ủy ban Thần học Quốc tế trực thuộc Bộ Giáo Lý Đức Tin cũng khẳng định rằng trong tiến trình hiệp hành,
“cần phải có một sự cổ vũ có tính quyết định đối với nguyên tắc đồng thiết yếu (co-essentiality) giữa các hồng ân phẩm trật và đặc sủng trong Giáo hội dựa trên giáo huấn của Vatican II. Điều này kéo theo việc bao gồm các cộng đoàn thánh hiến, cả nam lẫn nữ, các phong trào và cộng đoàn giáo hội mới. Tất cả các cộng đoàn này, mà nhiều cộng đoàn trong đó đã hiện hữu nhờ sự thúc đẩy của các đặc sủng được Chúa Thánh Thần ban cho để đổi mới đời sống và sứ mệnh của Giáo hội, có thể cống hiến nhiều kinh nghiệm quan trọng về cách tiếp cận hiệp hành trong đời sống hiệp thông và về sự năng động của việc phân định cộng đồng ở trung tâm của cuộc sống của họ, cũng như các kích thích để khám phá các phương pháp truyền giảng Tin Mừng mới.”[2]
Trong tinh thần này, chúng ta cùng nhìn lại tương quan giữa phẩm trật và đặc sủng trong đời sống và sứ mệnh của Giáo hội. Trước khi đi vào vấn đề chính, chúng ta sẽ tìm hiểu đôi nét về đặc sủng, một chiều kích của Giáo hội dường như bị quên lãng trong những tài liệu của huấn quyền trong một thời gian khá dài, đã được Công đồng Vatican II tái khám phá.
Vatican II – Tái khám phá chiều kích Đặc sủng của Giáo hội
Phẩm trật và Đặc sủng – đồng thiết yếu trong đời sống Giáo hội Vai trò của Phẩm trật đối với Đặc sủng |
Vatican II – Tái khám phá chiều kích Đặc sủng của Giáo hội
Một trong những điểm đột phá của Công đồng Vatican II là việc tái khám phá chiều kích đặc sủng của Giáo hội. Vatican II là Công đồng đầu tiên của Giáo hội đã sử dụng từ ‘charism’ (đặc sủng) trong các văn kiện của mình.[3] Tuy nhiên, trước khi từ ‘charism’ được sử dụng trong các bản văn của Công đồng thì đã có một cuộc tranh luận quyết liệt giữa các nghị phụ về đặc sủng và phận sự của chúng trong đời sống của Giáo hội.[4] Một quan điểm cho rằng đặc sủng là những ân sủng ngoại thường và kỳ diệu Thiên Chúa ban cho một số tín hữu. Quan điểm này được bảo vệ bởi Đức hồng y Ernesto Ruffini, người đã mạnh mẽ phản đối quan điểm cho rằng đặc sủng được ban rộng rãi cho các tín hữu nhờ đó, họ có thể thực hiện những đóng góp đáng kể vào việc xây dựng Giáo hội. Hơn thế nữa, Đức hồng y Ruffini còn phản đối việc sử dụng từ ‘charism’ vì sợ gây ra những ‘rối loạn’. Theo Đức hồng y Ruffini, đặc sủng đã ngừng sau năm thứ nhất của Giáo hội. Ngài lập luận rằng, ‘Đối với sự tiến bộ của Giáo hội và các việc tông đồ, chúng ta không thể cậy dựa vào những đặc sủng được ban cho các giáo dân, bởi vì đặc sủng… thì rất hiếm và rất ít trong thời đại này.’[5] Để hỗ trợ cho quan điểm của Đức hồng y Ruffini, Đức Tổng Giám mục Ermenegildo Florit cũng phản đối việc sử dụng từ ‘charism’, và gợi ý sử dụng từ ‘gifts’ thay vì ‘charisms’.[6]
Đức hồng y Léon-Joseph Suenens phản đối quan điểm trên. Ngài cho rằng đặc sủng không phải là ân sủng ngoại thường chỉ được ban cho một vài người trong cộng đồng Kitô giáo; nhưng là ân sủng mà Chúa Thánh Thần ban một cách rộng rãi cho tất cả những ai đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội. Trong bài phát biểu của ngài với các nghị phụ Công đồng, Đức hồng y Suenens nhấn mạnh rằng ‘trong phép Rửa Tội, bí tích của đức tin, tất cả các Kitô hữu lãnh nhận Thánh Thần,’ Đấng ‘tỏ mình nơi Giáo hội qua vô số những món quà tinh thần của Người, món quà đó Kinh Thánh gọi là pneumatika (1Cr 12,1; 14,1) hay là charismata (Rm 12,6; 1Cr 12,4.9.28.30 ff; 1Tm 4,14; 2Tm 1,6; 1Pr 4,10).’[7] Ngài khẳng định rằng đặc sủng của Chúa Thánh Thần không chỉ bao gồm các ơn ngoại thường, gây sửng sốt. Bằng những câu hỏi, Đức hồng y Suenens mời gọi các nghị phụ hãy nhìn lại những trải nghiệm mục vụ của họ:
“Không phải tất cả chúng ta đều biết rằng các giáo dân, nam cũng như nữ, trong mỗi giáo phận của chúng ta, những người mà chúng ta có thể nói được là, trong một cách nào đó, đã được Thiên Chúa kêu gọi và được phú cho những đặc sủng khác nhau của Chúa Thánh Thần sao? Cho dù trong việc dạy giáo lý, việc truyền bá Tin Mừng, hoặc trong mọi lãnh vực hoạt động công giáo hoặc trong các công tác xã hội và từ thiện? Chẳng lẽ chúng ta không biết và không nhận thấy trong kinh nghiệm hằng ngày của chúng ta rằng các hành động của Chúa Thánh Thần vẫn hiện hữu và tồn tại trong Giáo hội sao?”[8]
Đức hồng y Suenens lập luận rằng đặc sủng được ban cho các tín hữu trong những sinh hoạt hằng ngày của họ. Nếu không có những đặc sủng, đời sống của Giáo hội sẽ không sinh hoa trái và sẽ trở nên nghèo nàn. Ngài nói,
“Đặc sủng vẫn tồn tại trong Giáo hội. Nhận ra thực tế này là điều rất quan trọng cho một cái nhìn quân bình về Giáo hội. Đặc sủng không phải chỉ là những hiện tượng ngoại thường hoặc phụ thuộc xảy ra một cách tình cờ cho Giáo hội, nhưng chính là một phần của bản chất Giáo hội. Chúng ta phải tránh việc gây ấn tượng rằng Giáo hội chỉ là một bộ máy hành chính hoàn toàn cắt đứt khỏi ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần”.[9]
Đức hồng y Suenens tha thiết mời gọi các nghị phụ của Công đồng đừng nghĩ rằng các cơ cấu phẩm trật của Giáo hội không có liên quan gì với các đặc sủng của Chúa Thánh Thần.[10] Ngài nhấn mạnh rằng trong thời của Thánh Phaolô, những đặc sủng được xem là rất đỗi ‘bình thường’, đã đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống của Giáo hội. Bởi vì bất kỳ hành động nào của Giáo hội mà không có ân sủng của Chúa Thánh Thần thì sẽ chẳng có giá trị gì cả.
Với niềm tin rằng Chúa Thánh Thần là trung tâm của Giáo hội và luôn luôn là một sức mạnh cho sự canh tân đổi mới của Giáo hội, Đức hồng y Suenens nài nỉ các nghị phụ của Công đồng hãy chú ý đến, và nuôi dưỡng, những đặc sủng của Chúa Thánh Thần; những đặc sủng được ban cho Giáo hội qua các tín hữu, những người không có vị trí quan trọng trong cơ chế phẩm trật của Giáo hội.[11] Sự can thiệp của Đức hồng y Suenens, cuối cùng, đã giành được sự thành công tại Công đồng. Vai trò của các đặc sủng trong đời sống của Giáo hội đã được thừa nhận, như được chứng minh trong nhiều văn bản của Công đồng, đáng chú ý nhất là trong hiến chế Lumen Gentium:
“Hơn nữa, cũng chính Thánh Thần ấy, không chỉ thánh hóa và hướng dẫn Dân Thiên Chúa bằng các bí tích, các chức vụ, và trang điểm họ bằng các nhân đức, nhưng Ngài còn ban phát các ân sủng đặc biệt cho mọi cấp bậc các tín hữu “phân chia ân huệ cho mỗi người theo ý Ngài” (1Cr 12,11), khiến người lãnh nhận các ân sủng ấy có đủ khả năng và sẵn lòng đảm nhận các công việc và nhiệm vụ khác nhau mưu ích cho việc canh tân, xây dựng và phát triển Giáo hội như lời chép rằng: “Thánh Thần hiển hiện trong mỗi người hầu mang lại lợi ích” (1Cr 12,7). Phải lãnh nhận những đoàn sủng này, từ các ơn chói lọi nhất đến các ơn thường mà nhiều người lãnh được, với lòng tri ân và yên ủi vì các ơn đó mang ích lợi và phù hợp với nhu cầu của Giáo hội. Nhưng không nên liều lĩnh kêu nài những ơn đặc biệt, và cũng đừng vì đó mà tự đắc mong rằng việc tông đồ sinh kết quả. Những vị thủ lãnh trong Giáo hội có thẩm quyền phán quyết về tính cách chân chính và sự sử dụng hợp lý các ơn lạ ấy; các ngài có nhiệm vụ đặc biệt phải khảo sát tất cả, không phải để dập tắt Thánh Thần, nhưng để giữ lại những điều thiện hảo”.[12]
Ở đây, Công đồng nêu rõ tính chất ‘gắn liền’ của các đặc sủng trong đời sống của Giáo hội. Công đồng trình bày đặc sủng như là ‘ân sủng đặc biệt’ mà Chúa Thánh Thần ban phát cho các tín hữu thuộc mọi cấp bậc trong Giáo hội tùy theo ý Ngài muốn, để làm cho họ ‘có đủ khả năng và sẵn lòng đảm nhận các công việc và nhiệm vụ khác nhau mưu ích cho việc canh tân, xây dựng và phát triển Giáo hội.’
Bản chất ‘đặc biệt’ của các đặc sủng xuất phát từ cách thức chúng được ban cho. Trong khi ơn thánh sủng được ban cho các tín hữu ‘thông qua các bí tích và các thừa tác của Giáo hội,’ đặc sủng được ban cho họ bởi Chúa Thánh Thần ‘như Người muốn’ (1Cr 12,11). Cụm từ ‘như Người muốn’ diễn tả các sáng kiến tự do của Chúa Thánh Thần. Đó là, các đặc sủng được ban trực tiếp cho các tín hữu mà không cần bất kỳ sự can thiệp nào của các phẩm trật trong Hội Thánh, và chúng được ban cho một người hoặc cho một số người cách đặc biệt, và không phải tất cả mọi người được ban trong cùng một cách. Những đặc sủng này bao gồm từ ơn rất đặc biệt đến ơn thật đơn sơ và được ban rộng rãi cho nhiều người.
Theo dòng lịch sử của Giáo hội, bên cạnh những đặc sủng được ban cho các cá nhân, chúng ta còn nhận thấy có những đặc sủng được ban cho một nhóm Kitô hữu để cùng thể hiện một cách công khai những sáng kiến của Chúa Thánh Thần. Nét riêng biệt của các đặc sủng này là ‘đặc sủng nhóm’, được thể hiện nơi các dòng tu, tu hội với những quy luật chặt chẽ hay các hội đoàn, phong trào tự phát, các nhóm cầu nguyện và các cộng đồng mới.
Đặc biệt, Công đồng đã đưa một sự phân biệt và liên kết rõ ràng giữa phẩm trật và đặc sủng trong bản văn. Một mặt, đề cập đến ‘các bí tích và thừa tác vụ’, và mặt khác là ‘các ân sủng đặc biệt’ hoặc đặc sủng; cả hai đều đồng thiết yếu trong đời sống và sứ mệnh của Giáo hội. Chúng ta cùng tìm hiểu.
Phẩm trật và Đặc sủng – đồng thiết yếu trong đời sống Giáo hội
Công đồng Vatican II đã mở ra một hướng mới về giáo hội học – Giáo hội được hình thành, nuôi dưỡng và phát triển bởi cả hồng ân phẩm trật và đặc sủng.[13] Một số thần học gia đã giúp chúng ta hiểu thêm về vấn đề này. Theo cha Karl Rahner, từ ban đầu không có sự đối lập giữa cơ chế phẩm trật và đặc sủng trong Giáo hội, ‘cả trong các bản văn Tân Ước và trong thực tế.’[14] Cùng quan điểm với cha Rahner, Đức hồng y Albert Vanhoye tuyên bố rằng charisma của thánh Phaolô không bao giờ mâu thuẫn với cơ chế phẩm trật.[15] Thánh Phaolô không bao giờ đặt đặc sủng ở một bên và cơ chế phẩm trật ở bên khác, nhưng xác quyết rằng trong Giáo hội, Thiên Chúa đã thiết lập một hệ thống tổ chức cơ cấu phẩm trật cùng với muôn ngàn đặc sủng (1Cr 12,28). Đức hồng y Suenens cũng xác quyết rằng ‘lịch sử Giáo hội lúc khai sinh từng bước cho thấy trong Giáo hội không có sự tách biệt giữa “tổ chức Giáo hội” và “Chúa Thánh Thần”, vì Chúa Thánh Thần là linh hồn và là sự sống của Giáo hội.’[16]
Tuy nhiên, rất tiếc là vào giai đoạn đầu của thế kỷ XX, ‘các nghiên cứu về giáo hội học trong Giáo hội Công giáo Rôma đã tập trung vào các hệ thống cơ cấu phẩm trật được thành lập bởi Chúa Kitô và nhấn mạnh sự khác biệt cơ bản giữa giáo sĩ và giáo dân’ nên ‘đặc sủng đã bị coi như là điều thứ yếu hoặc tạm thời.’[17] Theo quan điểm này, Giáo hội được xem như là do Đức Kitô thiết lập với các cơ cấu phẩm trật; và khi các cơ cấu đã được thiết lập xong thì Chúa Thánh Thần mới xuất hiện ‘để thúc đẩy và làm cho các cơ cấu này sống động.’ Đức hồng y Suenens cảnh báo rằng ‘Quan niệm như thế khiến người ta tưởng rằng Thánh Thần thuộc về giai đoạn hai trong việc thiết lập Giáo hội. Đâu phải thế! Thánh Thần, cũng như Đức Kitô, đã lập nên Giáo hội.’[18]
Cha Yves Congar khẳng định rằng Chúa Thánh Thần là Đấng ‘đồng thiết lập (co-institute) Giáo hội’ với Chúa Giêsu.[19] Như vậy, ‘Giáo hội là kết quả sứ mệnh của hai Ngôi Vị Thiên Chúa: sứ mệnh của Ngôi Con nhập thể và sứ mệnh của Ngôi Thánh Thần được gởi đến cho Ngôi Con để cộng đồng nhân loại của các tín hữu trở nên thân thể Đức Kitô và nên bí tích phổ quát của ơn cứu độ.’[20] Nếu Giáo hội là kết quả từ sứ mệnh của Chúa Con và Chúa Thánh Thần, và nếu công việc của Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần luôn kết hợp chặt chẽ với nhau thì hồng ân phẩm trật và đặc sủng cũng phải kết hợp chặt chẽ với nhau. Ở đây, Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI, khi còn là Hồng y Joseph Ratzinger đã đưa ra một sự phân biệt và liên kết chặt chẽ giữa những điều mà ngài gọi là ‘lãnh vực Kitô-nhập thể’ và ‘lãnh vực Thần Khí-đặc sủng’; nói cách khác, giữa cơ chế phẩm trật (các thừa tác vụ và bí tích) và các đặc sủng trong đời sống của Giáo hội. Ngài xác quyết rằng ‘bí tích thuộc về lãnh vực Kitô-nhập thể, cần được bổ sung bởi lãnh vực Thần Khí-đặc sủng.’[21] Theo đó, đặc sủng là một phần thiết yếu và bền vững của đời sống Giáo hội cũng như thể chế của nó vậy. Như vậy, sự tăng trưởng và phát triển đời sống của Giáo hội cũng như việc thi hành sứ mệnh của Giáo hội không chỉ đơn thuần phụ thuộc vào việc thiết lập các thừa tác vụ và các bí tích, mà còn phụ thuộc vào các đặc sủng – những quà tặng nhưng không và không thể đoán trước của Chúa Thánh Thần, Đấng không bị giới hạn trong các ‘kênh’ được thiết lập trước.
Đức hồng y Suenens giải thích rằng ‘Giáo hội “có cơ cấu” trước tiên không phải là một thực tại pháp lý mà là một thực tại bí tích. Thánh Thần ngự xuống trên những kẻ được Thầy Chí Thánh ủy nhiệm;[22] các đặc sủng không phải là những hiện tượng ngoại vi hay ngẫu nhiên trong đời sống Giáo hội, mà ngược lại chúng có tầm quan trọng thiết yếu đối với việc xây dựng nhiệm thể Đức Kitô.
“Đừng bao giờ quên rằng Giáo hội không thể hiện hữu nếu thiếu chiều kích đặc sủng. Phủ nhận chiều kích này không chỉ làm nghèo Giáo hội mà còn phủ nhận luôn cả sự hiện hữu của Giáo hội. Không có chiều kích này, Giáo hội không phải chỉ bị mất một bộ phận nào đó của mình, giống như một người bị mất bàn tay, nhưng sẽ không còn là Giáo hội nữa, vì chính yếu tính của Giáo hội sẽ bị tiêu hủy”.[23]
Tương tự như thế, cha Rahner khẳng định rằng cùng với các bí tích và cơ cấu phẩm trật, đặc sủng là điều cần thiết cho đời sống của Giáo hội.[24] Một mặt, Giáo hội đóng vai trò là người chuyển thông những ân huệ của Chúa Thánh Thần qua các bí tích. Mặt khác, ‘các yếu tố thể chế trong Giáo hội… được bao phủ bởi các đặc sủng của Chúa Thánh Thần, Đấng luôn làm cho Giáo hội trở thành một hệ thống mở ra đến một tương lai nơi mà chỉ một mình Thiên Chúa có thể sắp xếp và định đoạt.’[25] Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng đặc biệt nhấn mạnh đến nguyên tắc đồng thiết yếu của các hồng ân này: ‘Trong Giáo hội, không hề có xung đột hay đối lập giữa chiều kích thể chế và chiều kích đặc sủng, mà các phong trào là một biểu hiện quan trọng. Cả hai chiều kích này đều đồng thiết yếu với kết cấu thần linh của Giáo hội do Chúa Giêsu thiết lập, vì cả hai cùng giúp làm cho mầu nhiệm Chúa Kitô và công trình cứu độ của Người hiện diện trên thế giới.’[26]
Từ những tìm hiểu trên chúng ta có thể nói rằng mặc dù đặc sủng khác với phẩm trật bởi vì chúng tùy thuộc vào sáng kiến tự do của Chúa Thánh Thần, Đấng ban phát chúng ‘như Người muốn’; sự khác biệt này không có nghĩa là đặc sủng và phẩm trật đối chọi nhau. Cả hồng ân đặc sủng và hồng ân phẩm trật đều phát xuất từ Chúa Thánh Thần,[27] nên cả hai có mối tương quan hỗ tương sâu đậm với nhau để làm cho Giáo hội sống và sống dồi dào. Một điều thú vị cần lưu ý ở đây là chính các phẩm trật cũng mang tính đặc sủng, như Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI đã giải thích: ‘Trong Giáo hội, các định chế thiết yếu cũng đều có tính đặc sủng và quả thực, các đặc sủng, cách này hay cách khác, đều phải được định chế hóa để có được sự đồng nhất và liên tục. Do đó, cả hai chiều kích đều bắt nguồn từ cùng một Chúa Thánh Thần vì cùng một Nhiệm Thể Chúa Kitô, và cùng làm cho mầu nhiệm và công trình cứu rỗi của Chúa Kitô hiện diện trên thế giới.’[28]
Như vậy, phẩm trật và đặc sủng đồng thiết yếu trong đời sống của Giáo hội vì cả hai đều nhằm xây dựng Giáo hội, nhiệm thể Chúa Kitô. Trong khi phẩm trật do Chúa Giêsu thiết lập là hồng ân được ban qua bí tích truyền chức ‘để chăn dắt và phát triển Dân Thiên Chúa luôn mãi’ hầu ‘mọi người trong đoàn Dân Thiên Chúa đang thực sự hưởng nhận phẩm giá Kitô hữu, có thể đạt đến ơn cứu độ;’[29] thì đặc sủng là ‘ân sủng đặc biệt’ mà Chúa Thánh Thần ban phát cho các tín hữu thuộc mọi cấp bậc trong Giáo hội tùy theo ý Ngài muốn, để làm cho họ ‘có đủ khả năng và sẵn lòng đảm nhận các công việc và nhiệm vụ khác nhau mưu ích cho việc canh tân, xây dựng và phát triển Giáo hội.’[30]
Ở đây cần nói thêm rằng, như là ‘men’, các đặc sủng làm cho Giáo hội thực sự là ‘Giáo hội’.[31] Tuy nhiên chất ‘men’ này có thể gây hỗn loạn nếu chúng không hòa nhập vào hệ thống cơ cấu phẩm trật của Giáo hội; cũng thế, nếu không có chất ‘men’ này thì cơ cấu phẩm trật của Giáo hội sẽ trở nên khô khan, máy móc và thiếu sức sống. Như thế, trong khi những hồng ân phẩm trật giúp cho Giáo hội đi trong trật tự, hồng ân đặc sủng làm cho Giáo hội linh hoạt và sống động. Nói cách khác, đời sống của Giáo hội sẽ mạnh khỏe, sức sống của Giáo hội sẽ dồi dào nếu hai chiều kích đồng thiết yếu này luôn tùy thuộc và hỗ trợ lẫn nhau.
Vậy thì phẩm trật và đặc sủng tùy thuộc và hỗ trợ lẫn nhau như thế nào? Trong bản văn Lumen Gentium 12, Công đồng sử dụng cụm từ ‘như Người muốn’, diễn tả các sáng kiến tự do của Chúa Thánh Thần; các đặc sủng được ban trực tiếp cho các tín hữu mà không cần bất kỳ sự can thiệp nào của các phẩm trật trong Hội Thánh. Nhưng tiếp theo đó Công đồng lại nói: ‘Những vị thủ lãnh trong Giáo hội có thẩm quyền phán quyết về tính cách chân chính và sự sử dụng hợp lý các ơn lạ ấy; các ngài có nhiệm vụ đặc biệt phải khảo sát tất cả.’ Như vậy, ở đây Công đồng cho thấy vai trò của phẩm trật đối với đặc sủng. Vai trò này là gì, chúng ta cùng tìm hiểu.
Vai trò của Phẩm trật đối với Đặc sủng
Theo Thánh Phaolô, mỗi đặc sủng đều có vai trò riêng của mình trong việc xây dựng Giáo hội và sự phân định thần khí là một trong những đặc sủng (1Cr 12,10). Theo Hiến chế Gaudium et Spes, toàn thể Dân Chúa, cả mục tử lẫn giáo dân, đều có nhiệm vụ phân định những dấu hiệu của thời đại.[32] Tuy nhiên, theo Hiến chế Lumen Gentium, phán quyết về tính xác thực của các đặc sủng thuộc về những người có trách nhiệm trong Giáo hội, tức là, Đức giáo hoàng và các Giám mục.
Là một thực thể hữu hình trên trần gian, Giáo hội ‘được tổ chức như một cộng đồng xã hội.’[33] Cũng như bao cộng đồng xã hội khác, ‘Giáo hội cũng cần có quy chế để xác định căn tính cũng như sự hiệp nhất của mình… Cơ cấu phẩm trật của Giáo hội, vốn có mầm mống từ chính Đức Kitô và được hình thành trong thời các tông đồ, là nhằm bảo đảm căn tính và sự hiệp nhất đó của Giáo hội như là cộng thể những con người trần thế.’[34] Và quyền thẩm định về tính xác thực của các đặc sủng là một trong các chức năng của những vị thuộc phẩm trật trong Giáo hội. Đây là đặc sủng được ban cho các ngài, như Ủy ban Thần học Quốc tế đã xác quyết: ‘Thẩm quyền của các Mục tử là đặc sủng của Thánh Thần Chúa Kitô, Đấng là Đầu, để xây dựng toàn bộ Thân Thể, chứ không phải là một chức năng được ủy nhiệm và đại diện cho dân chúng.’[35]
Liên quan đến vấn đề này, Đức giáo hoàng Phanxicô giải thích rằng tính hiệp hành, như là một yếu tố cấu thành Giáo hội, sẽ cung cấp cho chúng ta một cái khung giải thích thích hợp nhất để hiểu thừa tác vụ của các phẩm trật trong lãnh vực này. Đức giáo hoàng trình bày Giáo hội như ‘một kim tự tháp ngược’, bao gồm toàn thể Dân Thiên Chúa trong đó, người kế vị Thánh Phêrô, có thừa tác vụ chuyên biệt. Nét độc đáo của kim tự tháp này là đỉnh của nó lại nằm ở dưới đáy. Đức giáo hoàng nói:
“Chúa Giêsu đã thành lập Giáo hội bằng cách đặt một tông đồ đoàn đứng đầu Giáo hội, trong đó Thánh Tông đồ Phêrô là “đá tảng” (x. Mt 16,18), là người phải “củng cố” các anh em của mình trong đức tin (x. Lc 22,32). Nhưng trong Giáo hội này, như trong một kim tự tháp ngược, đầu nằm dưới chân đế. Do đó, những người thực thi quyền bính được gọi là “thừa tác viên”, vì, theo nghĩa gốc của từ ngữ, họ là người chót nhất trong tất cả. Chính trong việc phục vụ dân Thiên Chúa, mỗi giám mục – đối với đoàn chiên được ủy thác – trở nên người đại diện của Chúa Kitô (vicarius Christí), Đấng đã cúi xuống rửa chân cho các Tông đồ trong bữa Tiệc ly (x. Ga 13, 1-15). Và ở một góc độ tương tự, người kế vị của Thánh Phêrô không là gì khác, nếu không phải là tôi tớ của các tôi tớ Thiên Chúa (servus servorum Dei).
Chúng ta đừng bao giờ quên điều đó! Đối với các môn đệ của Chúa Giêsu, hôm qua, hôm nay và mãi mãi, quyền bính duy nhất là quyền bính phục vụ”.[36]
Như vậy, khi Thánh Phaolô đặt đặc sủng tông đồ đứng đầu danh sách các đặc sủng trong Giáo hội: ‘Trong Hội Thánh, Thiên Chúa đã đặt một số người, thứ nhất là các Tông Đồ, thứ hai là các ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy…’ (1Cr 12, 28-30), cũng như khi Công đồng Vaticanô II khẳng định: ‘Trong các ân huệ của Thánh Thần, ân sủng ban cho các Tông đồ đứng hàng đầu: chính Chúa Thánh Thần đặt dưới quyền các ngài cả những người lãnh nhận các đoàn sủng (1Cr 14),’[37] là Thánh Phaolô và Công đồng đều có ý nói về đặc sủng phục vụ của các phẩm trật.
Trong đặc sủng phục vụ này bao gồm trách nhiệm phân định đặc sủng, bởi vì, ‘sẽ là một sai lầm nếu chúng ta cho rằng đặc sủng luôn được ban cho một cách bừa bãi và không thể đoán trước, mà không quan tâm đến trách nhiệm phân định của các Đấng Bản quyền.’[38] Tuy nhiên, nhiệm vụ của những người có trách nhiệm không phải là áp đặt quyền hành trên những đặc sủng, nhưng là để nhận biết và phân định chúng một cách chính xác, đồng thời khuyến khích những người nhận, đó là, tất cả các tín hữu, biết sử dụng chúng một cách hiệu quả. Nhiệm vụ này thật không dễ dàng, nó đòi hỏi một sự phân định khôn ngoan và khéo léo giữa sự tôn trọng quyền tự do hành động của Chúa Thánh Thần và quyền bính trong Giáo hội.
Một trong những tiêu chuẩn để phân định tính xác thực của các đặc sủng là sự hiệp nhất. ‘Chúa Thánh Thần quy tụ cộng đồng (x. 1Cr 12,4; Ep 4,4; 12,6). Nếu, với đặc sủng của mình, có người chia rẽ cộng đồng, làm tan rã hoặc tạo ra một bầu khí chia rẽ và hận thù trong cộng đồng, thì đặc sủng của người đó bị mất đi bản chất của nó và trở thành một điều kỳ dị. Nếu không có sự hợp nhất, đặc sủng trở thành sự phá hoại cộng đồng… Đặc sủng là đặc sủng khi nó liên kết với Thánh Thần của sự hiệp nhất. Đặc sủng, như vậy, ở ngoài tầm với của con người. Nó luôn luôn là ân sủng, ơn được ban nhưng không. Một cá nhân nhận được đặc sủng và chỉ có thể sử dụng đặc sủng ấy một cách hợp pháp khi đặc sủng đó được công nhận là đã được nhận từ và được ban bởi Thánh Thần.’[39] Như vậy, đặc sủng được ban cho vì sự thăng tiến của Giáo hội và cho sự hiệp nhất của nó. Sự đa dạng của các đặc sủng không được làm hại đến sự hiệp nhất của Giáo hội. Một ‘đặc sủng’ mà được xác minh là gây ra những xung đột hoặc gây chia rẽ trong Giáo hội thì không thể được coi là đặc sủng của Chúa Thánh Thần.
Tính hiệp nhất của đặc sủng được biểu hiện qua sự phục vụ. Đây là nét thiết yếu để nhận ra sự xác thực của một đặc sủng. Một đặc sủng đích thực không biểu hiện qua các phép lạ nhưng qua sự phục vụ. Đặc sủng phải được sử dụng để phục vụ cộng đồng một cách có ý thức và trách nhiệm.[40] Nói cách khác, đặc sủng ‘luôn luôn được nhìn nhận như là sự phục vụ …, như là những quà tặng cho một thân thể, được ban cho, xuyên qua các chi thể “vì lợi ích chung”.’[41] Tuy nhiên, trong việc phục vụ vì lợi ích chung, đặc sủng được ban không chỉ giới hạn trong việc xây dựng cộng đồng Giáo hội; chúng phải được vượt qua các ranh giới chật hẹp và những quan niệm đóng khung để phục vụ những nhu cầu của xã hội và thế giới.
Hơn nữa, tính hiệp nhất của đặc sủng còn được biểu hiện qua tình yêu, niềm vui và bình an, là những hoa trái của Chúa Thánh Thần (Gl 5,22). Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết: ‘Mỗi món quà của Chúa Thánh Thần nuôi dưỡng và làm cho tình yêu được tăng trưởng, cả trong chính cá nhân người lãnh nhận và trong cộng đồng, và do đó nó tạo ra niềm vui và bình an. Nếu một đặc sủng gây rắc rối và hoang mang, điều này có nghĩa rằng hoặc là nó không phải là một đặc sủng đích thực hoặc là nó đã không được sử dụng một cách đúng đắn.’[42]
Ở đây, chúng ta thấy rằng Giáo hội phải rất cẩn thận khi đưa ra các điều kiện để phân định các đặc sủng, bởi vì Chúa Thánh Thần có quyền ‘thổi’ nơi Người muốn, khi Người muốn và bất cứ lúc nào Người muốn. Theo Đức hồng y Suenens, ‘Khi chúng ta tin rằng một nguồn cảm hứng đến với chúng ta từ Chúa Thánh Thần, chúng ta phải làm theo nó: những gì xảy ra sau đó không phải là trách nhiệm của chúng ta.’[43] Các vị mục tử có nghĩa vụ kiểm chứng và thông báo cho giáo dân của họ về tính chân thực của những đặc sủng và sự đáng tin của những người tuyên bố rằng họ đã nhận được đặc sủng. Điều này được áp dụng đặc biệt trong trường hợp những đặc sủng ngoại thường.[44] Các mục tử nên tuân theo hướng dẫn của Thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi tín hữu Thêxalônica, ‘Xem xét mọi điều’ (5,21), nhưng ‘Đừng dập tắt Thánh Thần’ (5,19). Nói cách khác, bởi vì các đặc sủng đến từ sáng kiến tự do của Chúa Thánh Thần, các phẩm trật của Giáo hội không tạo ra đặc sủng; nhiệm vụ của các ngài là nhận ra, chào đón, liên kết các đặc sủng vào sự hiệp thông của Giáo hội và làm cho chúng được triển nở để cùng nhau thi hành sứ mệnh mà Chúa Giêsu đã ủy thác cho Giáo hội.
Phẩm trật và Đặc sủng – cùng thi hành một Sứ mệnh
Từ Công đồng Vatican II đã có sự chuyển biến trong nhận thức về sứ mệnh của Giáo hội, theo đó sứ mệnh của Giáo hội được hiểu là phát xuất từ sứ mệnh của Thiên Chúa (Missio Dei). Chính vì sứ mệnh của Thiên Chúa mà Giáo hội hiện hữu trên thế giới này và vì thế, Giáo hội là cánh tay nối dài của sứ mệnh của Thiên Chúa. Đã có sự thay đổi dần dần từ mô hình một Giáo hội phẩm trật của Công đồng Trentô đến mô hình một Giáo hội ‘hiệp thông’. Qua bí tích Rửa Tội, tất cả các thành viên của Giáo hội được trở thành con cái của Thiên Chúa, được trở nên môn đệ của Chúa Giêsu Kitô và được mời gọi tham gia vào một sứ mệnh duy nhất mà Chúa Giêsu đã ủy thác cho Giáo hội: đó là loan báo và làm chứng cho Nước Thiên Chúa; đây là ơn gọi phổ quát dành cho tất cả các Kitô hữu thuộc mọi bậc sống trong Giáo hội.
Cũng qua bí tích Rửa Tội, tất cả các Kitô hữu đều được nhận lãnh ‘đặc sủng gốc’ – ơn Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, họ được bước vào một đời sống mới, ‘đời sống Kitô hữu’ và được tiếp nhận vào cộng đồng Giáo hội; chia sẻ cùng một ơn gọi Kitô hữu. Rồi từ nơi đó, họ lại được mời gọi sống ơn gọi cụ thể của mỗi người trong những bậc sống khác nhau – giáo dân, tu sĩ hay giáo sĩ.[45] Từ ‘đặc sủng gốc’ này tuôn chảy ra tất cả các đặc sủng khác tùy theo ơn gọi của mỗi thành viên trong cộng đồng Giáo hội. Lịch sử thần học về đặc sủng và phong trào canh tân đặc sủng Thánh Linh trong Giáo hội cho thấy rằng, những đặc sủng luôn xuất hiện như một cái gì đó thật mới mẻ, tươi trẻ và đáng ngạc nhiên; bởi vì đặc sủng đến từ Chúa Thánh Thần, Đấng ‘luôn luôn tạo ra những bất ngờ.’[46] Người là ‘một vị khách nghịch ngợm, làm náo động những định kiến nơi Người đến và cách Người hành động.’[47] Như là biểu hiện sự tự do tuyệt đối của Thánh Thần, các đặc sủng mang nhiều hình thức khác nhau, hầu đáp ứng cho các nhu cầu đa dạng của Giáo hội và xã hội.
Chính qua các bậc sống và thừa tác vụ khác nhau mà Giáo hội cống hiến cho các tín hữu những phương tiện để đáp lại lời mời gọi mà Thiên Chúa dành cho mỗi người. Lời mời gọi này, đối với mỗi Kitô hữu, hệ tại nơi cuộc sống theo đặc sủng mà họ đã nhận được. Do đó, ‘tất cả những người đã chịu phép Thánh tẩy, những người tham gia vào chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương đế của Đức Kitô, “khi thi hành các đặc sủng đa dạng và phong phú Chúa ban cho theo ơn gọi và thừa tác vụ của họ,” đều là những chủ thể tích cực loan báo Tin Mừng, trong tư cách cá nhân cũng như với tư cách toàn thể dân Chúa.’[48]
Như vậy, trong giới hạn của ngôn ngữ loài người khi diễn tả về mầu nhiệm của Thiên Chúa, chúng ta có thể nói rằng toàn thể Giáo hội của Chúa được ủy thác với một sứ mệnh duy nhất, đó là sống và loan báo tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại và toàn thể tạo thành được thể hiện nơi cuộc sống và mầu nhiệm Tử nạn-Phục sinh của Chúa Giêsu. Trong tinh thần hiệp thông của những người con Thiên Chúa, tất cả những ai đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội đều có quyền và trách nhiệm phục vụ cho sứ mệnh duy nhất này, mỗi người sẽ thi hành theo một cách đặc biệt – chung hay riêng – tùy theo bậc sống và đặc sủng mà họ đã lãnh nhận.
Thay lời kết
Nếu, như Thánh Irenaeus đã nói, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là ‘đôi bàn tay’ của Chúa Cha,[49] thì chúng ta cũng có thể nói rằng các hồng ân phẩm trật và đặc sủng là đôi bàn tay của Giáo hội. Trong khi cùng nhau thi hành một sứ mệnh duy nhất mà Chúa Giêsu đã trao phó cho Giáo hội, nếu đôi bàn tay này, với những đặc tính khác biệt được nhận ra và trân quý, được phối hợp chặt chẽ và hòa điệu nhịp nhàng với nhau, nhưng không mất đi bản sắc riêng của mình, thì chắc chắn đời sống của Giáo hội sẽ rất phong phú và trở nên một chứng tá sống động cho sự hiện diện của Thiên Chúa nơi trần thế này. Nhờ đó, Danh Chúa sẽ được rạng rỡ vinh quang và con người sẽ được hạnh phúc như lòng Chúa mong ước. Một khi Thiên Chúa được vinh danh và con người được hạnh phúc thì ắt hẳn con đường hiệp hành sẽ trở nên khả thi, sẽ rất “đông vui” và sẽ không còn đâu xa.
Để Thiên Chúa được “biết hơn, tin hơn và yêu mến hơn.”[50]
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 130 (Tháng 7 & 8 năm 2022)
[1] Congregation for the Doctrine of the Faith, Letter Iuvenescit Ecclesia to the Bishops of the Catholic Church, regarding the Relationship between Hierarchical and Charismatic Gifts in the Life and the Mission of the Church (15.5.2016), 13.
[2] International Theological Commission, “Synodality in the Life and Mission of The Church” (02.3.2018), 74.
[3] John W. O’Malley, What Happened at Vatican II (Cambridge, MA: Harvard University Press, 2008), 11.
[4] Cuộc tranh luận diễn ra vào tháng 10 năm 1963. Xin xem thêm chi tiết trong Acta Synodalia Concilii Vaticani II, II/III (Vatican City, 1972), 175-178.
[5] Acta Synodalia Concilii Vaticani II, X/II (Vatican City, 1972), 629–630.
[6] Floyd Anderson, ed., Council Day Book Vatican II, Session I-II (Washington, DC: The Author, 1962–1965), 208.
[7] Léon-Joseph Suenens, “The Charismatic Dimension of the Church,” trong Council Speeches of Vatican II, biên tập bởi Yves Congar, Hans Küng và Daniel O’Hanlon (London: Sheed and Ward, 1964), 18-19.
[8] Suenens, “The Charismatic Dimension of the Church,” 20.
[9] Anderson, ed., Council Day Book Vatican II, Session I-II, 203.
[10] Suenens, “The Charismatic Dimension of the Church,” 18.
[11] Suenens, “The Charismatic Dimension of the Church,” 19–20.
[12] Công đồng Vatican II, Lumen Gentium, Hiến Chế Tín Lý về Giáo hội (21.11.1964), số 12.
[13] Lumen Gentium, số 4.
[14] Karl Rahner, “Charism,” in Encyclopedia of Theology: The Concise Sacramentum Mundi, biên tập bởi Karl Rahner (London: Burns & Oates, 1975), 184.
[15] Albert Vanhoye, “The Biblical Question of ‘Charisms’ after Vatican II,” trong Vatican II: Assessment and Perspectives Twenty-five Years After (1962–1987), vol. 1, biên tập bởi René Latourelle (New York/Mahwah, NJ: Paulist Press, 1988), 462.
[16] Léon-Joseph Suenens, “Thánh Thần, Hơi Thở sống động của Giáo hội,” trong Thánh Thần, Hơi Thở Sống Động của Giáo hội, Q. 1, Nguyễn Đăng Trúc chuyển dịch (Định Hướng Tùng Thư, 2003), https://www.thanhlinh.net/node/8711
[17] Enrique Nardoni, “Charism in the Early Church since Rudolph Sohm: An Ecumenical Challenge,” Theological Studies 53 (1992), 654.
[18] Suenens, “Thánh Thần, Hơi Thở sống động của Giáo hội.”
[19] Yves Congar, The Word and the Spirit, David Smith chuyển dịch (London: Geoffrey Chapman, 1983), 78–83.
[20] Suenens, “Thánh Thần, Hơi Thở sống động của Giáo hội.”
[21] Ratzinger, “The Theological Locus of Ecclesial Movements,” 485.
[22] Suenens, “Thánh Thần, Hơi Thở Sống Động của Giáo hội.”
[23] Suenens, “Thánh Thần, Hơi Thở Sống Động của Giáo hội.”
[24] Rahner, “Charism,” 184.
[25] Karl Rahner, “Observations on the Factor of the Charismatic in the Church,” trong Theological Investigations, vol. 12 (New York: Seabury, 1974), 94.
[26] John Paul II, “Message for the World Congress of Ecclesial Movements and New Communities” (27 May 1998), số 5.
[27] Vanhoye, “The Biblical Question of ‘Charisms’ after Vatican II,” 444; xem Lumen Gentium, số 4.
[28] Benedict XVI, “Address to the Members of Communion and Liberation Movement on the 25th Anniversary of Its Pontifical Recognition” (24 March 2007).
[29] Lumen Gentium, số 18.
[30] Lumen Gentium, số 12.
[31] John C. Haughey, “Charisms: An Ecclesiological Exploration,” trong Retrieving Charisms for the Twenty-First Century, biên tập bởi Doris Donnelly (Collegeville, MN: Liturgical Press, 1999), 5.
[32] Công đồng Vatican II, Gaudium et Spes (07.12.1965), 44; x. 4 & 11.
[33] Lumen Gentium, 8.
[34] Nguyễn Hai Tính, Giáo Lý Tổng Quan và Diễn Giải: Phần Tín Lý của Sách Giáo Lý (Đồng Nai: Đồng Nai, 2020), 63.
[35] “Synodality in the Life and Mission of The Church,” 67
[36] Francis, “Ceremony Commemorating the 50th Anniversary of the Institution of the Synod of Bishops,” (17.10.2015).
[37] Lumen Gentium, số 7.
[38] Avery Dulles,“The Charism of the New Evangelizer,” trongRetrieving Charisms for the Twenty-First Century, biên tập bởi Doris Donnelly (Collegeville, MN: Liturgical Press, 1999), 34–35.
[39] Leonardo Boff, Church: Charism and Power, Liberation Theology and the Institutional Church, chuyển dịch bởi John W. Diercksmeier (New York: Crossroad, 1985), 161.
[40] Hans Küng, “The Charismatic Structure of the Church,” Concilium: Ecumenisms 4, 1 (1965), 27.
[41] James D.G. Dunn, Jesus and the Spirit: A Study of the Religious and Charismatic Experience of Jesus and the First Christians as Reflected in the New Testament (London: SCM Press, 1975), 264.
[42] John Paul II, “The Role of Charisms in the Church’s Life,” (24.6.1992).
[43] Léon Joseph Suenens, Memories and Hopes, chuyển dịch bởi Elena French (Dublin: Veritas, 1992), 65.
[44] John Paul II, “Charisms.”
[45] Antonio Maria Sicari, “Ecclesial Movements: A New Framework for Ancient Charisms,” Communio 29 (Summer 2002), 295. Cụm từ ‘đặc sủng gốc’ được dịch từ cụm từ ‘original charism’ của Sicari.
[46] Ratzinger, “The Theological Locus of Ecclesial Movements,” 500.
[47] Doris Donnelly, “Introduction,” trong Retrieving Charisms for the TwentyFirst Century, biên tập bởi Doris Donnelly (Collegeville, MN: Liturgical Press, 1999), x.
[48] Tài liệu chuẩn bị THĐGM 2023, “Hướng đến một Hội Thánh hiệp hành: Hiệp thông, Tham gia và Sứ vụ,” số 12.
[49] Irenaeus, Adversus Haereses 4.Preface.4.
[50] Đức cha Phêrô Nguyễn Huy Mai, “Bài giảng ngày thiết lập Dòng Đức Maria Nữ Vương Hòa Bình” (31.5.1969).
2022
Một cây nho, một thân mình – Để xây dựng một “nền mục vụ hiệp thông”
MỘT CÂY NHO MỘT THÂN MÌNH
ĐỂ XÂY DỰNG MỘT “NỀN MỤC VỤ HIỆP THÔNG”
(Một góp ý cho định hướng mục vụ năm 2023: CỦNG CỐ SỰ HIỆP THÔNG)
Lm. Giuse Trương Đình Hiền
Giáo phận Qui Nhơn
DẪN NHẬP: HIỆP THÔNG – LINH HỒN CỦA MỘT CƠ CHẾ
Nếu trong phụng vụ từ “Amen” được nhắc đi nhắc lại nhiều nhất[1], thì trong lãnh vực thần học, tu đức, mục vụ…, “Hiệp Thông” có lẽ là một trong những chuyên đề được Dân Chúa chú trọng, lựa chọn, nghiên cứu, áp dụng thực hành nhiều nhất và cũng rộng rãi, bao quát nhất.
Thật vật, trong sinh hoạt toàn thể của Dân Chúa: từ các sinh hoạt trọng điểm của Giáo Hội hoàn vũ đến địa phương, từ đời sống linh mục, thánh hiến đến giáo dân đời thường, từ các “văn kiện Huấn quyền của Tòa Thánh, của các Đức Giáo Hoàng” đến các chỉ thị và hướng dẫn mục vụ của các Giám Mục giáo phận hay nơi các bài giảng lễ ngày thường của các cha sở nhà quê…, chủ đề “Hiệp thông” gần như đâu đâu cũng được đề cao, quy chiếu, chú trọng… Quả thật, như Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhấn mạnh trong Tông Thư “Khởi đầu Thiên Niên kỷ mới”: Hiệp thông chính là “linh hồn” làm cho “cơ chế Giáo Hội” sống động[2].
Nhân dịp Hội Đồng Giám Mục Việt Nam chọn lựa chủ đề “CỦNG CỐ SỰ HIỆP THÔNG” để làm chủ đề và định hướng mục vụ cho Năm 2023, xin được đóng góp một góc nhìn nho nhỏ như một “viên gạch tinh thần” để cùng nhau “XÂY DỰNG MỘT “NỀN MỤC VỤ HIỆP THÔNG”.
Và để tiếp cận “nội dung” của chủ đề trên, xin được đề nghị một “lộ trình gợi ý” xoay quanh mấy điểm sau đây:
– Hiệp thông và vài “điểm dừng” để “ôn cố”.
– Đón nhận “ân ban Hiệp thông” trên nền tảng Mạc khải.
– Hoán cải – Xây dựng mục vụ Hiệp thông.
– Nghệ thuật chăm sóc mục vụ hiệp thông.
Dĩ nhiên, những gợi ý nầy không đi ngoài tinh thần cũng như mục đích của “tiến trình hiệp hành” mà Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới thứ XVI đề ra, đó là:
“tiến trình hiệp hành không phải là cung cấp kinh nghiệm tạm thời hoặc một lần về tính hiệp hành, mà là tạo cơ hội cho toàn Dân Chúa cùng nhau phân định cách tiến bước trên con đường trở thành một Hội thánh mang tính hiệp hành hơn trong tầm nhìn dài hạn.”[3].
Vâng, công việc mục vụ của Giáo phận chúng ta luôn luôn là một “chương trình dài hơi”; và mỗi một lần “đại hội” như thế này, có thể nói được, là một cuộc “bắt đầu lại”, “xuất phát lại”. Năm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội Việt Nam, chúng ta chọn cuộc xuất phát lại với “cột mốc đầu tiên” trong tiến trình hiệp hành đó là “Hiệp thông”; mà nếu dùng ngôn ngữ của Kinh Thánh đó là “Một Cây Nho, Một Thân Mình” (Ga 15,5; 1 Cr 12,27).
Hy vọng trong thời gian ngắn ngủi nhưng rất quý giá nầy, anh chị em chúng ta sẽ thực thi đúng nguyện vọng của Hội Thánh thông qua tiếng nói của Thượng Hội Đồng Giám Mục, khi cắt nghĩa từ “Hiệp thông”:
“Do ý muốn nhân lành, qua giao ước mà Ngài ban cho dân, Thiên Chúa quy tụ chúng ta lại với nhau như những dân khác biệt nhưng cùng một đức tin. Cội nguồn sâu xa nhất của sự hiệp thông mà chúng ta cùng chia sẻ phát xuất từ tình yêu và sự hiệp nhất của Thiên Chúa Ba Ngôi. Chính Chúa Kitô là Đấng hòa giải chúng ta với Chúa Cha và liên kết chúng ta với nhau trong Chúa Thánh Thần. Khi liên kết với nhau, chúng ta được gợi hứng từ việc lắng nghe Lời Chúa, qua Truyền thống sống động của Giáo hội, và được đắm mình vào cảm thức đức tin mà chúng ta cùng chia sẻ. Tất cả chúng ta đều có vai trò của mình trong việc biện phân và thực hiện lời kêu gọi mà Thiên Chúa dành cho dân Ngài”[4].
I. HIỆP THÔNG VÀ VÀI ĐIỂM DỪNG ĐỂ “ÔN CỐ”
Trước khi đi vào câu chuyện chia sẻ chính thức về một nền “mục vụ hiệp thông”, chúng ta thử dừng lại một chút để ôn lại “câu chuyện hiệp thông” đã diễn ra trong nhịp sống đức tin của Dân Chúa trên bình diện Giáo Hội hoàn vũ cũng như trên bình diện Giáo hội địa phương tại Việt Nam từ “cuối năm 2000” đến nay. Dĩ nhiên, đây không phải là chuyện “hoài cổ” để khơi gợi thái độ “càm ràm” theo cái kiểu tiêu cực “Biết rồi, chuyện cũ, nói mãi !”, mà là trong thái độ và tinh thần “nhật nhật tân” hay “hoán cải mục vụ” giúp nhau vươn tới “sự hiệp nhất trong đức tin và trong sự nhận biết Con Thiên Chúa, tới tình trạng con người trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn của Đức Ki-tô.” (Ep 4, 13).
1. Hiệp thông: trọng điểm mục vụ của “Đại Năm Thánh 2000”
Trên bình diện Hội Thánh hoàn vũ, sự kiện “Đại Năm Thánh 2000” mừng “hai ngàn năm Chúa Giêsu giáng sinh” là biến cố mục vụ mang “tầm mức thế kỷ”. Chính trong dịp trọng đại nầy, chúng ta có thể gặp được chủ đề “hiệp thông” được nhấn mạnh qua các Văn kiện Huấn Quyền, như là “điểm nhấn” quan trọng trong hành trình đức tin của Dân Chúa:
– Hiệp Thông: Một chiều kích hoán cải căn bản để chuẩn bị mừng Đại Năm Thánh:
“Trong số những tội lỗi cần phải dứt khoát thống hối và cải thiện, chắc chắn phải kể tới những tội lỗi đã làm thiệt hại đến niềm hiệp nhất theo ý Thiên Chúa muốn nơi dân của Người. Trong dòng lịch sử 1000 năm mà giờ đây đang đến hồi kết thúc, việc hiệp thông hội thánh, còn hơn cả trong ngàn năm đầu, đã bị tổn thương một cách xót đau, một sự kiện “mà có những lúc cả hai bên đều phải trách mình” (Sắc lệnh Unitatis Redintegratio, đoạn 3). Những vết thương như thế hiển nhiên là phản lại với ý muốn của Chúa Kitô và gây gương mù cho thế giới (cùng đoạn sắc lệnh trên). Những tội lỗi quá khứ này, bất hạnh thay, vẫn còn đè nặng trên chúng ta và vẫn từng là những thử thách hiện nay. Cần phải thực hiện những bổ khuyết cho chúng, và tha thiết xin Chúa Kitô thứ tha.”[5].
– Hiệp thông: Một linh đạo cho toàn thể Hội Thánh trong Thiên niên kỷ mới:
“Biến Giáo Hội thành nhà và trường hiệp thông: đó là thách đố lớn giáp mặt chúng ta trong ngàn năm đang bắt đầu, nếu chúng ta muốn trung thành với chương trình của Chúa và đáp ứng những ước mơ sâu xa nhất của thế giới. Nhưng điều đó có nghĩa gì trên thực tế ? Ở đây cũng vậy, ý nghĩ chúng ta hướng ngay tới việc phải làm, nhưng đó không phải là động lực đúng phải theo. Trước khi vạch ra những chương trình thực hành, chúng ta cần cổ võ một linh đạo hiệp thông, làm cho linh đạo đó thành nguyên lý hướng đạo giáo dục bất cứ nơi nào huấn luyện các cá nhân và người Kitô hữu, bất cứ nơi nào đào tạo những kẻ phục vụ bàn thờ, những người tận hiến và những lao công mục vụ, bất cứ nơi nào xây dựng các gia đình và các cộng đồng.”[6].
2. Những “cột mốc hiệp thông” qua các Thượng Hội đồng Giám mục thế giới
Ngoài hai “điểm nhấn mục vụ” mang tính Giáo Hội toàn cầu như đã nêu, trên con đường lữ hành đức tin của Dân Chúa trong khoảng từ đầu Thiên niên kỷ thứ ba đến nay, Huấn Quyền Giáo Hội (qua các Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới) đã để lại những “cột mốc” thiêng liêng quan trọng và cần thiết liên quan đến “giáo huấn Hiệp thông” mà chúng ta có thể đọc lại để thêm phần xác tín:
2.1. Thượng Hội Đồng Giám Mục thường lệ lần thứ 11 (02/10 – 23/10/2005): “Bí tích Thánh Thể, nguồn mạch và chóp đỉnh đời sống và sứ mạng của Giáo Hội”: Hiệp Thông nhờ Thánh Thể trong Tông huấn Sacramentum Caritatis (Bí tích Tình yêu) của Đức Bênêđictô XVI (22/02/2007):
“Điểm đặc biệt, Kinh Nguyện Thánh Thể II liên kết lời cầu xin cho sự hiệp nhất của Hội Thánh với lời kinh khẩn cầu Chúa Thánh Thần sau khi truyền phép, bằng công thức như sau: “Chúng con nài xin Chúa cho chúng con khi thông phần Mình và Máu Đức Kitô, được quy tụ nên một nhờ Chúa Thánh Thần”. Công thức này cho thấy rõ ràng hiệu quả (res) của Bí tích Thánh Thể là sự hiệp nhất của các tín hữu trong sự hiệp thông Hội Thánh. Như thế Bí tích Thánh Thể tỏ hiện là nền tảng của Hội Thánh là mầu nhiệm Hiệp thông. Tôi tớ Chúa là Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong thông điệp “Hội Thánh sống nhờ Thánh Thể” (Ecclesia de Eucha-ristia)[7] giúp chúng ta chú ý đến liên hệ giữa Bí tích Thánh Thể và hiệp thông. Ngài nói việc cử hành tưởng niệm Đức Kitô là “cách thể hiện cao cả nhất dưới dạng Bí tích sự hiệp thông trong Hội Thánh”[8].
2.2. Thượng Hội Đồng Giám Mục thường lệ lần thứ 12 (05/10-21/10/2008): “Lời Chúa trong đời sống và sứ vụ của Giáo Hội”: Hiệp Thông nhờ Lời Chúa trong Tông huấn Verbum Domini (Lời Chúa) của Đức Bênêđictô XVI (30/09/2010):
“Quả thật, chính trong Kinh Thánh, chúng ta gặp được lời cầu nguyện rất cảm động Đức Giêsu dâng lên Chúa Cha để xin cho các môn đệ của Người được nên một, hầu thế gian có thể tin (x. Ga 17,21). Tất cả những điều này càng củng cố chúng ta trong xác tín rằng cùng lắng nghe và suy niệm Lời Chúa giúp chúng ta sống sự hiệp thông thật sự, cho dù chưa trọn vẹn; “việc cùng nhau lắng nghe Kinh Thánh như thế thúc đẩy chúng ta đi tới đối thoại bác ái và làm tăng trưởng đối thoại chân lý”. Thật vậy, cùng lắng nghe Lời Thiên Chúa với nhau, cùng thực hành Lectio divina, để cho mình ngỡ ngàng trước tính chất mới mẻ, không bao giờ già đi hoặc cạn kiệt, của Lời Thiên Chúa, vượt thắng tình trạng điếc lác khiến chúng ta không nghe được những lời không hòa hợp với các ý kiến hoặc thành kiến của chúng ta, lắng nghe và học hỏi Lời trong sự hiệp thông với các tín hữu thuộc mọi thời đại: tất cả những điều này làm nên một con đường phải rảo qua để đạt tới sự hợp nhất trong đức tin, như một lời đáp trả cho việc lắng nghe Lời Thiên Chúa”[9].
2.3. Thượng Hội Đồng Giám Mục thường lệ lần thứ 13 (07/10 – 28/10/2012): “Tân Phúc âm hóa để loan truyền đức tin Kitô giáo”: Hiệp Thông và sứ mệnh chứng tá trong Tông huấn Evangelii Gaudium (Niềm vui của Tin Mừng) của Đức Phanxicô (24/11/2013):
“Tôi đặc biệt xin các Kitô hữu trong các cộng đồng trên khắp thế giới cống hiến một chứng tá rực sáng và hấp dẫn về tình hiệp thông huynh đệ. Hãy làm cho mọi người thán phục vì anh chị em chăm lo cho nhau, khích lệ và nâng đỡ lẫn nhau: “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13:35). Đây là lời cầu nguyện cảm động của Đức Giêsu: “Xin cho tất cả nên một… trong chúng ta… để thế gian tin…” (Ga 17:21). Hãy cảnh giác trước cám dỗ của sự đố kỵ! Tất cả chúng ta cùng trên một con thuyền hướng về cùng một bến bờ! Chúng ta hãy xin ơn vui mừng vì các ân điển của mỗi người, chúng thuộc về mọi người”[10].
2.4. Thượng Hội Đồng Giám Mục thường lệ lần thứ 14 (04/10 – 25/10/2015): “Ơn gọi và sứ mạng của gia đình trong Giáo hội và trong thế giới ngày nay”: Hiệp Thông và ơn gọi hôn nhân gia đình trong Tông huấn Amoris Laetitia (Niềm vui của tình yêu) của Đức Phanxicô (19/03/2016):
“Linh đạo tình yêu gia đình được cấu thành từ hàng ngàn cử chỉ thực tế và cụ thể. Trong tình hiệp thông được xây dựng từ bao nhiêu là dâng hiến và gặp gỡ, Thiên Chúa có chỗ ngự trị của Ngài. Sự dâng hiến cho nhau đó kết hợp “những giá trị nhân văn và thần linh”, vì nó là sự tròn đầy của tình yêu Thiên Chúa. Cuối cùng, linh đạo hôn nhân là một linh đạo của mối dây ràng buộc, trong đó tình yêu Thiên Chúa cư ngụ. Sống tốt đẹp tình hiệp thông gia đình là một hành trình đích thực để nên thánh trong đời sống hằng ngày và để được lớn lên trong kinh nghiệm thần bí, một phương thế để kết hợp thâm sâu với Thiên Chúa. Quả thật những đòi hỏi của đời sống huynh đệ và cộng đoàn trong gia đình là một cơ hội để người ta không ngừng mở lòng ra hơn nữa, và nhờ đó có thể gặp gỡ Chúa ngày càng trọn vẹn hơn”[11].
2.5. Thượng Hội Đồng Giám Mục thường lệ lần thứ 15 (19/03 – 24/03/2018): “Giới trẻ, Đức tin và biện phân ơn gọi”: Hiệp Thông huynh đệ và niềm vui trong Tông huấn Christus Vivit (Chúa Kitô đang sống) của Đức Phanxicô (25/03/2019):
“Thiên Chúa yêu thích niềm vui của người trẻ và Ngài mời họ trước hết hướng đến niềm vui sống tình hiệp thông huynh đệ, hướng đến cảm nhận niềm vui cao vời của người biết chia sẻ, vì “cho đi thì vui hơn là nhận lại” (Cv 20,35 ) và “Thiên Chúa yêu thích những ai vui vẻ dâng hiến” (2 Cr 9,7). Tình huynh đệ gia tăng gấp bội khả năng của chúng ta kinh nghiệm niềm vui, bởi vì nó làm cho chúng ta vui vì điều tốt đẹp của người khác. “Hãy vui với người vui” (Rm 12,15). Ước gì sự hồn nhiên và những xung năng của tuổi trẻ chúng con ngày càng được biến đổi hơn nữa thành tình yêu thương huynh đệ, tươi trẻ, luôn sẵn sàng tha thứ, quảng đại, khao khát xây dựng cộng đồng. Một câu ngạn ngữ châu Phi nói: “Nếu bạn muốn đi nhanh, hãy đi một mình. Nếu bạn muốn đi xa, hãy đi với những người khác”. Chúng ta đừng để mình bị đánh cắp mất tình huynh đệ”[12].
2.6. Thượng Hội Đồng Giám Mục thường lệ lần thứ 16 (10/2021 – 10/2023): “Vì một Hội Thánh hiệp hành: hiệp thông – tham gia – sứ vụ”: Hiệp Thông bểu lộ bản chất của Hội Thánh trong hai tài liệu hướng dẫn thực thi tiến trình hiệp hành:
– TÀI LIỆU CHUẨN BỊ: Một cơ hội để biểu lộ “bản chất hiệp thông”:
“hiệp hành còn “chỉ phương cách sống và hành động (modus vivendi et operandi) đặc trưng của Giáo hội, dân Thiên Chúa, vốn biểu lộ và thực hiện cách cụ thể bản chất hiệp thông của mình khi mọi thành viên của Giáo hội đồng hành cùng nhau, tập hợp lại trong đại hội và cùng tham gia tích cực vào sứ vụ phúc âm hóa của Giáo hội”[13].
– CẨM NANG (VADEMECUM): Nói “có” với hiệp thông và nói “không” với chia rẽ:
“Để tất cả chúng nên một” (Ga 17,21). Đây là lời Chúa Giêsu thiết tha khẩn cầu Thiên Chúa Cha, để các môn đệ của Ngài được hiệp nhất với nhau. Chúa Thánh Thần dẫn đưa chúng ta đi sâu hơn vào mối hiệp thông với Thiên Chúa và với nhau. Những mầm mống chia rẽ sẽ chẳng mang lại hoa trái gì… Việc chống đối người khác hay cổ vũ những cuộc xung đột gây chia rẽ, đe dọa sự hiệp nhất và hiệp thông trong Hội thánh đều là những điều trái ngược với tinh thần hiệp hành”[14].
3. Hiệp thông: lựa chọn của Giáo Hội tại Việt Nam
Trên bình diện Giáo Hội địa phương, nhân dịp Giáo Hội tại Việt Nam mừng Năm Thánh 2010, kỷ niệm 350 thiết lập hai giáo phận Đàng Ngoài và Đàng Trong (1659 – 2009) và 50 năm thiết lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam (1960 – 2010), Hiệp thông cũng được Hội Đồng Giám Mục Việt Nam chọn lựa như những trọng tâm để sống và cử hành Năm Thánh qua hai văn kiện:
– Thư Công bố Năm Thánh 2010 của HĐGMVN: Xây dựng Giáo Hội theo mô hình Hiệp Thông:
“Trong Năm Thánh, chúng ta hãy cùng nhau xây dựng Giáo Hội theo mô hình Hiệp Thông và Tham Gia. Tự bản chất, Giáo Hội là hiệp thông, bắt nguồn từ chính mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúa Ba Ngôi vừa là suối nguồn vừa là mẫu mực và cùng đích của sự hiệp thông trong Giáo Hội.(…). Nhờ hiệp thông với Chúa, chúng ta được hiệp thông với nhau trong tình yêu và chân lý, được bày tỏ trọn vẹn nơi Chúa Kitô.(…). Cũng trong dòng chảy hiệp thông, chúng ta được mời gọi góp phần xây dựng trần thế…”[15].
– Diễn văn khai mạc Năm Thánh tại Sở Kiện ngày 24.11.2009 của Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Chủ tịch HĐGMVN: Hiệp thông, phong cách sống của người “Kitô hữu thứ thiệt”:
“Như thế, cử hành Năm Thánh 2010 mời gọi và thúc đẩy tất cả chúng ta cùng nhau xây dựng một Giáo Hội hiệp thông; một Giáo Hội trong đó mỗi người đồng cảm với Giáo Hội, vui niềm vui của Giáo Hội và đau nỗi đau của Giáo Hội; một Giáo Hội trong đó mỗi người cảm nhận mình được yêu thương chăm sóc, đồng thời có trách nhiệm chăm lo cho người khác cũng như cho ích chung của Giáo Hội. Đó chính là cách thể hiện tư cách người môn đệ chân chính của Chúa như Người đã truyền dạy: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12) và “Cứ dấu này người ta nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em yêu thương nhau” (Ga 13,35).”[16].
Riêng trên “bình diện cấp giáo phận”, Tổng Giáo phận Hà Nội đã chọn năm 2021 vừa qua làm năm “Sống tình hiệp thông” như được trình bày trong “Thư mục vụ hiệp thông 2021” của Đức Tổng Giuse Vũ Văn Thiên:
“Năm nay, năm 2021, chúng ta tiếp tục lộ trình nên thánh ở một góc độ khác, đó là sống tình hiệp thông. Năm Hiệp Thông khởi đầu vào Chúa nhật thứ nhất mùa Vọng. Nếu năm Nên thánh là tiền đề cho mỗi cá nhân để thánh hoá chính mình, thì Năm Hiệp Thông là động lực giúp chúng ta thánh hoá Gia đình, Hội đoàn, Giáo xứ, Giáo hạt và cả Tổng Giáo phận. Nền tảng của sự hiệp thông chính là sự liên kết nội tâm với Chúa. Nhờ mối liên kết này, người tín hữu xây dựng tình hiệp thông với tha nhân…”[17].
Nêu bật một vài “điểm dừng chân” để gọi là “ôn cố”, một điều không thể thiếu để tiến tới việc “tri tân” như người xưa đã xác lập như một “quy tắc”: “ôn cố tri tân”. Và bây giờ là lúc chúng ta đi vào trọng tâm của câu chuyện “một nền mục vụ hiệp thông”.
II. XÂY DỰNG MỘT NỀN MỤC VỤ HIỆP THÔNG
Kể từ sau Công Đồng Vatican II, một Công Đồng được mệnh danh là “Công Đồng mục vụ”, trong Giáo Hội đã xuất hiện nhiều dạng thức mục vụ:
– Để chăm sóc cộng đoàn về mặt cử hành và sống phụng vụ: Mục vụ phụng vụ.
– Để chăm sóc cộng đoàn (thuộc mọi đối tượng) về mặt giáo lý: Mục vụ huấn giáo.
– Để chăm sóc cộng đoàn về công tác truyền giáo: mục vụ truyền giáo.
– Để chăm sóc cộng đoàn về mặt giáo dân làm việc tông đồ: Mục vụ tông đồ giáo dân.
– Để hướng dẫn, phối trí, tổ chức cộng đoàn lo việc bác ái xã hội: Mục vụ bác ái xã hội.
– Để cộng đoàn quan tâm, hỗ trợ và nâng đỡ phát triển ơn gọi tu sĩ – linh mục: Mục vụ ơn gọi.
– Để chăm sóc mục vụ chuyên biệt cho giới trẻ: mục vụ giới trẻ.
– Để giúp các bạn trẻ chuẩn bị lập gia đình, sống tốt đời hôn nhân gia đình, giải gở rối ren đổ vỡ…: Mục vụ hôn nhân gia đình.
– Để vận dụng các phương tiện truyền thông vào việc sống đạo …: Mục vụ truyền thông….
Và như thế, để chăm sóc cộng đoàn ý thức và xây dựng mối giây hiệp thông trong nhịp sống đức tin, củng cố sự hiệp nhất, đương nhiên cần đến một nền mục vụ hiệp thông[18].
Thế nhưng, để xây dựng một nền “mục vụ hiệp thông”, thì tiên vàn, toàn thể cộng đoàn Dân Chúa đều ý thức, nắm bắt, xác tín… về ý nghĩa, giá trị và sự cần thiết của “hiệp thông”. Bởi vì như tục ngữ xưa nay: “Vô tri bất mộ”; hay như kiểu nói bình dân của một thời kháng chiến: “Tư tưởng không thông vác bình đông cũng nặng”.
Chính vì thế, bước đầu tiên để xây dựng một nền “mục vụ hiệp thông” đó là cùng nhau hiểu và xác tín nội dung ý nghĩa, ít ra là một cách khái quát, những điều cơ bản về “hiệp thông”. (Nếu ai muốn tìm nội dung và ý nghĩa “hiệp thông” mang tính hàn lâm nghiên cứu, có thể đọc bài khảo luận “Giáo Hội Hiệp Thông” của tác giả linh mục Phan Tấn Thành[19]; nếu chỉ để nắm bắt những điều giáo cơ bản mang tính mục vụ thì có thể đọc tài liệu “Sách Giáo lý Năm mục vụ Hiệp thông” của Tổng Giáo phận Hà Nội[20]).
Ở đây, xin được nêu lên một số điểm giáo cơ bản để Đại Hội và những ai có trách nhiệm tùy nghi điều nghiên sao cho phù hợp với chương trình mục vụ của năm hiệp thông 2023.
1. Cao cả thay “ân ban Hiệp Thông”: Ý thức “ân ban Hiệp thông” trên nền tảng Lời Chúa và Giáo huấn Giáo Hội (Giáo lý cơ bản về Hiệp Thông)
Thái độ đầu tiên khi nói đến hiệp thông đó chính là “Tạ ơn”. Không phải là một “lời cảm ơn xoàng xỉnh”, lấy được, cho có chuyện…, mà phải là một sự “ngỡ ngàng”, trân trọng trước hồng ân đặc biệt nầy: hồng ân liên quan đến Ba Ngôi Thiên Chúa mà Thánh Phaolô đã cảm nhận và nguyện cầu cho cộng đoàn Côrintô và hôm nay Giáo Hội tiếp tục làm sống lại mỗi lần họp nhau dâng Thánh lễ: “Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em” (2 Cr 13, 13).
Phải ngỡ ngàng tạ ơn vì những lý do sau:
1.1. Hiệp thông mang tính sống còn: kết hợp mật thiết với Đức Kitô như cành nho trong thân nho: Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được (Ga 15,5). Vâng, đây là sự hiệp thông “mang tính sống còn”; bởi vì, chúng ta không thể là Kitô hữu, là người theo đạo Kitô nếu không “hiệp thông” với chính Đức Kitô như “cành liền cây”. Nhưng cũng lưu ý: đây không phải là sự hiệp thông mang tính “chủ quan” thuộc về sự chọn lựa của con người như cái kiểu “thấy người sang bắt quàng làm họ”, nhưng là một ơn gọi, một chọn lựa, một ân ban của Thiên Chúa đến từ muôn thuở muôn đời, như lời thánh thi mở đầu trong bức thư của Thánh Phaolô gửi cộng đoàn Êphêsô: “Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người…” (Ep 1, 3-14). Xét cho cùng, nếu mỗi người Kitô hữu, trong mọi khoảnh khắc, đều sống và hành động, đều có hành vi, thái độ và tâm tình mang chiều kích “hiệp thông”, như cành nho trong thân nho”, thì tất cả đã trở nên thánh nhân ! (x. GH 10).
1.2. Hiệp thông mang tính “phẩm giá”: Nếu được hiệp thông với Đức Kitô như “cành nho trong than nho” là một sự hiệp thông mang tính sống còn, căn bản, thì người Kitô hữu còn mang một phẩm giá tuyệt vời khi được tháp nhập vào thân mình mầu nhiệm Đức Kitô với tư cách như một chi thể mà Đức Kitô chính là Đầu: “Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Ki-tô, và mỗi người là một bộ phận…” (1 Cr 12, 12-27). Với phẩm giá “hiệp thông trong Thân mình Đức Kitô” nầy, các Kitô hữu không ngừng được Chúa Thánh Thần thánh hóa, hướng dẫn và trang điểm không chỉ bằng các bí tích và nhân đức mà còn bằng các đặc sủng thích hợp cho từng “chi thể” (1 Cr 12, 7-11). (x. GH 12). Hỏi thử trên trần gian nầy có dân tộc nào, tổ chức nào, đảng phái nào, công ty nào… có thể làm cho con người những điều kỳ diệu đó, có thể ban những ơn trọng đại đó !
1.3. Hiệp thông mang niềm hy vọng vĩnh cửu: “tái sinh” để được “phục sinh” trong Đức Kitô nhờ bí tích Rửa tội: “Anh em không biết rằng: khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Ki-tô Giêsu, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao? Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới… (Rm 6, 1-11); và “ăn Bánh trường sinh” để nắm chắc “chiếc vé” vào tham dự bàn tiệc Nước Trời, hay “hiệp thông Thánh Thể” để sống đời đời:
“Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.” (Ga 6, 54-58). (x. GH 7, 10).
1.4. Hiệp thông mang tính “đáp trả và trách nhiệm”: ân ban hiệp thông không là một “của bắt được”, một “quà tặng cho không” để hưởng lợi cách ích kỷ mà là “ân ban để sinh hoa kết trái”: “Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi” (Ga 15, 2). Hiến chế Giáo Hội của Công Đồng Vatican II đã khẳng quyết:
“Tuy nhiên, người nào, dù đã gia nhập Giáo Hội, nhưng vì không kiên trì sống trong đức ái, nên chỉ ở trong Giáo Hội theo “thể xác” chứ không phải với “tâm hồn”, thì vẫn không được cứu độ. Tất cả những người con của Giáo Hội phải nhớ rằng địa vị cao trọng họ có được không phải do công trạng riêng mình, nhưng do ân sủng đặc biệt của Đức Kitô; nếu không đáp lại ân sủng ấy bằng tư tưởng, lời nói và việc làm, thì thay vì được cứu độ, họ sẽ bị xét xử nghiêm khắc hơn” (GH 14).
2. Sống “ân ban Hiệp thông”: Hoán cải – Xây dựng
Một khi ý thức được “ân ban hiệp thông” cao quý như thế nào thì thái độ đầu tiên của chúng ta là cùng nhau hoán cải trước bao nhiêu lần, bao nhiêu cách đã sống, đã hành xử ngược lại với tính hiệp thông, thậm chí, phá đổ sự hiệp thông, hoặc trên bình diện cá nhân (đời sống thiêng liêng trong tương quan mỗi người với Chúa…), hoặc trên bình diện cộng đoàn, Giáo Hội (đời sống tương quan mỗi người với mọi người, cộng đoàn với cộng đoàn…).
2.1. Hoán cải mục vụ trên nền tảng hiệp thông
– Ưu tiên hoán cải nội tâm: Chỉ có thể xây dựng một nền “mục vụ hiệp thông” khi mọi thành phần Dân Chúa bắt đầu cuộc “hoán cải nội tâm”:
“Không thể có việc đại kết đích thực mà không có hoán cải nội tâm. Thật vậy, những ước vọng hợp nhất khởi phát và thành tựu nhờ sự đổi mới tâm hồn, từ bỏ chính mình và quảng đại thực thi bác ái. Vì thế, cần phải cầu xin Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta ơn biết thành thật từ bỏ, khiêm nhường và hiền hòa trong khi phục vụ, quảng đại trong tình huynh đệ đối với tha nhân. Vị Tông Đồ dân ngoại đã nói: “Đang bị xiềng xích trong Chúa, tôi khuyên anh em hãy tiến bước cho xứng với ơn kêu gọi anh em đã được, với tất cả lòng khiêm nhường và hiền hậu, hãy nhẫn nại chịu đựng lẫn nhau trong đức ái; hãy lo lắng duy trì sự hợp nhất của Chúa Thánh Thần trong mối dây hòa thuận” (Ep 4,1-3) (Sắc lệnh về Đại Kết số 7). (x. Tông huấn Hòa giải và Sám Hối của ĐGH Gioan Phaolô II)[21].
– Các cá nhân cần hoán cải: Linh mục, tu sĩ, các thành phần giáo dân… : can đảm và trung thực nhìn nhận cách sống, hành xử phá đổ sự hiệp thông, hiệp nhất (óc giáo sĩ trị, não trạng phe nhóm, cục bộ, cá nhân chủ nghĩa, tâm thức hãnh tiến kiêu căng…). Cần đọc lại các gợi ý hoán cải của Thượng Hội đồng Giám mục XVI trong VADEMECUM:
– Sẵn sàng hoán cải và thay đổi: Thông thường, chúng ta có thể kháng cự những gì Chúa Thánh Thần đang cố gắng thôi thúc chúng ta đảm nhiệm. Chúng ta được kêu gọi từ bỏ những thái độ tự mãn và an phận khiến chúng ta đưa ra những quyết định chỉ dựa vào những cách thức hoạt động xưa cũ.
– Loại bỏ các thành kiến và khuôn mẫu sẵn: Chúng ta có thể bị trì trệ bởi những yếu đuối và tội lỗi của mình. Bước đầu tiên để lắng nghe là giải phóng trí óc và con tim khỏi những thiên kiến và khuôn mẫu dẫn vào đường lầm, đưa đến u mê và chia rẽ.
– Vượt khỏi thói giáo sĩ trị: … Tính hiệp hành mời gọi các mục tử chăm chú lắng nghe đoàn chiên được giao cho mình chăm sóc, cũng như mời gọi giáo dân tự do và trung thực diễn tả quan điểm của mình. Mọi người lắng nghe nhau vì tình yêu, trong tinh thần hiệp thông và sứ vụ chung của chúng ta. Như thế quyền năng Chúa Thánh Thần được biểu lộ muôn vàn cách trong và qua toàn thể Dân Chúa.
– Chữa trị virus tự mãn: … Bỏ đi thói ảo tưởng tự mãn, chúng ta mới có thể học hỏi lẫn nhau, đồng hành với nhau và phục vụ lẫn nhau. Chúng ta có thể xây những nhịp cầu bắc qua những bức tường đôi khi đe dọa ngăn cách chúng ta, như tuổi tác, giới tính, giàu nghèo, năng lực, giáo dục, v.v… (VADEMECUM 2.3)
– Các cộng đoàn cần hoán cải: Cộng đoàn giáo xứ, giáo họ biệt lập, các cộng đoàn tu trì, ca đoàn, Hội đồng giáo xứ, Giáo lý viên, các hội đoàn (Legio Mariae, Mến Thánh Giá Tại Thế…): Khiêm hạ và mạnh mẽ nhận ra: tình trạng chia rẽ, tranh chấp, thái độ khép kín với vỏ bọc an toàn, tự sướng với bề ngoài ngăn nắp, ổn định, trật tự… mà thiếu tinh thần thuận hòa, bao dung, cởi mở, cầu tiến, “đi ra”, canh tân theo các chỉ dẫn của Tin Mừng, của đoàn sủng…:
“Một số thậm chí không còn bằng lòng sống như một phần tử của cộng đồng Hội Thánh rộng lớn hơn nhưng phát triển một tinh thần loại trừ, tạo ra một “phe nhóm nội bộ”. Thay vì thuộc về một Hội Thánh toàn thể trong tất cả sự đa dạng, họ thuộc về nhóm này hay nhóm nọ, nghĩ rằng mình thì khác hay đặc biệt…” (EG 98)
2.2. Xây dựng nền “mục vụ hiệp thông”
– Xây dựng cộng đoàn “Hiệp thông nhân bản”: Cảm thức “thuộc về”, liên đới, chấp nhận khác biệt, tinh thần làm việc chung…:
“Để có được mối tương giao tốt đẹp, cần phải phát huy các giá trị nhân bản đích thực, nhất là cách sống chung trong tình huynh đệ, biết cộng tác và đối thoại với mọi người.” (Sắc lệnh Tông Đồ giáo dân số 29).
– Xây dựng cộng đoàn “Hiệp thông Lời Chúa”: Hiểu biết và tiếp cận Lời Chúa (học hỏi Kinh Thánh), sống và thực hành Lời Chúa (Đọc, lắng nghe, cầu nguyện, áp dụng…) là con đường,là phương thế tối hảo để xây dựng sự hiệp thông:
“Kinh Thánh là cuốn sách của dân Chúa, mà trong khi lắng nghe, họ vượt qua được sự phân tán và sự chia rẽ để tiến tới sự hiệp nhất. Lời Chúa hiệp nhất các tín hữu và làm cho họ trở thành một dân duy nhất.”[22].
– Xây dựng cộng đoàn “Hiệp thông Phụng vụ”: Nhờ Phụng vụ và qua Phụng vụ chúng ta được hiệp thông với Thiên Chúa, được gặp gỡ Đức Kitô… Một cộng đoàn cử hành Phụng vụ sốt sắng, nghiêm túc, chỉnh chu… sẽ là một cộng đoàn hiệp thông trọn hảo:
“Nhập thể, không chỉ là sự kiện mới mẻ duy nhất trong lịch sử, nhưng còn là cách thức được Thiên Chúa Ba Ngôi chọn để mở ra con đường hiệp thông. Đức tin Kitô giáo là cuộc gặp gỡ Đức Kitô hằng sống, nếu không, đó không phải là đức tin.
Phụng vụ bảo đảm cho chúng ta có được cuộc gặp gỡ đó. Một ký ức trống rỗng về Bữa Tiệc Ly sẽ chẳng ích gì cho chúng ta. Chúng ta cần hiện diện trong bữa ăn này, để có thể nghe Lời Chúa, để ăn Mình và uống Máu Người. Chúng ta cần Người. Trong bí tích Thánh Thể và trong tất cả các bí tích, chúng ta chắc chắn có thể gặp gỡ Chúa Giêsu và cảm nhận được quyền năng của mầu nhiệm Vượt Qua”[23].
– Xây dựng cộng đoàn “Hiệp thông bác ái”: Chỉ thực sự là một “cộng đoàn hiệp thông” khi toàn thể cộng đoàn sống tình bác ái huynh đệ, dấn thân phục vụ mọi người, sẵn sàng biết mở lòng nhạy cảm trước nỗi đau của đồng loại và sẵn sàng cúi xuống “rửa chân” cho những người bất hạnh:
“Không hề là chuyện nhỏ khi thánh Phaolô khuyến khích các môn đệ của ngài sống tình yêu thương “đối với nhau và đối với mọi người” (1 Tx 3,12) vì nhận thấy rằng các cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi đang bị cám dỗ muốn hình thành các nhóm khép kín và tách biệt. Cũng vậy, cộng đoàn của thánh Gioan được yêu cầu phải đón tiếp các anh em khác “dù họ là những người xa lạ” (3 Ga 5). Bối cảnh này giúp chúng ta hiểu rõ hơn ý nghĩa của dụ ngôn người Samari nhân hậu: tình yêu không phân biệt người anh em khốn khó đến từ nơi này hay nơi kia. Bởi vì “tình yêu phá tan xiềng xích trói buộc khiến chúng ta bị cô lập và chia rẽ để từ đó xây nên những nhịp cầu. Tình yêu giúp chúng ta làm nên một đại gia đình, nơi ai cũng cảm thấy như ở nhà mình… Tình yêu ứa trào lòng thương xót và phẩm giá”[24].
– Xây dựng cộng đoàn “Hiệp thông sứ vụ” (Truyền giáo): Một cộng đoàn nhiệt thành dấn thân cho công cuộc truyền giáo sẽ làm chứng tích cực về bản chất thánh thiện, duy nhất của Giáo Hội; và đồng thời củng cố mối giây hiệp thông trong cộng đoàn:
“Như thế, rõ ràng là hoạt động truyền giáo gắn liền mật thiết với bản chất của Giáo Hội, hoạt động đó … mở rộng để đưa đến thành toàn sự hợp nhất mang tính công giáo, được nâng đỡ bởi tính cách tông truyền, thể hiện ý nghĩa cộng đoàn của hàng Giáo phẩm, làm chứng, truyền đạt và làm tăng triển sự thánh thiện của Giáo Hội. (…). Do đó, vì sứ mệnh truyền giáo đòi hỏi, tất cả những ai đã chịu phép Rửa Tội đều được kêu gọi quy tụ vào một đoàn chiên duy nhất, và như thế họ có thể cùng nhau làm chứng về Chúa Kitô, Chúa của họ, trước mặt muôn dân…” (Sắc lệnh Truyền Giáo số 6).
3. Củng cố và phát triển sự Hiệp thông (Nghệ thuật chăm sóc mục vụ hiệp thông)
3.1. Đào tạo những “con người hiệp thông”: Đào tạo chủng sinh, tu sĩ, giáo lý viên, chức việc, các hội đoàn… Không thể xây dựng được một “nền mục vụ hiệp thông” khi không có những “chuyên viên hiệp thông”, như cách Đức Giáo Hoàng Phanxicô gọi mời các tu sĩ trong “Năm đời sống thánh hiến”:
“Các tu sĩ và những người tận hiến được mời gọi trở nên những “chuyên viên hiệp thông.” Vì thế tôi mong rằng “linh đạo hiệp thông” mà thánh Gioan Phaolô II đã chỉ ra, sẽ trở thành thực tại, và anh chị em sẽ là những người đầu tiên đón nhận “sự thách đố lớn lao ở trước mặt” trong ngàn năm mới: “làm cho Giáo hội là ngôi nhà và trường học của hiệp thông.”[25].
3.2. Tìm kiếm và quy tụ các thành phần, đối tượng đang ở ngoài “mạng lưới hiệp thông”: khô đạo, rối đạo, nghèo túng, dự tòng – tân tòng, công nhân, giới trẻ, người di cư, các bệnh nhân… để trở thành một đàn chiên duy nhất. Giáo phận Qui Nhơn, cho tới năm 2022 nầy, con số giáo dân chỉ có 77.334 trên tổng số dân của 3 tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên là 4.863.000. Nhưng thử hỏi, trong số 77 ngàn tín hữu đó, thật sự là những người hiệp thông trọn vẹn với Chúa Kitô, với Giáo Hội… được bao nhiêu? Vì thế, những người rối đạo, lơ đạo, chối đạo, bỏ đạo… cùng với hơn 4 triệu anh em ngoại đạo… tất cả họ đều phải được trở về hiệp thông với Chúa, hiệp thông trong đức tin và hiệp thông với Giáo Hội. Đây không bao giờ là “chuyện nhỏ” mà phải là ưu tiên hàng đầu của chúng ta, như “dự phóng mục vụ” ngày nào của Chúa Giêsu: “Tôi còn những chiên khác không thuộc ràn nầy. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử” (Ga 10, 16); cũng là lý tưởng, là mục tiêu mà Giáo Hội phải đạt tới như khẳng định của Lumen Gentium:
“tuy chưa thực sự bao gồm toàn thể nhân loại và thậm chí chỉ là một đoàn chiên nhỏ, lại chính là hạt mầm đầy năng lực của sự hợp nhất, của niềm hy vọng và ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại.” (GH số 9).
3.3. Vận dụng các phương tiện truyền thông để phục vụ sự hiệp thông: định hướng tốt, cung ứng đầy đủ các dữ liệu, thông tin, sách báo… tốt lành, thiện ích; vận dụng đúng và thích hợp công cụ truyền thông vào các lãnh vực văn hóa, giáo dục – đào tạo, giáo lý, phụng vụ… Tuy nhiên, phương thế trần gian nào cũng có hai mặt tích cực và tiêu cực. Trong Thư chung tháng 10/2022 vừa qua, HĐGMVN đã lưu ý:
“Người tín hữu cần tiếp cận và sử dụng các phương tiện truyền thông để hoà nhập với thế giới hiện đại, trau dồi kiến thức và học hỏi Lời Chúa… Truyền thông phải là phương tiện kết nối con người trong tình thân nghĩa, chứ không phải để gieo rắc hoang mang chia rẽ, thậm chí gây thù hận và đẩy người khác đến đường cùng.”
3.4. Mở rộng các “chân trời hiệp thông”:
– Trân trọng và bảo tồn di sản văn hóa, truyền thống của quá khứ (Hiệp thông văn hóa):
“Bởi vậy, bất cứ điều gì tốt đẹp đã được gieo vãi trong tâm trí con người, hay trong những nghi lễ và văn hoá riêng của các dân tộc, sẽ không bị hủy bỏ, nhưng được chữa lành, thăng tiến và hoàn thiện để Thiên Chúa được tôn vinh, ma quỷ phải nhục nhã và con người được hạnh phúc” (TG số 9).
– Bảo vệ môi sinh (Hiệp thông với thiên nhiên):
“Mọi vật được tạo dựng trên thế giới này đều phải lệ thuộc: “Lạy Chúa Tể là Đấng yêu sự sống, vì mọi loài đều là của Chúa” (Kn 11,26). Đây là nền tảng cho xác tín của chúng ta, như một phần của vũ trụ, được Chúa Cha mời gọi đi vào trong hiện hữu, tất cả chúng ta được liên kết bởi những mối dây liên kết vô hình và cùng nhau tạo nên một gia đình đại đồng, một sự hiệp thông cao cả thúc đẩy trong chúng ta sự tôn trọng thánh thiêng, yêu thương và khiêm tốn.” (Laudato Sí số 89).
– Cởi mở và hợp tác xây dựng xã hội (Hiệp thông trong tương quan xã hội, chính trị):
“Sau hết, tình yêu thúc đẩy chúng ta hiệp thông với hết mọi người. Không ai có thể trưởng thành và đạt tới mức thành toàn khi sống tách biệt người khác. Bởi tính năng động của nó, tình yêu đòi ngày một mở rộng, ngày càng có khả năng đón nhận người khác, bằng cách thực hiện một cuộc phiêu lưu không ngừng nghỉ làm cho tất cả các vùng ngoại vi cùng hướng đến cảm thức thật sự thuộc về nhau. Như Đức Giêsu đã nói với chúng ta: “Tất cả anh em đều là anh em với nhau”(Mt 23,8) (Fratelli Tutti số 95)….
4. Để toàn thể giáo phận tập chú vào chủ đề Hiệp Thông
4.1. Cầu nguyện cho chương trình “mục vụ hiệp thông”: Đọc Kinh cầu nguyện cho Thượng Hội Đồng (Adsumus Sancte Spiritus[26]) xuyên suốt trong thời gian Thượng Hội Đồng cho tới khi kết thúc như khuyến dụ của Thượng Hội Đồng:
“Đối với hành trình Hiệp hành từ năm 2021 đến 2023, chúng tôi đề nghị lời kinh được đơn giản hóa sau đây, để bất kỳ nhóm nào hay cộng đoàn phụng vụ nào cũng có thể nguyện kinh dễ dàng hơn.” (VADEMECUM).
Các cộng đoàn, Dòng tu, hội đoàn, đoàn thể… có thể lựa chọn các hình thức cầu nguyện khác tùy sáng kiến…
4.2. Để tập trung và gây chú ý thường xuyên cho cộng đoàn về chương trình “mục vụ hiệp thông” cần có:
– Một chủ đề (như một khẩu hiệu) để tóm kết và tập trung nội dung ý nghĩa và đường lối hoạt động. Xin được đề nghi chủ đề “MỘT CÂY NHO MỘT THÂN MÌNH” (Ga 15,5; 1 Cr 12,27).
– Một “bài ca chủ đề”: đề nghị bài ca: TRONG MỘT THÂN NHO”
KẾT: HIỆP THÔNG CHÍNH LÀ ĐÂY !
Trước khi khép lại câu chuyện chia sẻ hôm nay, tôi có thể mạnh dạn xác nhận: mục vụ hiệp thông chính là đây; chính là cuộc Đại hội Hội đồng Mục vụ của Giáo phận Qui Nhơn hôm nay. Bởi vì đây chính là khẳng định của Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới lần thứ XVI trong tài liệu “Cẩm Nang cho Thượng hội đồng về tính hiệp hành”:
“Nhờ Bí tích Rửa tội, tất cả chúng ta đều được mời gọi tham gia tích cực vào đời sống của Giáo hội. Trong các giáo xứ, các cộng đồng Kitô hữu nhỏ, các phong trào giáo dân, các cộng đoàn tu trì, và các hình thức hiệp thông khác, nam nữ, trẻ già, tất cả chúng ta được mời gọi lắng nghe nhau để nhận ra sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, Ngài đến để hướng dẫn những nỗ lực nhân loại của chúng ta, thổi sinh khí vào Hội thánh và dẫn chúng ta vào sự hiệp thông sâu xa hơn cho sứ mạng của chúng ta trong thế giới”[27].
Tuy nhiên, mọi người chúng ta ở đây đều là những kẻ yếu đuối và tội lỗi, chính vì thế, chúng ta không cậy dựa vào sức riêng, vào sự thông minh con người hay lý lẽ trần tục, mà hãy như cách của VADEMECUM:
“Được soi sáng bởi Lời Chúa và hiệp nhất trong lời cầu nguyện, chúng ta sẽ có thể phân định các diễn trình để tìm kiếm thánh ý Chúa và theo đuổi các con đường mà Thiên Chúa kêu gọi chúng ta – hướng tới sự hiệp thông sâu sắc hơn, tham gia đầy đủ hơn và với tinh thần cởi mở hơn để hoàn thành sứ mạng của mình trong thế giới.” (VADEMECUM 1,2).
(Bài được tác giả gửi đến Ban Biên Tập tại địa chỉ email [email protected])
[1] Chỉ trong Phụng vụ Thánh Lễ thôi, từ “Amen” được đọc, tung hô nhiều lần; nhất là khi mỗi người lên rước lễ, đều đáp “Amen” trước khi đón nhận Mình Thánh Chúa.
[2] ĐGH GIOAN PHAOLÔ II, Tông Thư Novo Millennio Inuente (Khởi Đầu Thiên Niên Kỷ Mới), Ban hành ngày 06-01-2001, Bắt đầu thiên niên kỷ mới và khi kết thúc Năm Đại Toàn Xá 2000, số 45: “linh đạo hiệp thông, nhờ thúc giục một sự tín cẩn và cởi mở hoàn toàn phù hợp với phẩm giá và trọng trách của mỗi thành phần Dân Chúa, làm cho thực tại cơ chế có một linh hồn.”
[3] VADEMECUM, 1.3 Mục đích Thượng Hội đồng này nhắm đến. Các mục tiêu của tiến trình hiệp hành.
[4] Sđd, Các từ then chốt dành cho tiến trình hiệp hành.
[5] ĐGH GIOAN PHAOLÔ II, Tông thư Tertio millennio adveniente (Ngàn năm thứ ba đang đến), Ban hành ngày 10-11-1994, Về việc Giáo Hội Công Giáo sửa soạn mừng Đại Năm Thánh 2000, số 34.
[6] ĐGH GIOAN PHAOLÔ II, Tông Thư Novo Millennio Inuente (Khởi Đầu Thiên Niên Kỷ Mới), sđd, số 43.
[7] Thông điệp “Hội Thánh sống nhờ Thánh Thể” (Ecclesia de Eucharistia) được ĐGH Gioan Phaolô II ban hành ngày 17.4.2003.
[8] ĐGH BÊNÊDICTÔ XVI, Tông huấn Sacramentum Caritatis (Bí tích Tình yêu), Bí Tích Thánh Thể và sự hiệp thong trong Hội Thánh, số 15.
[9] Id., Tông huấn Verbum Domini (Lời Chúa), số 46.
[10] ĐGH PHANXICÔ, Tông huấn Evangelii Gaudium (Niềm vui của Tin Mừng), số 99.
[11] Id., Tông huấn Amoris Laetitia (Niềm vui của tình yêu), số 315-316.
[12] Id., Tông huấn Christus vivit (Đức Kitô đang sống), số 167.
[13] TÀI LIỆU CHUẨN BỊ, II. Một Hội Thánh hiệp hành từ nền tảng, số 10, tr. 13.
[14] VADEMECUM, 2.4 Các cạm bẫy cần tránh, 7,8.
[15] HĐGMVN, Thư Công bố Năm Thánh 2010, Ban hành ngày 9.10.2009, số 3,4,5.
[16] ĐGM PHÊRÔ NGUYỄN VĂN NHƠN, Diễn văn Khai mạc Năm Thánh 2010, số 3.
[17] GIUSE VŨ VĂN THIÊN, TỔNG GIÁM MỤC HÀ NỘI, Thư mục vụ hiệp thông 2021, https://www.tonggiaophanhanoi.org/tu-lieu/thu-muc-vu/18907-thu-muc-vu-nam-hiep-thong.html
[18] GIUSE VŨ VĂN THIÊN, TỔNG GIÁM MỤC HÀ NỘI, Lời Giới thiệu Sách Giáo lý Năm mục vụ hiệp thông 2020-2021: “Định hướng mục vụ cho năm 2021 là sống tình hiệp thông. Hiệp thông với Chúa giúp chúng ta được thần linh hoá và nên giống Ngài. Hiệp thông với anh chị em làm nên vẻ đẹp của đời sống Kitô hữu. Tình hiệp thông nối kết chúng ta thành gia đình của Thiên Chúa, để giới thiệu một hình ảnh tuyệt vời về Giáo Hội với bốn đặc tính: Duy nhất, Thánh thiện, Công giáo và Tông truyền. Hiệp thông cùng làm nên sức mạnh, làm lan toả sự thánh thiện và tình yêu thương.”, website https://www.tonggiaophanhanoi.org/sach-giao-ly-nam-muc-vu-hiep-thong-2020-2021/
[19] PHAN TẤN THÀNH, Giáo Hội hiệp thông, website https://catechesis.net/giao-hoi-hiep-thong/ , đăng ngày 17/9/2020.
[20] Website SÁCH GIÁO LÝ NĂM MỤC VỤ HIỆP THÔNG 2020 – 2021 | Tổng Giáo Phận Hà Nội, https://www.tonggiaophanhanoi.org/sach-giao-ly-nam-muc-vu-hiep-thong-2020-2021/
[21] ĐGH GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Hòa giải và Sám Hối (Reconciliatio et Paenitentia), số 4: “… sám hối trong ngôn ngữ thần học và tu Đức Kitô giáo, có nghĩa là khổ chế, nghĩa là một nỗ lực cụ thể và thường ngày của một người, nhờ ân sủng của Thiên Chúa trợ giúp, nhằm từ bỏ mạng sống mình vì Đức Kitô, như là phương thế duy nhất để lấy lại nó; một nỗ lực lột bỏ con người cũ mặc lấy con người mới; một nỗ lực nhằm khắc phục nơi chính mình những gì thuộc về xác thịt để cho những gì thuộc thần khí có thể vượt thắng; một nỗ lực liên tục nhằm vươn lên từ những gì thuộc hạ giới để tới những gì thuộc thượng giới nơi Đức Kitô đang ngự trị. Như thế sám hối là sự hoán cải di chuyển từ con tim đến hành động, và sau cùng tới toàn thể đời sống người Kitô hữu.”
[22] ĐGH PHANXICÔ, Tự sắc Aperuit Illis (Thiết lập Chúa Nhật Lời Chúa), số 4
[23] Id., Tông thư Desiderio Desideravi (Về đào tạo phụng vụ cho Dân Thiên Chúa), số 10-11.
[24] Id., Thông điệp Fratelli Tutti (Về tình huynh đệ và tình bằng hữu xa hội), số 62.
[25] ĐGH PHANXICÔ, Tông thư gửi tất cả các người thánh hiến dịp cử hành năm của đời sống thánh hiến, mục tiêu thứ hai.
[26] Kinh Adsumus Sancte Spiritus:
Lạy Chúa Thánh Thần,
này chúng con đến trước nhan Chúa,
khi cùng nhau tụ họp nhân danh Chúa.
Chỉ có Chúa là Đấng hướng dẫn chúng con,
xin hãy ngự trị trong tâm hồn chúng con;
xin dạy chúng con lối đường phải đi
và cách bước đi trên lối đường đó.
Chúng con yếu đuối và tội lỗi,
xin đừng để chúng con gây xáo trộn.
Đừng để chúng con u mê sa nẻo đường lầm
cũng đừng để chúng con làm theo thiên kiến.
Xin giúp chúng con tìm thấy nơi Chúa sự hiệp thông giữa chúng con
để chúng con có thể cùng tiến đến cuộc sống vĩnh cửu
và không lạc xa khỏi con đường chân lý và ngay thật.
Chúng con cầu xin Chúa,
là Đấng hoạt động mọi nơi mọi thời,
trong sự thông hiệp với Chúa Cha và Chúa Con,
mãi mãi đến muôn đời. Amen.
[27] VADEMECUM, 1.2 Hiệp hành là gì ? Bối cảnh cho Thượng hội đồng nầy.