2023
Sống trung thành trong giao ước hôn nhân
Sống trung thành trong giao ước hôn nhân
GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO
Bài 72: SỐNG TRUNG THÀNH TRONG GIAO ƯỚC HÔN NHÂN
Giuse Lê Đắc Thắng, SJ
Hỏi: Thời đại nay nhiều vợ chồng dễ dàng bỏ nhau, ly thân hoặc ly dị. Lời hứa trước mặt Chúa thuở ban đầu đã không đủ mạnh để họ chung thủy với nhau. Xin hỏi chúng ta làm cách nào để vợ chồng có thể trung thành với nhau trước mặt Chúa?
Trả lời:
Bạn thân mến,
Nếu bạn là người đang chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân thì hẳn đây là mối bận tâm lớn nhất đối với bạn trong lúc này. Bạn cảm thấy hoang mang vì thấy nhiều người đi trước đã không có được một cuộc hôn nhân trọn vẹn như mơ ước, và rồi không biết đến lượt bạn sẽ như thế nào. Bạn không biết liệu mình có thể sống trung thành trọn đời với một người hay không; mà cho dù bạn giữ lời cam kết thì vẫn không dám chắc người kia có chung thủy với mình hay không. Dường như đầy những bất trắc đang chờ chực phá hoại cuộc sống hôn nhân tương lai của bạn.
Là một người Công giáo, bạn càng có lý do để lo sợ nhiều hơn, vì hôn nhân của bạn được đóng ấn bởi bí tích hôn phối, bất khả phân ly theo luật Giáo hội. Khi hai người tuyên xưng tình yêu của mình trước mặt Thiên Chúa và Giáo hội, họ cam kết sẽ sống trung thành với nhau cho đến trọn đời. Thế nhưng thực tế như bạn thấy, nhiều người Công giáo đã không thể chu toàn lời hứa của họ. Chắc chắn bạn không muốn mình phải lâm vào hoàn cảnh giống như họ, vì thế bạn luôn thao thức làm cách nào để lời thề hứa chung thủy trong hôn nhân được thực hiện trọn vẹn trước mặt Chúa. Tôi nghĩ rằng đó không chỉ là mối bận tâm của riêng bạn mà còn là của những người Công giáo nói chung. Tôi muốn được chia sẻ với bạn đôi điều về vấn đề này.
Trước hết, việc bạn đặt vấn đề về sự chung thủy chứng tỏ bạn rất nghiêm túc và có trách nhiệm với đời sống hôn nhân của mình. Đây là nền tảng cần thiết cho đời sống gia đình. Chỉ khi nào bạn thực sự quan tâm đến một giá trị nào đó thì bạn mới cố gắng tập trung vun đắp xây dựng nó. Trong hôn nhân cũng vậy, nếu bạn đề cao sự chung thủy thì chắc chắn bạn sẽ đặt “chế độ ưu tiên” và tìm mọi cách để bảo vệ nó trong bất cứ hoàn cảnh nào. Theo lẽ thường thì hầu hết mọi người đều hướng đến sự chung thủy trong đời sống hôn nhân. Tôi không nghĩ rằng có một người nào đó tiến tới hôn nhân lại giả định rằng nó sẽ sớm kết thúc hay để mặc tới đâu thì tới!
Tuy nhiên, ý muốn chung thủy chỉ trở thành hiện thực khi vợ chồng cùng vun đắp xây dựng chứ không thể tự nhiên mà có được. Sự chung thủy không phải là một phép mầu được ban một lần qua lời hứa trong ngày lễ hôn phối và có hiệu ứng trong suốt phần còn lại của đời sống vợ chồng. Trái lại, nó là hạt giống cần được tưới tắm, che chở, bảo vệ trước mưa gió và nắng nôi của cuộc đời để có thể dần dần lớn lên thành cây to cứng cáp và đơm hoa kết quả. Hứa một lần, sống cả đời! Khi bạn muốn một cuộc hôn nhân trọn vẹn, bạn cũng hãy sẵn sàng đóng góp công sức đầu tư xây dựng nó trong suốt cuộc đời bạn.
Hôn nhân phải bắt đầu từ khâu chuẩn bị và tiếp tục kéo dài trong suốt thời gian vợ chồng chung sống với nhau. Trong nghi thức hôn phối, trước khi hai người bạn đời nói lên lời ưng thuận với nhau trước mặt Chúa và Giáo hội, họ tuyên xưng rõ ràng rằng họ “tự do đến với nhau chứ không bị ép buộc.” Tự do không chỉ là không có bất cứ sự ép buộc nào từ bên ngoài mà còn là tự do với chính mình. Tự do với chính mình nghĩa là mỗi bên đã dành đủ thời gian tìm hiểu bên kia, ý thức rõ những điều kiện hai bên cần có để có sống hòa hợp với nhau. Một khi đã nói lên lời ưng thuận rồi thì mỗi bên phải hoàn toàn chịu trách nhiệm với quyết định của mình.
Do đó, để được tự do đến với nhau, đôi bạn cần phải trải qua một thời gian tìm hiểu, cân nhắc kỹ càng về gia thế, công việc và tính cách của nhau. Thời gian tìm hiểu đòi hỏi sự chân thành từ cả hai phía, phát xuất từ thái độ cởi mở và tin tưởng lẫn nhau. Nếu một bên nào đó nghĩ rằng đây chỉ là thời gian để “lấy le” hay thậm chí là “lừa lọc” nhau bằng cách phô diễn những hành vi giả tạo, hoặc dùng tiền của, thậm chí là xác thịt, để lôi cuốn người kia thì sớm muộn gì cuộc hôn nhân đó nếu có cũng sẽ tan thành mây khói, bởi vì ngay từ đầu hai bên đã mất tự do khi đến với nhau.
Sự tự do gắn liền với trách nhiệm của mỗi người khi đưa ra quyết định của mình. Có những cặp vợ chồng sau khi về chung sống với nhau một thời gian thì quyết định chia tay với một lý do đơn giản là hai bên “không hợp nhau.” Có phải đến lúc đó họ mới nhận ra hai bên “không hợp nhau” hay không? Tôi không tin rằng tính cách một người nào đó có thể thay đổi hoàn toàn sau vài năm kết hôn. Nếu như nơi một người có điểm nào đó không thể chấp nhận được thì chắc chắn điều nó đã được biểu hiện manh nha trong thời gian tìm hiểu trước đó rồi. Vấn đề là trong khi tìm hiểu, dù hai người đã biết “thói hư tật xấu” của nhau nhưng vì tình yêu nên họ vui lòng đón nhận và sẵn sàng bổ túc cho nhau. Do đó, nếu một người lấy lý do là người kia thay đổi khiến họ không thể chấp nhận được thì sự thật đôi khi là người kia không hề thay đổi, chỉ có khả năng đón nhận hay tình yêu của họ dành cho người kia là thay đổi mà thôi.
Để tránh phải hối hận muộn màng, tôi khuyên bạn đừng chọn bạn đời theo kiểu “cố đấm ăn xôi,” ví dụ như dù không thích tính em lẳng lơ nhưng vì em đẹp, hoặc là không chịu nổi anh cộc tính nhưng vì nhà anh giàu. Bạn nên hiểu rằng đến một lúc nào đó “xôi” sẽ không còn ngon lành như trước, và lúc ấy bạn cũng không còn đủ sức hay không muốn chịu “đấm” nữa. Bởi vậy ngay từ đầu bạn hãy thành thật với chính mình và khôn ngoan sáng suốt khi chọn lựa bạn đời. Giữa những thang giá trị khác nhau thì bạn phải biết nên dành ưu tiên cho giá trị nào.
Bạn phải xác định trước tính cách nào có thể chấp nhận được, còn tính cách nào khiến hai bên không thể sống với nhau. Tìm hiểu là do bạn, quyết định là ở bạn, và đó là cuộc đời bạn chứ không phải của bất cứ người nào khác. Như thế, trong thời gian tìm hiểu, và đặc biệt là khi nói lên lời ưng thuận của mình, bạn phải chịu trách nhiệm với quyết định của mình trong việc đón nhận không những điểm tốt mà cả điểm chưa tốt của người kia, không chỉ trong ngày lễ hôn phối mà còn trong suốt cả đời bạn.
Vì thời gian tìm hiểu là cực kỳ quan trọng, giống như việc đổ nền móng để xây dựng tòa nhà hôn nhân sau này nên đòi hỏi cả hai bên phải đầu tư nghiêm túc. Nhiều nơi khuyến khích đôi bạn nên trải qua các kỳ kiểm tra tâm lý để chuẩn bị tốt cho việc chung sống với nhau về sau. Thậm chí có nơi còn bắt buộc các cặp vợ chồng tương lai phải xét nghiệm bệnh lý, tránh trường hợp có những căn bệnh lây lan.
Ông bà mình ngày xưa dù không tìm hiểu nhau một cách trực tiếp và không có kiểm tra tâm lý hay thể lý gì cả, nhưng thực ra gia đình hai bên đã dòm ngó và có thể nói là đã dò xét nhau rất kỹ, không chỉ về đương sự mà còn cả tông ti họ hàng bên kia nữa. Yếu tố làm nên hạnh phúc của những đôi bạn được “sắp đặt” như vậy không chỉ là sự chuẩn bị lâu dài từ hai bên gia đình mà quan trọng hơn, đó là hai người sẵn sàng đón nhận nhau trong yêu thương và cả trong đức tin nữa.
Đây là điều mà thế hệ trẻ ngày nay thua xa ông bà của họ và cũng chính là nguyên nhân chính khiến nhiều gia đình chia ly. Sống kiểu “vui ở, dở đi” thì hôn nhân chẳng mấy chốc sẽ đổ vỡ thôi. Thật vậy, chọn bạn đời không phải là đi tìm một nửa mảnh ghép của mình để tạo ra một “cặp đôi hoàn hảo” nhưng là tìm người sẵn sàng cùng mình chung tay xây dựng tổ ấm, đón nhận mọi khác biệt và đôi khi là cả những xung đột. Cứ theo lẽ thường thì không dễ để bất cứ hai con người nào có thể sống hòa hợp trọn vẹn với nhau suốt cả cuộc đời. Mỗi người một tính cách, để trung thành với nhau thì cần một sức chịu đựng nhất định từ cả hai phía. Nói cách khác là hai bên phải hy sinh cho nhau thì mới có thể cùng nhau vun đắp hạnh phúc bền lâu.
Bạn đời không phải là một người bạn nhảy phối hợp ăn ý theo điệu nhạc vui thích nhằm mang lại sự khoái cảm trong chốc lát. Trái lại, họ là người đồng hành với bạn trên suốt chặng đường dài phía trước. Nơi đó hai người không chỉ cùng nhau chiêm ngắm vẻ đẹp của ánh sáng bình minh nhưng còn dắt tay nhau bước đi trong đêm đen dày đặc. Hai người không chỉ lâng lâng bên nhau trước cảnh sương mù lãng mạn mà còn phải biết nâng đỡ nhau trong những lúc giông tố bão bùng. Theo ngôn từ được sử dụng trong nghi thức hôn phối, đôi bạn phải giữ lòng chung thủy với nhau trong mọi hoàn cảnh, “khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khỏe.”
Do đó, khi đi đến quyết định sống đời hôn nhân với một người nào đó, từ phía bạn phải chuẩn bị cho mình đầy đủ hành trang tình yêu. Chỉ có tình yêu mới mang lại cho bạn sức mạnh và lòng quảng đại để chấp nhận và nâng đỡ người bạn đời của mình trong suốt chặng đường dài. Một khi cả hai cùng chuẩn bị tâm thế sẵn sàng đồng hành bên nhau đi đến hết đường đời thì sự hấp dẫn của những thứ hoa lá cỏ cây hay trời mây chim chóc hai bên đường chỉ làm cho cuộc hôn nhân thêm thi vị chứ không thể khiến hai người rời tay nhau trong từng nhịp bước.
Tiếp đến, muốn có được hạnh phúc bền lâu trong đời sống chung thủy vợ chồng thì đôi bạn cần nhận ra đâu là giá trị nền tảng giúp xây dựng và củng cố giao ước hôn nhân của mình. Cho dù hai bên có tìm hiểu kỹ càng như thế nào đi nữa thì khi hai mảnh đời ghép lại với nhau, xung đột vẫn phải xảy ra. Do đó, để giao ước hôn nhân mang lại ý nghĩa trọn vẹn, hai người cần phải tuyên xưng lời hứa “yêu thương và tôn trọng nhau” mọi ngày trong suốt cuộc đời mình. Lời hứa này không chỉ nằm trên môi miệng cô dâu chú rể trong ngày làm phép cưới mà còn phải được thực hiện trong những tình huống cụ thể của cuộc sống, nhất là những lúc gặp khó khăn.
Muốn yêu thương nhau thì trước hết phải tôn trọng người bạn đời của mình, tức là đón nhận sự khác biệt cũng như điểm mạnh, điểm yếu của nhau. Điều kiện tiên quyết của việc tôn trọng nhau đó là hai bên phải mở lòng ra với nhau, không giấu giếm hay lừa dối nhau bất cứ chuyện gì, đến mức “hai người trở thành một xương một thịt” mới được. Tâm hồn mỗi người là một thế giới riêng tư cần nhiều thời gian để khám phá tìm hiểu. Như thế, việc mở lòng ra với nhau để hiểu nhau hơn, cũng như thái độ tôn trọng và đón nhận nhau, không chỉ cần thiết trong bước đầu chuẩn bị hôn nhân mà còn phải là một tiến trình liên tục suốt cả đời chung sống với nhau.
Thật ra không dễ dàng để yêu thương đón nhận người khác, đặc biệt là trong đời sống vợ chồng. Theo lẽ thường thì chúng ta chỉ muốn yêu thương và đón nhận những gì đáng yêu đối với chúng ta, còn những gì không đáng yêu hay thậm chí là đáng ghét nữa thì chúng ta tìm cách tránh xa hay loại bỏ khỏi cuộc đời mình. Thế nhưng trong đời sống hôn nhân chúng ta không được phép hành xử như vậy. Một khi đã quyết định gắn bó với nhau trong bậc vợ chồng thì chúng ta cần phải đón nhận tất cả mọi điều đáng yêu lẫn không đáng yêu từ người bạn đời của mình.
Điều này đòi hỏi sự kiên nhẫn chịu đựng, biết tha thứ, nhường nhịn từ người vợ lẫn người chồng, và chung quy nhất là phải biết sống quảng đại hy sinh cho nhau. Trong nhiều trường hợp, hai vợ chồng không chỉ hy sinh cho nhau mà còn cùng nhau hy sinh cho con cái nữa. Tuy nhiên, sức hy sinh chịu đựng của con người không phải là không có giới hạn.
Do đó, sự hy sinh đòi hỏi phải đến từ cả hai phía. Hai người chung vai vác cùng một gánh nặng thì vẫn nhẹ nhàng hơn là để một người phải chịu đựng. Thật khó để một người có thể hy sinh nếu người kia không biết trân trọng sự hy sinh của họ. Tóm lại, đời sống hôn nhân không thể tự nhiên mà hòa hợp được. Nó cần được điều chỉnh, uốn nắn và đòi hỏi sự hy sinh của cả hai bên. Thế nên các cặp vợ chồng cần biết ơn nhau vì sự hy sinh dành cho nhau trong suốt cuộc đời hôn nhân.
Cuối cùng, để có thêm động lực và thắp lên hy vọng cho một cuộc hôn nhân hạnh phúc, bạn hãy nhìn vào mẫu gương của những cặp vợ chồng trung tín với nhau trọn đời mà bạn quen biết. Chúng ta dễ bi quan khi thấy nhiều gia đình tan vỡ nhưng thực ra chúng ta hoàn toàn có lý do để lạc quan tin tưởng rằng Chúa ban cho con người đủ sức giữ được lời cam kết chung thủy trong đời sống hôn nhân. Không cần tìm đâu xa, bạn hãy nhìn về bố mẹ, ông bà hay những người trong họ hàng của bạn để thấy được họ sống chung thủy với nhau như thế nào.
Chúng tôi đoán là bạn đã nghe biết hoặc tận mắt chứng kiến những lần rạn nứt trong mối quan hệ của họ. Thế nhưng, bạn cũng hiểu ra rằng nhờ kinh nghiệm đức tin mà họ đã vượt qua mọi sóng gió thử thách trong đời sống gia đình. Do đó, sự chung thủy trong đời sống vợ chồng không phải là vấn đề may rủi, kiểu như do hên mà gặp được anh chàng kia hiền lành hoặc cô nàng nọ đảm đang. Trái lại, động lực sâu xa giúp gắn kết mọi cặp vợ chồng Công giáo không chỉ là tình yêu đối với nhau mà còn là đức tin của cả hai người. Người Công giáo tin rằng hôn nhân là kế hoạch tác thành của Thiên Chúa. Tình yêu chung thủy Thiên Chúa dành cho Hội thánh của Người trở thành khuôn mẫu của sự chung thủy trong hôn nhân Công giáo.
Để kết thúc bài chia sẻ này, tôi xin nhắc lại một điều là trong hôn nhân Công giáo, không chỉ là hai người tìm đến với nhau mà còn là Chúa dẫn hai người đến với nhau. Do vậy câu “sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly” không nên được hiểu như một gánh nặng bó buộc vợ chồng. Đúng hơn, đó là một lời chúc phúc đến từ Thiên Chúa từ thuở tạo dựng con người. Theo nghĩa đó, hôn nhân Công giáo được Thiên Chúa chúc phúc nên không một thế lực loài người nào có thể phá hoại được. Nói cách khác, nếu bạn tin tưởng vào tình yêu thương quan phòng của Thiên Chúa trong cuộc hôn nhân của bạn thì bạn sẽ không phải lo sợ về sự phân ly, trừ khi chính bạn muốn sử dụng tự do của mình để khước từ sự tác thành của Thiên Chúa và lựa chọn con đường phân ly mà thôi.
Chúng ta biết rõ thân phận yếu đuối của con người, tự sức mình không thể vượt qua những thách đố của việc hy sinh chịu đựng nhau trong đời sống vợ chồng. Tuy nhiên, vì tin tưởng rằng hôn nhân Công giáo được Chúa chúc phúc nên chúng ta luôn cậy nhờ ơn Chúa giúp qua lời cầu nguyện và cả những nỗ lực hy sinh cộng tác của mình trong đời sống gia đình. Như vậy sự trung thành trong giao ước hôn nhân của người Công giáo minh chứng một điều rằng tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa chiến thắng mọi thế lực sự dữ gây chia rẽ vợ chồng ở trần gian này.
2023
Để trở nên cha mẹ Công giáo tốt
Để trở nên cha mẹ Công giáo tốt
Hỏi: Chúng con đang chuẩn bị đón thành viên đầu tiên trong gia đình. Xin cho chúng con hỏi Kinh Thánh hoặc Giáo hội khuyên như thế nào để trở nên cha mẹ tốt?
Trả lời:
Các bạn muốn trở nên cha mẹ tốt, điều đó thật tuyệt vời. Theo yêu cầu của các bạn, chúng tôi dựa vào Kinh Thánh và chọn ra 7 lời khuyên cho các bạn (số 7 tượng trưng cho sự đầy đủ trọn vẹn), đồng thời dựa vào Sách Giáo lý cũng như một số văn kiện của Hội Thánh để trình bày.
- “Này con cái là hồng ân của Chúa, con mình sinh hạ là phần thưởng Chúa ban”(Tv127,3)
Lời khuyên thứ nhất này giúp chúng ta xác tín rằng: Con cái không phải là tài sản của cha mẹ, càng không phải là “của nợ” của gia đình, nhưng là hồng ân và cũng là trách nhiệm Chúa trao. Ý thức được điều này các bạn sẽ yêu thương con mình đúng cách hơn; yêu con không phải chỉ vì chúng xinh đẹp, lễ phép, thông minh; hay vì chúng thực hiện được ước mong của các bạn, lập được những thành tích đem lại vẻ vang cho các bạn… nhưng là yêu thương vô điều kiện, cho dù bất cứ điều gì xảy ra, cho dù con mình có như thế nào. Ngay cả khi đứa con sinh ra ngoài sự mong đợi của các bạn, thì các bạn cũng hãy tin tưởng vào Chúa để vui lòng đón nhận đứa trẻ này với sự cởi mở và lòng âu yếm[1].
- “Có con cái ư? Hãy dạy dỗ và uốn nắn chúng ngay thuở còn thơ.”(Hc7,23)
Dạy dỗ và uốn nắn con cái là quyền và bổn phận quan trọng của cha mẹ. Quyền và bổn phận này không thể thay thế hay chuyển nhượng được, cũng không thể khoán trắng cho người khác hay bị người khác chiếm đoạt[2].
Trong Tuyên ngôn về giáo dục Kitô giáo, Giáo hội xác định: “Vì là người lưu truyền sự sống cho con cái, nên cha mẹ phải là những nhà giáo dục đầu tiên và chính yếu…, gia đình chính là trường học đầu tiên”[3]. Như thế việc dạy dỗ con phải được thực hiện ngay từ lúc ấu thơ, thậm chí từ khi con còn ở trong bụng mẹ. Ngay trong thời gian này, các tâm tình và thái độ ứng xử của cha mẹ đều có ảnh hưởng đến tâm tính và sức khoẻ của thai nhi. Cho nên, ngay trong thai kỳ, các bạn hãy điều chỉnh tâm tình và lối sống sao cho thật lành mạnh, vợ chồng tránh cãi vã nhau, tránh những ưu sầu phiền muộn, những giận ghét, lắng lo… gây ảnh hưởng xấu cho thai nhi. Trái lại hãy tạo cho gia đình một bầu khí yên vui, thánh thiện, năng lui tới nhà thờ, thường xuyên nghe nhạc thánh ca… những điều ấy chắc chắn sẽ tác động rất tốt cho đứa con của bạn.
- “Hãy dạy đứa trẻ đi con đường nó phải đi, để đến tuổi già, nó vẫn không lìa bỏ.”(Cn22,6)
Dạy cho đứa trẻ con đường nó phải đi có thể hiểu là giúp cho con cái phát triển con người toàn diện, cả về nhân bản và đức tin[4].
Về thể dục: Các bạn cần giúp con có thói quen ăn uống hợp lý, tích cực vận động để trau dồi và giữ gìn sức khỏe là của cải quý báu Thiên Chúa trao ban.
Về trí dục: Các bạn cần giúp con trau dồi về học vấn để phát triển tri thức. Nhưng cũng không nên ép con mình học quá nhiều, khiến trẻ trở thành “những chiến binh thi cử”, tệ hơn nữa là “những con robot vô cảm”, thiếu năng động, thiếu kỹ năng sống, thiếu tương quan xã hội và nguy hiểm nhất là thiếu đời sống tâm linh.
Về đức dục: Các bạn cần dạy con biết tránh thói hư tật xấu và tập luyện các đức tính tốt, biết nói năng và cư xử lễ độ, biết “kính trên nhường dưới”, biết “ăn quả nhớ người trồng cây”, biết giữ vệ sinh chung, biết nhận lỗi và xin lỗi, biết rộng lượng tha thứ, biết quảng đại cho đi… những điều rất căn bản để con bạn trở thành người tốt và hữu ích cho gia đình và xã hội.
- “Anh em phải lặp lại những lời [tuyên xưng đức tin] cho con cái, phải nói lại cho chúng, lúc ngồi trong nhà cũng như lúc đi đường, khi đi ngủ cũng như khi thức dậy.”(Đnl6,7)
Những lời thúc giục mạnh mẽ trên cho thấy trách nhiệm giáo dục đức tin của cha mẹ là hết sức quan trọng. Bổn phận của cha mẹ không chỉ là xin cho con cái được lãnh nhận Bí tích Rửa tội rồi sau đó không biết làm gì hơn. Với sự hiểu biết giáo lý và đời sống đức tin quá nghèo nàn, khi vào đời, trước bao nhiêu trào lưu và tư tưởng thế tục, các em khó lòng giữ vững được đức tin và luân lý Kitô giáo.
“Gia đình là nơi cha mẹ trở nên các thầy cô đầu tiên về đức tin của con cái”[5]. Cha mẹ phải có trách nhiệm dạy cho con cái nhận biết về sự hiện hữu của Thiên Chúa và bước đi theo đường lối của Ngài.
Để làm được điều ấy, ngay từ bây giờ, các bạn phải hiểu biết giáo lý để truyền đạt lại cho con, dành thời giờ cùng con ôn lại các bài giáo lý con học ở trên lớp. Các bạn nên đưa việc đọc Kinh Thánh vào sinh hoạt hàng ngày. Chẳng hạn dành thời gian sau bữa ăn tối để đọc hay kể truyện Kinh Thánh cho con nghe; đọc một đoạn Tin Mừng trong các buổi cầu nguyện gia đình.
Giờ cầu nguyện chung trong gia đình chính là phương thế hữu hiệu và là điều không thể thiếu trong việc giáo dục đức tin cho con cái. Nhờ các buổi cầu nguyện mà con cái hấp thụ được tinh thần đạo đức của gia đình. Để tạo thành nền nếp, các bạn hãy ấn định thời giờ cụ thể cho việc cầu nguyện chung gia đình và coi đó là “giờ thánh”. Truyền hình, máy vi tính, mạng xã hội… phải ngưng hoạt động trong gia đình vào giờ đó.
Để việc giáo dục đạt kết quả, điều không thể thiếu là chính các bạn phải nêu gương tốt cho con cái học theo[6]. Các bạn hãy cương quyết sống những gì mình muốn truyền đạt. Gương sáng của cha mẹ sẽ dẫn dắt con cái đi theo đường ngay nẻo chính, vì như người ta vẫn thường nói: “Lời nói như gió lung lay, gương bày như tay lôi kéo”. Nếu các bạn có gương sáng và được con cái tín nhiệm, thì cho dù khi chúng đã trưởng thành, và dù có đi xa vạn dặm, chúng sẽ vẫn nhớ đến các bạn khi cần lời khuyên bảo.
- “Những bậc làm cha mẹ, hãy giáo dục con cái thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy.”(Ep 6,4)
Để khuyến khích con phát huy những điều tốt mà con bạn đã thực hiện được, các bạn nên khen thưởng và cho chúng biết là cha mẹ vui mừng về điều đó; nhưng hãy chừng mực, công bằng, không nên tâng bốc con thái quá, kẻo chúng trở nên kiêu căng ngạo mạn. Ngược lại, khi trẻ có điều sai trái, cha mẹ phải biết sửa dạy chứ không được xem thường. Sách châm ngôn nói: “Tâm trí trẻ con vốn dại khờ, lấy roi sửa phạt là giúp nó nên khôn” (Cn 22,15).
Tuy nhiên, việc sửa dạy con cần chừng mực và khôn khéo. Phải hết sức tránh hình phạt có tính sỉ nhục, vô lý. Đừng bạo hành con cho thỏa mãn cơn tức giận, cũng đừng lạm dụng roi đòn vì sẽ làm cho trẻ bị rối loạn tâm lý, trở nên những người lì lợm, bướng bỉnh. Các bạn cũng cần phải tế nhị, tránh sửa phạt con trước mặt mọi người, đừng đem lỗi lầm của con kể cho người khác, đừng nhắc lại những lỗi lầm đã qua rồi; đừng cằn nhằn mắng nhiếc dai dẳng những chuyện không cần thiết… Vì tất cả những điều ấy sẽ làm trẻ suy nghĩ tiêu cực. Các bạn phải cho con biết điều quan trọng này là: cha mẹ chỉ trích cái sai của con chứ không hề ghét bỏ con.
Người cha và người mẹ phải nhất trí với nhau trong đường hướng và phương thức giáo dục. Tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” giữa cha và mẹ sẽ khó đem lại kết quả tốt nơi con cái. Bản thân người cha người mẹ cũng đừng thiếu nhất quán, nay thế này mai thế khác, vì như thế sẽ khiến trẻ rối loạn nhận thức. Tốt hơn, cả gia đình nên cùng theo một nguyên tắc, để khi con làm sai, cha hay mẹ theo đó mà sửa dạy. Chẳng hạn quy định cụ thể giờ học, giờ chơi, giờ đi ngủ, giờ phải có mặt ở nhà buổi tối…
- “Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng.”(Cl 3,21)
Để trở thành cha mẹ tốt, các bạn cần phải biết cách để cho con cái cảm nhận được giá trị và tình yêu thương trong việc giáo dục, phải xem con cái như những người con của Thiên Chúa và tôn trọng chúng như những nhân vị.
Khi con còn nhỏ, các bạn hãy tìm hiểu về tính tình, năng khiếu của từng đứa con, giúp chúng phát huy những khả năng đó, đừng làm thui chột những khả năng sẵn có của con cái mà ép buộc chúng theo mong muốn của mình. Cũng đừng ép con mình phải thực hiện những ước vọng nằm ngoài khả năng của chúng.
Các bạn cần sắp xếp thời giờ để nói chuyện với con mỗi ngày, nhất là phải tạo một bầu khí cởi mở giúp con cái có thể thổ lộ những tâm tư hoặc những khó khăn rắc rối mà chúng gặp phải, nhờ đó mà các bạn hiểu con hơn và có thể giúp đỡ con kịp thời và chu đáo hơn.
Khi đến tuổi trưởng thành, con cái có quyền chọn lựa nghề nghiệp và bậc sống. Các bạn phải tránh ép buộc con trong việc chọn nghề, cũng như trong việc chọn người bạn đời. Tất nhiên, các bạn vẫn có thể giúp đỡ con cái bằng những ý kiến khôn ngoan, nhất là khi chúng chuẩn bị lập gia đình. Phần con cái cũng cần bàn hỏi, lắng nghe ý kiến và lời khuyên bảo của cha mẹ.
Trong trường hợp đặc biệt, nếu con của các bạn nhận được tiếng Chúa mời gọi dâng mình trong đời sống tu trì hay trong hàng giáo sĩ, thì các bạn hãy nhận ra đó là một ân phúc lớn lao. Các bạn hãy tôn trọng và tạo thuận lợi cho ơn gọi ấy. Các bạn phải ý thức và dạy dỗ cho con biết rằng theo Đức Giêsu là ơn gọi ưu tiên của người Kitô hữu[7].
- “Ông Gióp dậy thật sớm, dâng lễ toàn thiêu cho mỗi người trong các con ông…”(G 1,5)
Kinh Thánh giới thiệu cho chúng ta hình mẫu một người cha tốt lành, thường xuyên quan tâm cầu nguyện cho các con của mình. Trong thực tế những người như ông Gióp không phải là hiếm. Những bậc cha mẹ như thế, chắc chắn con cái họ sẽ không bao giờ hư mất. Mà dù có hư, họ cũng dễ có ngày quay bước trở về, nhờ công đức và lời cầu nguyện của cha mẹ, như gương bà thánh Monica, người đã kiên trì cầu nguyện cho đứa con trai ngang bướng của mình và cuối cùng đã chinh phục được người con trai ấy trở về đường ngay nẻo chính, hơn thế nữa, còn trở nên một vị thánh, là thánh Augustinô.
Các bạn ạ, trong việc nuôi dạy con cái, chỉ cậy vào sức tự nhiên của mình thôi thì chưa đủ, cần nương tựa vào Chúa nữa. Những gì các bạn có thể làm, hãy gắng làm hết khả năng của mình, phần còn lại, hãy phó thác nơi Thiên Chúa.
* * *
Tóm lại, để trở nên cha mẹ Công giáo tốt lành, Kinh Thánh và Giáo hội mời các bạn hãy yêu thương con với một tình yêu vô điều kiện; hãy giúp con phát triển con người toàn diện, nhất là chăm lo cho con cái sống xứng đáng phẩm giá làm người và làm con Chúa.
Chúc các bạn thành công. Chúc các bạn trở thành những người cha, người mẹ Công giáo tốt như ý Chúa muốn và như chính tâm nguyện của các bạn.
Văn Nghĩa, CRM
2023
Bàn về chữ “tình” chữ “nghĩa” trong đời sống gia đình
Theo các chuyên gia về hôn nhân gia đình thì một khi cuộc hôn nhân không còn trọn nghĩa vẹn tình nữa thì cho dù có sống với nhau nhiều năm tháng đi chăng nữa thì cũng sẽ đến ngày phải “tan đàn xẻ nghé”. Tình trạng ly hôn ngày nay được nói đến rất nhiều, chẳng hạn đối với đôi vợ chồng trẻ thì người ta gọi đó là “Ly hôn xanh”, còn đối với các cặp trung niên hay lão niên thì đó là “Ly hôn xám”. Như một nhà thơ đã mô tả ngắn gọn như sau:
“Anh đi đường anh, tôi đường tôi,
Tình nghĩa đôi ta có thế thôi.
Đã quyết không mong xum họp mãi,
Bận lòng chi nữa lúc chia phôi?” (Thơ Thế Lữ).
Được biết, theo thống kê hàng năm, số vụ ly hôn càng ngày càng tăng không kể tuổi tác, trình độ văn hóa, giai cấp giàu nghèo vv. Chuyện ly hôn không của riêng ai, nó trở nên phổ biến khiến cho cả xã hội phải lên tiếng báo động. Tác giả bài viết có tựa “Gia đình trẻ Việt ngày càng thiếu sự gắn bó và bền vững” trên trang thanhnien.vn ngày 26-9-2022 đã cho biết như sau:
“Thống kê của Viện nghiên cứu Gia đình và Giới vào năm 2018, trung bình cả nước ta có trên 60.000 vụ ly hôn mỗi năm, chiếm tỷ lệ 30% tổng số cặp đôi. Điều này đồng nghĩa với việc cứ 10 cặp đôi kết hôn thì có đến 3 cặp ly hôn. Trong số các cặp đôi ly hôn, 70% số vụ thuộc về các gia đình trẻ trong độ tuổi từ 18-30, 60% ly hôn sau từ 1-5 năm chung sống, nhiều trường hợp chỉ kết hôn được vài tháng hoặc vài ngày.”
Tác giả bài báo cho biết tiếp: “Thống kê cũng cho thấy tỷ lệ ly hôn tập trung cao tại những thành phố lớn. Đơn cử tại TP.HCM, bình quân cứ 2,7 cặp kết hôn thì có 1 cặp ly hôn (chiếm hơn 35%). Độ tuổi ly hôn dưới 35 chiếm 30%. Trung bình mỗi tháng, TP.HCM có từ 80-100 vụ ly hôn tại mỗi quận, huyện.”
Riêng về các nguyên nhân gây ra các vụ ly hôn của các đôi vợ chồng, tác giả bài viết trên đã nêu cụ thể: “Thực tế, thống kê của Viện nghiên cứu Gia đình và Giới cũng chỉ ra nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến khủng hoảng hôn nhân. Trong đó, 27,7% là mâu thuẫn về lối sống, 25,9% đến từ ngoại tình, yếu tố kinh tế chiếm 13%, bạo lực gia đình chiếm 6,7%, sức khỏe chiếm 2,2% và sống xa nhau nhiều ngày chiếm 1,3%. Tất cả những khủng hoảng kể trên đều dẫn đến kết cục ly hôn khi không thể tìm được hướng giải quyết.” [1]
Dù xuất phát từ nguyên nhân nào đi nữa thì việc hai vợ chồng quyết định ly hôn (hay ly thân) cũng nói lên một điều chính yếu này, đó là họ không còn tình còn nghĩa gì với nhau nữa, dù cho đời sống hôn nhân đã kéo dài cả mấy chục năm và nhiều trường hợp hai người đã có con đàn cháu đống! Một nhà xã hội học, cũng là chuyên gia tâm lý đã nhận định như sau: “Kẻ thù lớn nhất của hôn nhân chính là sự nhàm chán. Càng ở với nhau lâu mà hai bên không nỗ lực vun đắp thì sẽ nhàm chán thôi, mà nhàm chán thì tình yêu sẽ mất đi. Đấy là tính tất yếu của mọi mối quan hệ. Tình cảm không phải là bất biến, tình cảm là một thứ có thể thay đổi. Nếu người ta không nuôi dưỡng, họ sẽ mất tình cảm ấy”.
Sau đây, qua bài viết này, tôi mạn phép đề cập chi tiết hơn đến chữ tình chữ nghĩa trong hôn nhân để từ đó khẳng định rằng hôn nhân sẽ không hạnh phúc và bền vững nếu chỉ có tình mà thiếu nghĩa, hoặc chỉ có nghĩa mà vắng tình. Vì rằng cả hai yếu tố tình và nghĩa sẽ được coi như chất keo sơn giúp gắn chặt hôn nhân như bóng với hình.
1.- Chữ TÌNH trong đời sống hôn nhân
Trước hết, chúng ta bàn đến chữ Tình trong đời sống hôn nhân. Một danh nhân đã nói: “Không có tình thì không có gia đình” (Lord Byron). Điều đó rất chính xác, nó cho thấy vai trò cực kỳ quan trọng và thiết yếu của tình yêu trong đời sống lứa đôi.
Thánh Au-gus-ti-nô đã từng nói “Cứ yêu đi, rồi muốn làm gì thì làm” (Ama et fac quod vis). Ngạn ngữ La-tinh có câu “Tình yêu chiến thắng tất cả” (Amor vincit omnia). Điều đó chứng tỏ là tình yêu là yếu tố hàng đầu, quyết định hạnh phúc vợ chồng và sự bền vững của đời sống hôn nhân. Bởi vậy khi trao nhẫn cưới cho nhau trong lúc cử hành Bí tích Hôn phối, đôi bạn đã khẳng định như sau: “Anh/em …, nhận chiếc nhẫn này để làm bằng chứng tình yêu và lòng chung thủy của anh/em. Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần.”
Một khi tình yêu và lòng chung thủy đã được xác tín và tuyên bố công khai như vậy, thì từ lúc này đôi bạn phải trung thành với cam kết của mình dù cuộc đời có thay đổi thế nào đi nữa. Đức thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II trong Tông huấn những bổn phận gia đình Ki-tô hữu (FC) đã nhấn mạnh như sau: “Đối với đôi bạn Kitô hữu, ơn bí tích là một ơn gọi và đồng thời cũng là một lệnh truyền phải trung thành mãi mãi, bất chấp các thử thách và khó khăn với một lòng quảng đại tuân theo ý Chúa: ‘Điều Thiên Chúa đã phối hợp thì người ta không được phân ly’ (Mt 19,6) ” (FC số 20).
Cũng trong Tông huấn này, Đức thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô nhắn nhủ tiếp: “Chỉ có một tinh thần hi sinh cao cả mới giúp gìn giữ được và kiện toàn được sự hiệp thông trong gia đình. Thực vậy, sự hiệp thông này đòi hỏi mọi người và mỗi người biết quảng đại và mau mắn mở lòng ra để thông cảm, bao dung, tha thứ cho nhau và hòa giải với nhau. Không gia đình nào mà không biết rằng sự ích kỷ, những bất hòa, những căng thẳng, những xung đột đã làm hại cho sự hiệp thông gia đình biết chừng nào, và đôi khi còn có thể làm tiêu tan sự hiệp thông ấy: chính từ đó mà phát xuất muôn hình thức chia rẽ khác nhau trong đời sống gia đình” (FC số 21).
Riêng thánh Phao-lô, ngài đã có những lời khuyên thiết thực sau:
“Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau” (Cl 3, 12-13); “Người làm vợ hãy phục tùng chồng, như thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa. Người làm chồng hãy yêu thương chứ đừng cay nghiệt với vợ…” (Cl 3, 18-19).
“Vì lòng kính sợ Đức Ki-tô, anh em hãy tùng phục lẫn nhau. Người làm vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Chúa, vì chồng là đầu của vợ cũng như Đức Ki-tô là đầu của Hội thánh, chính Người là Đấng cứu chuộc Hội thánh, thân thể của Người. Và như Hội thánh tùng phục Đức Ki-tô thế nào, thì vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy” (Eph 5, 21-33).
Một đặc điểm nổi bật trong hôn nhân Ki-tô hữu, đó là sự hy sinh vì người yêu và tình yêu vợ chồng dành cho nhau dõi theo tình yêu Thiên Chúa yêu nhân loại và tình yêu Đức Ki-tô dành cho Hội thánh. Chúng ta biết rằng, hy sinh có hai nghĩa, nghĩa thứ nhất là chết (ngừng mọi hoạt động của cơ thể), nghĩa thứ hai là chịu thiệt hại, mất mát quyền lợi về vật chất, tinh thần hoặc một bộ phận nào đó trên cơ thể nhằm một mục tiêu cao cả hoặc một lý tưởng tốt đẹp (Theo Wikipedia).
Sự hy sinh trong tình yêu Ki-tô hữu luôn hàm chứa sự đau khổ, mất mát, thiệt thòi. Thực vậy, tình yêu trong hôn nhân đòi hỏi đôi bạn phải hy sinh hết mình vì bạn đời của mình và vì hạnh phúc gia đình. Đó là cách chứng minh tình yêu cụ thể nhất. Thánh nữ Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su đã nói: “Yêu là hy sinh, chưa hy sinh thì chưa gọi là yêu”. Hy sinh cũng là điều kiện để bảo tồn và gia tăng sự hiệp thông, hiệp nhất trong gia đình.
Người ta thường nói ví von rằng hoa hồng nào mà chẳng có gai. Cuộc tình nào mà chẳng có nước mắt và đau khổ. Hôn nhân đích thực không phải là thiên đàng của những mộng mơ viễn tưởng mà trái lại đó là một trường đào tạo, một cuộc chiến đấu cam go của những anh hùng. Như có người đã nói: “Hôn nhân không phải là luống hồng mà là bãi chiến trường” (Danh ngôn).
Thực vậy, khi bước vào đời sống hôn nhân gia đình là chúng ta chấp nhận đi vào con đường khổ giá, con đường mà Chúa Giêsu đã mời gọi mọi môn đệ cùng đi với Ngài. Tác giả D. Wahrheit trong cuốn sách tựa đề “Cẩm nang hạnh phúc gia đình Ki-tô” đã chia sẻ như sau: “Ngày thành hôn trước mặt Giáo hội, hai người nam nữ nên vợ nên chồng. Bí tích hôn phối đưa hai người lên đường, hé mở cho họ thấy sự thánh thiện mà tay trong tay họ cùng nhau đạt tới. Cuộc lễ long trọng trong nhà thờ mới chỉ là một khởi hành. Đức tin không là một cây đũa thần để họ làm phép lạ. Họ chỉ biết rằng, con đường mà trên đó họ cùng nắm tay tiến bước với Chúa Kitô là một con đường hẹp. Con đường ấy được trải đầy những thập giá mà họ phải vác lấy từng ngày…”
Như vậy, nếu phải chiến đấu, phải nỗ lực để có được một tình yêu chân chính trong một cuộc hôn nhân bền vững, thì ta phải dõi theo những gì mà Chúa đã dạy. Ngài đã nói: “Không có tình thương lớn hơn tình thương của người hi sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15,13). Sự đau khổ và sự chết của Đức Ki-tô đã giải thích cho ta hiểu rằng vì yêu và vì hạnh phúc của chúng ta, Ngài đã hi sinh đến chết (x. Ga 10, 17; Pl 2, 8). Đó là một Tình Yêu đích thực, tình yêu có sức mạnh cứu chuộc, thăng hoa và biến đổi.
2.- Chữ NGHĨA trong đời sống hôn nhân
Có nhiều cách lý giải chữ “Nghĩa” trong đời sống hôn nhân gia đình. LM Giuse Đinh Lập Liễm trong bài giảng “Nghĩa tào khang” (cuốn Chia sẻ Lời Chúa trong thánh lễ Hôn phối) đã diễn giải như sau:
“Vợ chồng là nghĩa tào khang,
Chồng hòa vợ thuận nhà thường yên vui.”
“Nghĩa” là một trong năm đức tính cao quý của con người trong xã hội ta ngày xưa. Đó là: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Ngược với chữ “lợi”, chữ nghĩa chỉ đức tính tốt, làm theo điều phải. Chữ nghĩa hàm chứa tính cách bất vụ lợi như “nghĩa cử”; tính cách trung thành và hy sinh như “nghĩa bộc:, “nghĩa tử”; tính cách khí khái, hăng hái, dấn thân như “nghĩa khí”. Trong mạch văn “vợ chồng là nghĩa tào khang” mà vợ chồng là một định chế, thì chữ nghĩa là đức tính căn bản của vợ chồng, để được dùng định nghĩa cho hôn nhân. Nó là một trong 5 tương quan trong xã hội: Trung, hiếu, nghĩa, lễ, tín. Nó là một định chế trong 5 định chế: quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu. Chữ nghĩa ở đây bao hàm ý nghĩa của một định chế tốt, được xã hội công nhận. [2]
Trong đời sống hôn nhân gia đình, chữ Nghĩa luôn được nhắc đến song song với chữ Tình. Người ta thường nói “Tình-nghĩa vợ chồng” là vậy. Nhà văn Hoàng Hữu Các trong bài viết “Giá trị của chữ tình, chữ nghĩa” trên trang Gia đình và Xã hội ngày 28-6-2011 đã nhận xét như sau:
“Người ta yêu nhau vì tình và sống với nhau lâu dài vì nghĩa. Chính các gia đình Việt Nam đã chứng minh điều đó. Các thế hệ cha ông chúng ta lấy vợ không có tình yêu, thậm chí còn không được tìm hiểu. Chẳng hạn:
“Nhà mình do má tìm cho
Nết ăn nết ở cũng do má tìm.”
Vậy mà họ sống với nhau êm thấm cả đời, sinh con đàn cháu đống. Bây giờ yêu nhau hoàn toàn tự do, tìm hiểu rất kỹ, thậm chí còn sống thử trước khi cưới, vậy mà tỷ lệ ly hôn ngày càng tăng và nạn bạo lực gia đình đã đến mức phải báo động. Liên tiếp có những vụ án đau lòng, chồng giết vợ, vợ thiêu sống chồng và nhiều nơi đã phải xây nhà tạm lánh cho những bà vợ trốn khỏi những trận đòn của những kẻ vũ phu.
Tình yêu mặn nồng mấy rồi cũng nhạt dần qua năm tháng, nhưng thời gian cũng có thể làm cho nghĩa vợ chồng ngày một mặn mà hơn. Cái nghĩa được hình thành và củng cố tấm lòng vợ chồng dành cho nhau. Cùng chung sức vượt qua khó khăn xây dựng vun vén tổ ấm gia đình, bát cháo chén thuốc khi đau ốm, sự quan tâm chu đáo trong những việc nhỏ nhất như cái ăn, cái mặc, tất cả làm nên nghĩa vợ chồng và thành điểm tựa của nhau trong suốt cuộc đời. Có khi chỉ vì yêu một cái lúm đồng tiền mà người đàn ông cưới hẳn cả một cô gái. Nhưng khi nếp nhăn hằn sâu trên gương mặt thì cái lúm đồng tiền không còn nữa mà chỉ còn cái nghĩa ở đời với nhau. Nghĩa vợ chồng được hình thành từ rất nhiều bao dung, nhiều tha thứ, nhiều chấp nhận. Nếu cứ đòi hỏi nhau nhiều quá, soi nhau nhiều quá mà không biết chấp nhận cá tính của nhau thì không hình thành được nghĩa vợ chồng và như thế thì những năm tháng sống chung sẽ là tù ngục; tờ hôn thú sẽ là bản án chung thân.
Người ta yêu nhau một thời và sống chung với nhau một đời. Khi chữ tình nhẹ dần thì chữ nghĩa nặng hơn, đó là nền móng của gia đình, nền móng này phải được xây dựng từ trong văn hóa sống.” [3]
Chúng ta biết rằng, khởi đầu của hôn nhân luôn là một tình yêu nồng ấm mà đôi bạn tự nguyện trao ban cho nhau. Tình yêu ấy nó như một hạt giống cần được nuôi dưỡng thường xuyên như một cái cây cần đất, nước, khí và ánh sáng thì mới mong phát triển và sống lâu bền được. Vai trò của Nghĩa chính là yếu tố cần thiết để nuôi dưỡng tình yêu. Như người ta thường nói: “Hôn nhân chia nửa quyền lợi và gấp đôi nghĩa vụ” (Arthur Schopenhauer). Và “Trong hôn nhân, gặp nhau là bước đầu, sống chung với nhau là bước kế tiếp, làm việc chung với nhau mới làm nên một gia đình êm ấm ” (James Thurber).
Cái nghĩa vụ mà câu nói trên đề cập chính là chữ “Nghĩa” mà chúng ta đang bàn. Nghĩa chính là sợi dây ràng buộc đôi bạn trong một cuộc sống chung, chịu trách nhiệm chung và cùng chia sẻ định mệnh chung. Ông bà ta thì nói ngắn gọn: “Trong gia đình có Kẻ xay lúa, có người bồng em”, hoặc “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm”, hay “Vợ chồng như đũa có đôi”. Không ai có thể là “người khách lạ” trong gia đình của mình được. Cái nghĩa-vợ-chồng nó thúc đẩy chúng ta chung lưng đấu cật, đồng lao cộng khổ vì hạnh phúc của hôn nhân và để gia đình được êm ấm lâu dài.
Trong bài giảng hôn phối có tựa “Chung lưng đấu cật”, LM Đinh Lập Liễm (sách đã dẫn) đã chia sẻ như sau:
“Thành ngữ chung lưng đấu cật có nghĩa là cùng góp sức và dựa vào nhau trước khó khăn chung. Muốn xây dựng được một mái ấm gia đình, vợ chồng luôn phải chung sức chung lòng, kề vai sát cánh mới mong đi đến thành công. Có câu thơ sau:
Em về cắt rạ đánh tranh, / Chẻ tre, chẻ lạt cho anh lợp nhà.
Sớm khuya hòa thuận đôi ta, / Hơn ai gác tía, lầu hoa một mình.
Mái ấm gia đình luôn được xây dựng do công lao của vợ chồng, không riêng của ai. Mỗi người xây đắp một phương diện. Phải biết vun xới cho gia đình, vì “của chồng công vợ” mà, đừng sống như chỉ có một mình mà hãy thực hiện lời dạy trong Thánh Kinh: “Tôi muốn trở nên mọi sự cho mọi người”, ít ra hãy thực hiện điều ấy cho người bạn đời.” [4]
Như vậy, ta thấy rằng cái Nghĩa trong đời sống hôn nhân gia đình chính là việc đôi bạn quan tâm đến nhau, thực hiện một cách tích cực và đầy đủ những đòi hỏi thuộc chức năng vai trò từng người trong đời sống chung vợ chồng. Người ta gọi đó là tình yêu trách nhiệm.
Ông bà ta thường nói lập gia đình, kết hôn, lấy vợ lấy chồng là đi “gánh vác”. Điều đó có nghĩa là khi bước vào đời sống hôn nhân, đôi bạn trở nên hai người bạn đời, bạn đường của nhau, cùng liên kết trong một cuộc sống, cùng chia sẻ một số phận và đồng trách nhiệm với nhau về mọi vấn đề trong gia đình. Tinh thần trách nhiệm đòi hỏi cả hai người phải nỗ lực hy sinh cái “Tôi” để lo cho cái “Chúng ta”. Khi kết hôn đôi bạn phải hy sinh những lợi ích riêng tư cá nhân để chu toàn bổn phận làm vợ làm chồng, bổn phận làm cha làm mẹ trong gia đình. Tinh thần trách nhiệm trong hôn nhân nhắc chúng ta đến hai việc, đó là sự quan tâm chăm sóc giữa hai bạn đời với nhau, hai là sự cộng tác tích cực của hai vợ chồng trong việc thực hiện bổn phận gia đình.
Sự chăm sóc và quan tâm đến nhau. Đây là dấu chỉ về một tình yêu đích thực, trưởng thành và tinh tế, như có người đã nói: “Ai thích hoa thì tìm cách ngắt hoa. Nhưng người yêu hoa thì tìm cách chăm sóc hoa”. Bản thân vợ chồng phải được chăm sóc, vun xới từng giờ, từng phút, từ chuyện nhỏ đến chuyện lớn, những lúc vui sướng cũng như lúc gian nan. Sự chăm sóc đôi khi đơn giản, nhỏ bé nhưng lại có vai trò to lớn trong cuộc sống vợ chồng. Sự quan tâm không chỉ thể hiện bằng lời nói mà còn qua những cử chỉ, hành động thiết thực, cụ thể. Chẳng hạn, hãy thường xuyên nói chuyện với nhau, lắng nghe nhau tâm sự, khen ngợi nhau khi cần thiết, chia vui sẻ buồn với nhau, nghĩ đến nhau những dịp đặc biệt như sinh nhật, bổn mạng, ngày kết hôn…Quả thực, sự quan tâm đến nhau được coi như chất keo giúp gắn kết hai bạn đời bền chặt mãi mãi.
Đồng cam cộng khổ, cùng chia sẻ trách nhiệm chung trong gia đình. Ngày nay, nhiều bạn trẻ tỏ ra thất vọng rất lớn về bạn đời của mình chỉ vì người ấy không quan tâm đến những việc chung của gia đình. Nhiều bà vợ than phiền các ông chồng lười biếng và ỷ lại vào sự đảm đang của vợ mà bỏ bê việc gia đình. Điều đó khiến người vợ mệt mỏi và thất vọng vì gia đình là của chung, hôn nhân là do hai người cùng kiến tạo và niềm hạnh phúc là do hai người cùng chia sẻ. Trên thực tế, ta thường nghe vợ than chồng mê game mà bỏ bê gia đình. Trong khi ấy, chồng phàn nàn vợ ghiền mạng xã hội hơn là chồng con. Điều đó dễ dẫn đến cảnh xào xáo bất an trong gia đình.
Trong cuốn “Những quy tắc trong đời sống vợ chồng”, tác giả đã đưa ra 3 cái “cùng” đối với đôi vợ chồng, đó là: Cùng nhau làm việc nhà, cùng nhau chăm sóc con cái, cùng nhau quyết định mọi việc trong gia đình. Tác giả đã phân tích như sau:
“Thật sai lầm khi người vợ ôm đồm hết mọi thứ và để người chồng đi làm về ‘ngồi chơi xơi nước’. Thứ nhất, vợ tập cho chồng thói quen ỷ lại, lười biếng và thiếu trách nhiệm. Thứ hai, vợ đang tự biến mình thành người giúp việc trong nhà, chứ không còn là vợ. Cuối cùng về lâu dài, việc này ảnh hưởng không nhỏ đến tình cảm của vợ chồng đôi bạn. Hôn nhân là sự hợp tác, chia sẻ, và mọi trách nhiệm đều phải được phân công với nhau.
Ngoài ra, là vợ chồng, đôi bạn nên trao đổi, thống nhất với nhau để đưa ra quyết định cho mọi việc dù lớn hay nhỏ trong gia đình. Có nhiều gia đình phần lớn mọi việc do chồng hay do vợ quyết định, người còn lại chỉ biết lắng nghe theo và ít khi tham gia ý kiến. Đó không phải là biểu hiện của một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Nó thể hiện sự thiếu cân bằng về trọng lượng lời nói, vị thế của nhau trong hôn nhân. Để hôn nhân bền vững và hạnh phúc, một nguyên tắc cần tuân thủ nghiêm ngặt, đó là mọi việc quan trọng trong gia đình, cả hai vợ chồng đều phải bàn bạc, nêu ra ý kiến của mình để có quyết định thống nhất.” [5]
Có thể khẳng định điều này là sự thành công và bền vững của một cuộc hôn nhân không phải do tài năng của đôi bạn mà chính là do sự đồng tâm hiệp lực của cả hai người trong gia đình. Đó là biểu hiện cách sống thực sự có tình có nghĩa với nhau của đôi bạn đời.
3.- Hôn nhân sẽ ra sao nếu thiếu Tình và thiếu Nghĩa
Một danh nhân đã nói: “Hôn nhân là một công trình mà đôi bạn phải kiến tạo suốt đời (André Maurois). Công trình hôn nhân mà đôi bạn cam kết dấn thân thực hiện không giống các công trình vật chất khác của con người, trái lại đó là một ơn gọi và sứ mệnh được trao ban từ chính Thiên Chúa. Như Đức thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô đã nói trong Tông huấn Gia đình Ki-tô hữu (FC) như sau: “Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh Người, giống như họa ảnh của Người (x.St 1-26-27). Khi vì yêu mà kêu gọi con người bước vào cuộc sống, Người cũng mời gọi họ sống cho tình yêu. Thiên Chúa là Tình Yêu (x.1Ga 4,8) và nơi chính mình Người, Người cũng đang sống mầu nhiệm hiệp thông yêu thương giữa các ngôi vị . Khi tạo dựng nhân tính của người nam và người nữ theo hình ảnh Người và liên lỉ bảo toàn cho nhân tính ấy được hiện hữu, Thiên Chúa ghi khắc vào đó ơn gọi cũng như khả năng và trách nhiệm tương ứng, mời gọi con người sống yêu thương và hiệp thông (x.HC MV 12). Tình yêu là ơn gọi căn bản và bẩm sinh của mọi người.” [6]
Vậy có thể nói hôn nhân là công trình của tình yêu và trách nhiệm. Nhưng một khi hôn nhân không còn tình yêu và không duy trì trách nhiệm nữa thì hôn nhân sẽ sụp đổ. Lúc mới kết hôn, có thể đôi bạn nghĩ rằng tiền bạc, danh vọng, sắc đẹp, chức tước địa vị xã hội, bằng cấp…sẽ đem lại hạnh phúc và êm ấm cho gia đình, nhưng khi đã về sống với nhau rồi lúc đó cả hai đều vỡ mộng. Chúng ta quên một điều quan trọng này là điều làm nên một gia đình hạnh phúc, đó chính là sự nồng ấm của tình yêu và sự gắn kết bền chặt của nghĩa vụ. Nói cách khác, nếu hôn nhân không còn nghĩa, không còn tình gì nữa thì đó là một cuộc sống buồn chán và đáng thất vọng.
3.1. Hôn nhân thiếu Tình thì hôn nhân nhàm chán
Có thể nói trên thực tế để nhận ra một cuộc hôn nhân không còn tình yêu không phải là chuyện khó khăn lắm. Bởi vì khi hai vợ chồng lạnh nhạt trong tình yêu thì hôn nhân không còn là thiên đàng nữa, mà trái lại là “con đường dẫn đưa tới hỏa ngục” (Balzac). Nói cách khác, lúc đó hôn nhân không còn là cảnh “một túp lều tranh, hai trái tim vàng” nữa, mà là một “thảm họa” mà cả hai bạn đều sợ hãi và muốn thoát khỏi.
Nét tiêu biểu nổi bật nhất mà ta có thể đề cập tới liên quan cuộc hôn nhân không còn tình yêu, đó là sự nhàm chán vô vị. Nếu khi mới lấy nhau, đôi bạn luôn cảm thấy đời sống vợ chồng thật là vui vẻ, phấn khởi và ấm cúng, thì có thể chỉ sau một thời gian chung sống, vì lý do nào đó, họ rơi vào tình trạng bi quan, chán nản, thất vọng. Thực tế này xuất phát từ nguyên nhân tình yêu giữa hai người đã phai nhạt, cạn kiệt, thậm chí có khi còn tiêu tan hẳn. Dần dần cuộc sống chung trở nên nhàm chán, vô vị và đôi bạn cảm thấy cuộc sống hôn nhân chỉ còn là gánh nặng cho nhau mà thôi.
Nhà thơ Lord Byron đã nói “Không có tình, không có gia đình”, điều đó có nghĩa là đời sống hôn nhân gia đình chỉ thực sự sống động và có ý nghĩa khi đôi vợ chồng giữ được ngọn lửa yêu thương luôn nồng cháy. Tuy nhiên một khi hôn nhân không còn chút gì hương vị nồng ấm của tình yêu nữa thì quả thực đời sống vợ chồng lúc đó thật là vô vị và nhàm chán!
Thực trạng kế tiếp của cuộc hôn nhân vắng tình yêu, đó là sự gặm nhấm của căn bệnh vô cảm, lạnh lùng giữa đôi bạn. Khi không còn tình yêu nữa, vợ chồng sẽ dễ dàng đối xử với nhau một cách vô tâm, lạnh lùng, cứng cỏi. Họ ở cạnh nhau, sống bên nhau nhưng như là những người khách lạ. Lúc này, căn bệnh vô cảm sẽ âm thầm hủy hoại mối quan hệ vợ chồng của đôi bạn. Người ta thường nói “Đồng sàng dị mộng”, ngay cả khi vợ chồng ngủ cùng giường, ăn cùng bàn, ở cùng nhà…nhưng tuyệt nhiên do thiếu tình yêu nên họ không còn hiện diện với nhau nữa, giữa họ dường như có một khoảng cách xa xa vời vợi!
Hiện nay, người ta nhận thấy rằng trong nhiều gia đình, vô cảm đã trở thành một thứ bệnh nguy hại với mức độ tàn phá kinh khủng. Nó không chỉ tấn công vào da thịt của con người nhưng là một thứ siêu vi gây tổn thương chính con tim con người. Có người đã khẳng định rằng “Vô cảm là mồ chôn của tình yêu con người”. Nhà tâm lý hiện sinh nổi tiếng nhất của Hoa Kỳ Rollo May cũng đã nói : “Hận thù không phải là thứ đối lập với tình yêu mà đó là sự vô cảm”. Đại văn hào Nga Maksim Gorky cũng nói: “Nơi lạnh nhất không phải là Bắc Cực mà là nơi thiếu vắng tình thương”. Nếu căn bệnh vô cảm trở nên nặng nề và kéo dài thì đó là dấu hiệu của một cuộc khủng hoảng trầm trọng trong mối quan hệ vợ chồng. Cuối cùng, điều gì đến sẽ phải đến, đó là viễn ảnh một cuộc chia tay không thể cứu vãn được.
Ngoài ra, hôn nhân thiếu tình yêu sẽ trở thành gánh nặng cho đôi bạn.
Vợ chồng sống với nhau muốn hạnh phúc lâu dài thì phải vừa có tình vừa có nghĩa. Nhưng một khi tình mất đi thì chỉ còn lại nghĩa. Nhằm tránh những đổ vỡ có thể nặng nề hơn, nhiều đôi bạn đành chọn cách sống chấp nhận thi hành nghĩa vụ vợ chồng một cách tối thiểu và miễn cưỡng. Lúc yêu nhau thì họ quyến luyến nhau, quan tâm chăm sóc nhau, họ tỏ ra cần nhau và muốn nương tựa vào nhau. Nhưng khi tình đã hết thì đời sống vợ chồng chỉ còn là gánh nặng mà đôi bạn cố gắng từng ngày chịu đựng cho xong bổn phận. Chúng ta biết rằng, hạnh phúc thực sự được xây dựng trên tình thương và sự hiểu biết nên ở đâu có hiểu, có thương và có sự chia sẻ thì ở đó có hạnh phúc. Nếu trong đời sống hôn nhân thiếu tình thương, thiếu tôn trọng, thiếu sự chia sẻ và đồng cảm, chắc chắn sẽ không hạnh phúc. Bằng chứng là rất nhiều cuộc hôn nhân phải đổ vỡ hay ít là phải bó buộc chịu đựng lẫn nhau.
Trong bài viết có tựa đề “Khi hôn nhân không có tình yêu”, tác giả đã đề cập đến hiện tượng sống tách biệt nhau giữa hai vợ chồng. Bài báo viết: “Đó là khi hai bạn đời không chung sống với nhau như vợ chồng. Cả hai có cuộc sống riêng và đều hài lòng với kiểu tồn tại đó. Thay vào đó, vợ hay chồng sẽ chọn cách làm mọi thứ mình thích mà không cần tham khảo ý kiến với bạn đời. Trong một cuộc hôn nhân không có tình yêu, cả hai không thể hiểu nhau và không sẵn lòng kề vai sát cánh bên nhau. Khi kết hôn, vợ/chồng không chỉ là bạn đời mà còn là người tư vấn cho các quyết định quan trọng. Do vậy, nếu đôi bạn không muốn hỏi bạn đời ý kiến khi đưa ra những kế hoạch, quyết định thì rõ ràng cuộc hôn nhân của họ là không có tình yêu.” [7]
Tóm lại, một cuộc hôn nhân không-tình-yêu thì nhạt nhẽo, không có kết nối của tình thương vợ chồng, thì chắc chắn sẽ ảnh hưởng không ít tới con cái và bầu khí gia đình. Khi con cái chứng kiến cảnh cha mẹ không hạnh phúc, không đầm ấm, không hòa thuận thì chúng sẽ cảm thấy thiếu thốn tình thương và sự bình an. Một đứa trẻ sẽ sống ra sao, sẽ học hành thế nào, sẽ nhìn cuộc đời cách nào nếu nó sống trong một gia đình cha mẹ luôn xung khắc, chửi bới đánh đập nhau, nếu chúng thường xuyên chứng kiến cảnh “cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt” của cha mẹ chúng, nếu chúng không được hưởng sự ấm áp hạnh phúc từ chính tình thương của cha mẹ dành cho nhau…Nhiều đứa trẻ đã bỏ nhà ra đi chỉ vì chúng không còn tìm thấy trong gia đình một niềm vui hay an ủi nào nữa.
3.2. Hôn nhân thiếu Nghĩa thì hôn nhân chết yểu
Có thể nói hôn nhân thiếu Nghĩa thì hôn nhân đó khó tồn tại lâu dài được. Vì rằng do tính chất nhất thời nên đời sống tình cảm và những cảm xúc cháy bỏng trong tình yêu ban đầu thường sẽ thay đổi theo thời gian, theo không gian, theo hoàn cảnh và tâm trạng con người. Trong khi đó tình yêu đích thực thì hệ tại ở mức độ gắn bó, hợp tác giữa hai người, trở thành một sức mạnh kỳ diệu nâng đỡ con người hoàn thành vai trò và nhiệm vụ vợ chồng trong gia đình.
Một tác giả đã đề cập chữ “Nghĩa”, tức là vấn đề hôn-nhân-trách-nhiệm, như sau: “Trách nhiệm của vợ chồng trong cuộc sống gia đình là chăm sóc nhau, cùng có trách nhiệm trong nuôi dạy con cái, làm việc nhà, đóng góp tài chính gia đình. Có thể nói, yếu tố khởi đầu tạo nên gia đình chính là hôn nhân. Từ quan hệ hôn nhân tạo nên các mối quan hệ khác. Trong đó, hôn nhân là yếu tố nền tảng tạo sự bền vững của gia đình. Để duy trì được cuộc hôn nhân bền vững, mỗi người khi làm vợ, làm chồng không chỉ giữ gìn và thắp lửa tình yêu, chia sẻ niềm vui, nỗi buồn mà còn có trách nhiệm, bổn phận với nhau và với chính cuộc sống mà cả hai cùng tạo dựng. Nghĩa vụ, trách nhiệm đó được thể hiện qua việc vợ chồng cùng chăm sóc nhau, cùng có trách nhiệm trong nuôi dạy con cái, làm việc nhà và đóng góp tài chính.” [8]
Ngày nay, khá nhiều đôi bạn coi trọng chữ Tình mà bỏ qua chữ Nghĩa. Chính vì lẽ đó mà tuổi thọ của đời sống hôn nhân của họ xem ra quá ngắn. Nếu xét về mặt tình cảm ta nói đến hôn-nhân-vô-cảm, thì ở đây ta liên tưởng tới hôn -nhân-vô-trách-nhiệm, nghĩa là đôi vợ chồng không tích cực chu toàn nghĩa vụ với nhau và với gia đình. Dân gian có câu “Vợ chồng như đũa có đôi”, có nghĩa đôi bạn là một nửa của nhau (0,5 + 0,5 = 1), một cặp với nhau và họ cam kết đồng hành với nhau trọn đời. Vậy thì không có lý gì mà họ lại sao nhãng, lơ là việc hợp tác với nhau trong mọi công việc trong gia đình. Đây là một sai lầm lớn mà nhiều bạn mắc phải.
Chúng ta nên nhớ rằng đôi bạn nào biết chia sẻ, gánh vác trách nhiệm chung với nhau trong gia đình thì sẽ biến gia đình ấy luôn là một tổ ấm lý tưởng. Thực tế cho thấy, nhiều bạn trẻ sau một thời gian ngắn kết hôn tỏ ra khá thất vọng vì vợ hay chồng không biết chia sẻ trách nhiệm chung gia đình. Người ta lấy lý do bận công việc làm ăn, bận giao tiếp ngoài xã hội nên không còn sức lực, thời gian lo việc nhà nữa. Thông thường thì người vợ phải gánh hết những nhiệm vụ trong gia đình, với danh nghĩa là “nội tướng”. Điều đó xét ra thiệt thòi cho nữ giới. Ông bà ta thường nói, “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm”. Điều đó không có nghĩa là trong gia đình có một sự phân công một cách cứng ngắc, cố định, mà đây chỉ hiểu là ai cũng có nhiệm vụ xây dựng, gánh vác việc chung trong gia đình, theo kiểu “Kẻ thì xay lúa, người thì bồng em”. Vợ chồng vì thế hãy tạo điều kiện để có thể làm việc với nhau để chu toàn trách nhiệm chung.
Như trên ta đã nhắc câu nói sau: “Trong hôn nhân, gặp nhau là bước đầu, sống chung với nhau là bước kế tiếp, làm việc chung với nhau mới làm nên một gia đình êm ấm” (James Thurber). Trong gia đình dường như lúc nào cũng có nhiều vấn đề phải giải quyết và đối phó, nếu hai bạn cùng hiệp lực, đồng tâm nhất trí nắm tay nhau thực hiện thì việc gì cũng xong. “Thuận vợ thuận chồng, tát bể Đông cũng cạn”. Sự thành công của hôn nhân không do tài năng của một người mà chính là do sự đồng tâm hiệp ý của cả hai người.
4. Tình và Nghĩa: chất keo gắn chặt hôn nhân
Như trên đã nói, một cuộc hôn nhân tốt đẹp, thành công, hạnh phúc thì không thể thiếu hai yếu tố Tình và Nghĩa được. Một cuộc hôn nhân trọn-tình và vẹn-nghĩa được sánh ví như một bông hoa đẹp vì sắc màu tươi thắm và sự hấp dẫn của mùi hương nồng nàn. Cái tình cái nghĩa nó quyện vào nhau như bóng với hình. Có bài thơ của người xưa thế này:
Muốn cho yên cửa, yên nhà / Chẳng gì hơn ở thuận hòa cùng nhau.
Dễ ai đội nón qua đầu, / Sao không nghĩ trước, nghĩ sau cho tầy.
Ái ân là nghĩa nặng thay! / Vợ chồng há phải một ngày dám quên.
Ở đời vô sự là tiên, / Mà điều êm đẹp hơn nơi cục cằn.
Chót đà cùng chiếu cùng chăn, / Lẽ nào con nhện mấy lần vương tơ. (Hồ Huyền Quy)
Một tác giả kinh nghiệm về đời sống hôn nhân gia đình đã nhận xét là trong hôn nhân luôn tồn tại chữ “Nghĩa” để người ta có thể níu chân nhau lại, giữ tay nhau thật chặt mà bước đi cùng nhau đến hết cuộc đời, bình lặng, an yên. Còn trong bài viết tựa “Tình và nghĩa: chất keo gắn chặt hôn nhân” trên trang tinmung.net, tác giả Trần Hữu Thuần đã bình luận như sau: [9]
“Trong các ngôn ngữ mà tôi được biết, có lẽ không có từ ngữ nào nói đến sự tương quan giữa hai người yêu nhau và chung sống với nhau chứa đựng nhiều ý nghĩa cho bằng cụm từ Tình Nghĩa Vợ Chồng của tiếng Việt chúng ta.
Tình là tình-yêu-đôi-lứa; Nghĩa là nghĩa-vợ-chồng. Hai thứ tình và nghĩa trộn lẫn lại làm thành phân bón, làm thành lương thực nuôi sống cuộc sống hôn nhân. Hôn nhân giữa đối thể và khách thể trong văn hoá Việt Nam chúng ta như thế khởi đầu bằng “Tình” và gắn bó bằng “Nghĩa”. Nàng Kiều khi phải bán mình chuộc cha biết “tình” nàng với chàng Kim giờ đây đã dứt, chỉ còn lại chút “nghĩa” cũng phải phụ phàng, nên đã nhờ cha nàng trả nghĩa:
Lạy thôi, nàng lại thưa chiềng,
Nhờ cha trả được nghĩa chàng cho xuôi. (Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Chút “Nghĩa” đó chính là nét đặc trưng trong nền văn hoá dân tộc chúng ta. Cha mẹ chúng ta thường khuyên bảo con cái: “Vợ chồng sống với nhau phải có tình có nghĩa”. Khi bình thường, an vui cũng như sầu khổ, vợ chồng sống với nhau bằng “Tình”. Khi một trong hai người bệnh hoạn tai ương, hoặc gây nên lầm lỗi, nếu tình yêu phôi pha hoặc không còn nữa, vợ chồng vẫn sống bên nhau bằng “Nghĩa”. Nói cách khác, tình là phần việc của con tim, nghĩa là phần việc của lý trí. Con tim và lý trí đi chung với nhau để cuộc sống vợ chồng bền chặt. Cũng vì thế, mức độ ly dị ngày trước trong hôn nhân Việt Nam gần như không có. Người chồng có thể hời hợt khi gặp người vợ không như ý bằng cách chung chạ với người khác, vợ lẽ nàng hầu, nhưng vẫn không bỏ bê người vợ đang làm buồn lòng mình. Người vợ khi gặp phải chồng không ưng ý, vẫn sống chung trong một mái nhà, cho dẫu nhiều khi không còn chung chăn chung gối, để gia đình không bị đổ vỡ, nhờ vào chút “Nghĩa Phu Thê”.
Chàng ơi phụ thiếp làm chi,
Thiếp là cơm nguội để khi đói lòng. (Ca dao)”
Có thể nói nếu đôi bạn duy trì được mãi mối tình sâu nghĩa nặng thì điều đó sẽ luôn là một tiền đề cho một cuộc hôn nhân hạnh phúc bền lâu. Điều đó cũng khẳng định một thực tế đáng khen ngợi, đó là đôi bạn đã phát huy được đức tính chung thủy trong đời sống vợ chồng. Chữ “Nghĩa” ngày nay cũng hiểu như là sự trung tín, trung thành (Loyalty) vậy.
LM Nguyễn Hữu Thy, trong cuốn “Những suy tư đúng đắn về Hôn nhân và Gia đình Công Giáo”, đã nêu lên ba yếu tố quan trọng nhất mà một cuộc sống hôn nhân Công Giáo cần phải có để bảo đảm được sự tồn tại và hạnh phúc của mình. Đó là tình yêu, sự chung thủy và phép lành của Thiên Chúa. Về sự chung thủy, tác giả viết như sau: [11]
“Lời thề hứa hoàn toàn tự nguyện của hôn nhân là một cam kết bó buộc và bất khả tháo gỡ đối với các đôi vợ chồng. Tính chất đặc thù này của lời thề hứa hôn nhân hoàn toàn không phải là một gánh nặng bất khả kham, nhưng là một phương tiện hữu hiệu giúp cho các đôi vợ chồng rèn luyện và thăng tiến được chính con người mình cũng như bảo đảm cho cuộc sống hôn nhân của họ được bền vững trước các sóng gió cuộc đời. Chính nữ triết gia Hannah Arendt đã nhận định: Nếu không bị bó buộc phải thực thi các lời đã hứa, ta sẽ không khi nào duy trì được các căn tính của ta và bị giằng co xâu xé bởi đủ thứ mâu thuẫn…”
Ở đoạn kết thúc phần nói về sự chung thủy trong hôn nhân, tác giả nhấn mạnh như sau: “Sự chung thủy hôn nhân không chỉ giới hạn trong phạm vi sự chung thủy về tính dục, nhưng còn bao hàm trong hành động cụ thể của bản thân mỗi người nữa, đó là họ phải luôn công khai bày tỏ một cách dứt khoát: Tôi thuộc về vợ/ chồng tôi. Sự chung thủy hôn nhân đòi tôi phải thực sự tôn trọng vợ/ chồng tôi. Sự chung thủy hôn nhân đòi tôi phải quan tâm tới điều chính đáng mà vợ/ chồng tôi cần tới và mong ước. Sự chung thủy hôn nhân đòi hỏi phải luôn biết tận tâm an ủi và nâng đỡ người vợ/ chồng của mình. Sự chung thủy hôn nhân đòi hỏi phải luôn biết cầu nguyện cho nhau và biết tín thác cuộc sống lứa đôi của mình cho sự quan phòng đầy yêu thương và phép lành của Cha trên trời.” ./.
___________________
[1]https://thanhnien.vn/gia-dinh-tre-viet-ngay-cang-thieu-su-gan-bo-va-ben-vung-post1503856.html?utm_source=dable
[2] LM Giuse Đinh Lập Liễm – Bài Nghĩa Tào Khang – Chia sẻ Lời Chúa trong thánh lễ HP – NXB Đồng Nai 2017 trang 685
[3]https://giadinh.suckhoedoisong.vn/gia-tri-cua-chu-tinh-chu-nghia 172110627052153106.htm
[4] LM Giuse Đinh Lập Liễm – Bài Chung lưng đấu cật – Chia sẻ Lời Chúa trong thánh lễ HP – NXB Đồng Nai 2017 trang 469-470
[5] Alpha Books – Bài đd – NXB LĐ-XH năm 2018 trang 21
[6] Đức thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II, Tông huấn FC, số 11
[7] https://doanhnhanplus.vn/khi-hon-nhan-khong-co-tinh-yeu-372231.html
[8]http://giadinh.bvhttdl.gov.vn/trach-nhiem-cua-vo-chong-trong-cuoc-song-gia-dinh-cham-soc-nhau-cung-co-trach-nhiem-trong-nuoi-day-con-cai-lam-viec-nha-dong-gop-tai-chinh-gia-dinh/
[9] http://www.tinmung.net/GIADINH/QuanHeVoChong/2011/07/Tinh-va-nghia.htm
[10] Đức thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II, Tông huấn FC, số 21
[11] LM Nguyễn Hữu Thy – Những suy tư đúng đắn về Hôn nhân và Gia đình Công Giáo – TTMVCG.VN Gp Trier CHLB Đức năm 2012 trang 90-92
2023
Những lần Chúa Giêsu hiện ra trong sách Tân Ước
Chúng ta đang sống trong mùa Phục sinh. Giáo hội dành bảy Chúa Nhật để mừng trọng thể biến cố này. Đây là tâm điểm của đức tin Công giáo. Thật thú vị nếu chúng ta lật lại những trang Tin Mừng về những lần Chúa hiện ra. Con số 12 một lần nữa nói cho chúng ta nhiều điều. Như là ý nghĩa của tròn đầy, phải chăng 12 lần hiện ra này đủ để các môn đệ và chúng ta tin vào mầu nhiệm Phục sinh. Ước sao….!
1. Ngôi mộ trống ở Giêrusalem
Mộ trống không có ý chứng minh mạnh mẽ để nói về Chúa phục sinh, nhưng đây là dấu chỉ đầu tiên. Số là ngày thứ nhất trong tuần, bà Maria Macđala và vài người phụ nữ ra mộ Chúa để sức dầu thơm theo tục lề ngày đó (Mc 16,1-8). Tuy trời còn tối, nhưng họ cũng nhận ra ai đó đã lăn tảng đá lấp cửa mồ[1]. Họ đến gần và nhìn vào trong mộ thì thấy hai thiên thần. Các thiên thần đã nói về biến cố Chúa Giêsu đã sống lại. Các thiên thần còn căn dặn các bà về thuật lại cho các môn đệ những gì đã nghe và đã thấy. Nhất là nhớ nói với các môn đệ trở về Galilê, vì Chúa Phục sinh đang chờ các ngài ở đó.
Từ đây, Tin mừng phục sinh bắt đầu nhen nhóm và mỗi ngày một bùng phát, nhất là sau những lần Chúa Giêsu hiện ra tiếp theo.
2. Đức Giêsu hiện ra với bà Maria Magdalena
Là người được Chúa chữa lành khỏi bảy quỷ, Maria Magdalena luôn theo sát Chúa, kể cả trong cuộc khổ nạn. Hôm an táng xác thầy, Maria cũng chứng kiến. Sau kỳ nghỉ lễ Vượt Qua, Maria vội vã đến mộ từ sáng sớm. Nơi đây Chúa Giêsu đã hiện ra với bà, nhưng bà tưởng là người làm vườn (Ga 20,11-18). Chỉ khi Chúa gọi đúng tên bà, bà mới quay lại và thưa: “Raboni, nghĩa là lạy thầy.” Bà đã gặp Chúa phục sinh mặt giáp mặt. Niềm vui vô bờ. Chúa phục sinh cũng giao cho bà một sứ mạng loan tin vui này, trước là cho các môn đệ, sau là cho mọi người. Maria đã hoàn thành xuất sắc sứ vụ Chúa trao.
3. Chúa hiện ra với các phụ nữ ở Giêrusalem
Chúng ta không chắc nhóm phụ nữ này có phải là những người đã gặp Chúa Giêsu trên đường thương khó không! (Lc 23,26-28). Tuy nhiên, Tin mừng Mátthêu ghi lại một lần Đức Giêsu đón gặp các bà và nói: “Chào chị em!”. Các bà đã nhận ra thầy Giêsu, tay bắt mặt mừng. Chúa vẫn cùng một sứ điệp nhắn với các bà: “Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Galilê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó.” (Mt 28,10).
Họ lên đường loan tin vui, trước là cho các môn đệ, sau là cho gia đình và bà con họ hàng của họ.
4. Hiện ra với hai môn đệ trên đường Emmau
Đây là lần hiện ra tương đối nổi tiếng! Nói như thế vì thánh sử Luca đã ghi lại khá chi tiết lần hiện ra này (Lc 24,13-35). Như các môn đệ khác, hai người quê gốc ở Emmau đã buồn sầu khăn gói về nhà. Trên đường, người khách bộ hành đã đến trò chuyện với họ. Chúng ta không biết vì sao hai ông lại không nhận ra Chúa phục sinh. Dẫu sao Đức Giêsu đã đồng hành, gợi chuyện và chia sẻ với họ nhiều điều liên quan đến Chúa phục sinh.
Khi gần về đến nhà, họ mời Đức Giêsu ở lại, vì trời đã xế chiều. Trong bữa tối, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho các ông. (Lc 28,30). Lúc này mắt các ông sáng lên và liền nhận ra Đức Giêsu phục sinh. Nhưng Chúa liền biến mất.
Tuy các ông không nhận sứ mạng loan tin phục sinh, nhưng lòng đầy niềm vui, các ông tìm gặp các môn đệ khác. Họ đã đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu để loan tin Chúa sống lại, cho nhau và cho muôn người.
5. Chúa hiện ra với 11 môn đệ ở Giêrusalem
Đây là lần hiện ra khá đặc biệt. Số là các môn đệ đang hoang mang cùng cực. Ai cũng sợ giới lãnh đạo Do Thái. Họ ở trong nhà trong buồn sầu bất an. Chính bối cảnh này, Chúa Giêsu đã hiện ra và trao ban bình an cho các ông. (Lc 24,36).
Lần này Chúa nói với các môn đệ một sứ mạng rất quan trọng: “Chính anh em là chứng nhân về những điều này.” (Lc 24,48). Nghĩa là các môn đệ được mời gọi loan truyền tin mừng phục sinh.
6. Chúa hiện ra với Tôma
Lần khác Tin Mừng thánh Gioan kể về lần hiện ra của Chúa với các môn đệ, nhưng thiếu ông Tôma (Ga 20,19-25). Lúc Tôma trở về, các môn đệ hớn hở báo tin vui, nhưng Tôma không tin[2].
Tám ngày sau, Chúa hiện ra với các môn đệ, lần này có cả Tôma. Chúa cho ông xem lỗ đinh, cạnh sườn và đề nghị ông hãy kiểm chứng và hãy tin. Tôma đã gặp Chúa Phục sinh và thưa rằng: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con.” (Ga 20,28). Nghĩa là ông đã tin[3].
Lần này Chúa phục sinh còn nhắn với chúng ta một tin mừng lớn hơn: “Phúc cho những ai không thấy mà tin.” (Ga 20, 29).
7. Chúa hiện ra với các môn đệ khi họ đang dùng bữa
Chúng ta không biết chính xác những lần Chúa hiện ra với các môn đệ nơi các thánh sử có trùng lặp không? Tuy vậy, theo thánh sử Máccô, lúc nhóm Mười Một đang dùng bữa, thì Chúa Giêsu tỏ mình ra. Thay vì ban bình an như những lần khác, Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng. (Mc 16,14).
Dẫu sao Chúa phục sinh cũng trao cho các ông một sứ mạng rất cụ thể: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo.” (Mc 16,15). Vậy là họ ra đi, Giáo hội lớn mạnh theo những lời loan báo và làm chứng của các môn đệ[4].
8. Chúa hiện ra trên biển hồ Tibêria
Các môn đệ lúc này ít nhiều đã tin rằng Thầy mình đã sống lại. Họ về Galilê để tiếp tục làm nghề đánh cá. Lúc này, Phêrô muốn đi đánh cá và các môn đệ còn lại cũng đi theo. Họ thả lưới suốt đêm mà không được con cá nào, dù vài người trong số họ chuyên nghề chài lưới.
Lúc trời còn tinh mơ, Chúa Giêsu đã hiện ra và hỏi họ: “Các con không có gì ăn sao?”. Sau câu trả lời buồn sầu, Chúa nói các ông hãy thả lưới ở mạn thuyền bên phải. Kết quả là họ có một mẻ lưới đầy cá. Với sự kiện này, Gioan đã nhạy bén nhận ra Chúa phục sinh đang trò chuyện với họ. Gioan nói với Phêrô: “Chúa đó.” (Ga 21,7). Dường như Phêrô cũng nhận ra Chúa, nên mới nhanh chóng bơi vào bờ để gặp Thầy mình.
Trên bờ, Chúa phục sinh đã chuẩn bị than hồng để các ông nướng cá. Ăn sáng xong, Chúa hỏi Phêrô ba lần rằng: “Này anh Simon, con ông Gioan, anh có yêu mến thầy không?” Sau ba lần thưa có, Phêrô chính thức được Chúa trao cho sứ vụ chăm sóc đàn chiên của Chúa. Có thể nói từ đây, vị giáo hoàng đầu tiên đã dẫn dắt Giáo hội bước đi trên con đường tình yêu của Thiên Chúa phục sinh.
9. Chúa hiện ra ở trên núi với các môn đệ
Lần khác theo lời của Chúa phục sinh, các ông đi lên núi. Chúa phục sinh đã chờ họ ở trên đó. Khi thấy Chúa, các ông đã bái lạy, nhưng có mấy ông vẫn chưa tin. (Mt 28,17). Dẫu sao lần này Chúa nói rất rõ sứ mạng dành cho các ông: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ…” (Mt 28,19).
Điều thú vị là sau lần sai đi này, Chúa phục sinh hứa sẽ ở cùng các ông mọi ngày cho đến tận thế. (Mt 28,20). Chúa phục sinh cũng đang ở với mỗi người chúng ta, ở đây và lúc này[5].
10. Chúa hiện ra với 500 người
Mấy năm nay tại Việt Nam, “500 anh em” đã trở nên “trend-xu hướng” nổi tiếng. Tuy nhiên, trong Tân Ước, có lần thánh Phaolô “không đu theo trend ☺”, nhưng ghi nhận rằng: “Chúa phục sinh đã hiện ra với hơn 500 anh em một lượt, trong số ấy phần đông hiện nay còn sống.” (1 Cr 15,6). Thánh Phaolô không phải là các Tông Đồ. Ngược lại, Phaolô ra sức bắt bớ những ai tin vào Chúa phục sinh. Trên đường bách đạo, biến cố ngã ngựa đã giúp Phaolô loan báo tin mừng[6]. Khi giải thích về người chết sống lại cho các tín hữu ở Côrintô, thánh nhân đã đề cập đến sự kiện Chúa hiện ra với nhiều người trong số họ.
11. Đức Giêsu hiện ra với Giacôbê và Phaolô
Tiếp mạch văn diễn giảng về biến cố kể chết sống lại, thánh Phaolô còn cho biết Chúa Giêsu đã hiện ra với Giacôbê và với chính thánh nhân nữa. (1 Cr 15,17). Lần hiện ra với Giacôbê chúng ta không biết chi tiết. Ngược lại, trên đường đi Đamat, Chúa hiện ra với Phaolô lại được kể nhiều hơn. Lần đó Chúa phục sinh đã biến đổi Phaolô để trở nên người loan báo tin mừng vĩ đại ở mọi thời.
12. Chúa phục sinh lên trời
Lần cuối cùng chúng ta thấy Chúa phục sinh hiện ra với các môn đệ để chia tay. Chúa tạm biệt các ông để về trời. Thánh Luca cho biết địa điểm này ở Núi Cây Dầu (Cv 1,12). Lúc này thầy Giêsu phục sinh đã giúp các ông đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện và sẵn sàng loan báo tin vui cứu độ (Cv 1,14). Trên ngọn núi ngày hôm đó, Đức Giêsu một lần nữa nhắc lại ngày Chúa Thánh Thần sẽ đến với các ông. Chỉ khi đó, các ông mới thực sự trở nên nhân chứng cho Chúa phục sinh trong các vùng thiên hạ, tận cùng trái đất.
Lần này Chúa phục sinh không trao sứ mạng cho các ông, nhưng giơ tay chúc lành (Lc 24,44-53). Sau đó, Đức Giêsu được cất lên ngay trước mắt các ông và có đám mây quyện lấy Người. Chúng ta có thể tưởng tượng được các môn đệ sau lần này, các ông túa ra các nẻo đường để loan báo tin mừng Chúa đã phục sinh.
Tạm kết
Trên đây là chút lượt lại những lần Chúa phục sinh đã hiện ra mà Tin mừng đã ghi lại. Mỗi lần hiện ra, Chúa Giêsu đều trao một sứ mạng nào đó. Người gặp Chúa phục sinh cũng dần tin vào mầu nhiệm này. Chắc chắn Chúa không chỉ hiện ra với những nhân vật trên đây, nhưng cũng muốn đến gặp gỡ từng người. Ước gì mỗi người cũng để mầu nhiệm phục sinh chạm đến cuộc đời mình. Hoặc nếu lúc nào đó bạn hoang mang về niềm tin của mình, thật quý để bạn chiêm ngắm mầu nhiệm phục sinh. Đó là nền tảng cho mọi điều chúng ta tin. Nói như lời Đức Bênêđictô XVI:
“Biến cố Chúa Giêsu chết và sống lại trở thành tâm điểm của Kitô giáo. Đó là điểm tựa cho đức tin của ta, là đòn bảy mạnh mẽ cho tin tưởng vững chắc của ta, là luồng gió mạnh quét sạch mọi sợ hãi, và lưỡng lự, mọi hồ nghi và tính toán của loài người.”
Lm. Giuse Phạm Đình Ngọc SJ
WHĐ (19.04.2023)
[1] Đọc thêm: Mt 28,1-20, Lc 24,1-12, Ga 20,1-10.
[2] https://dongten.net/suy-tu-tin-mung-cn2-psa-long-thuong-xot-cua-chua-phuc-sinh/
[3] Đọc thêm: Lc 24,36-53.
[4] Đọc thêm: Ga 20,26-31 và 1 Cr 15,5.
[5] Đọc thêm Mc 16,15-20
[6] https://www.tonggiaophanhanoi.org/cu-nga-ngua-lich-su-le-thanh-phao-lo-tong-do-tro-lai/