2023
Yếu đuối thành sức mạnh
Yếu đuối thành sức mạnh
“Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh”; “sức mạnh được hoàn hảo trong sự yếu đuối”. Những câu như thế thường được trích làm chìa khóa cho sự trưởng thành tâm linh, nhưng chúng ta có thật sự hiểu những câu đó muốn nói gì không? Có ai hiểu được không?
Có. Nếu chúng ta không thể hiểu gì về điều đó, Thiên Chúa đã không nói về nó cho chúng ta. Thiên Chúa không phí lời. Đó là một mầu nhiệm vĩ đại, nhưng mầu nhiệm không phải là điều chúng ta không thể hiểu, nhưng là điều chúng ta không thể hiểu được bằng lí trí của mình, khi không có sự mặc khải của Thiên Chúa. Đó cũng là điều chúng ta không thể hiểu hết, nhưng là điều chúng ta có thể hiểu được một phần. Hiểu được một phần không hoàn toàn là bóng tối. “Chúng ta nhìn qua một tấm kính, cách lờ mờ”.
Chìa khóa để hiểu mầu nhiệm sức mạnh được hoàn hảo trong sự yếu đuối là thập giá của Chúa Kitô. Không có thập giá, nó không phải là mầu nhiệm nhưng là sự phi lí, là bóng tối.
Nhưng những người không phải Kitô hữu như Lão Tử, nhà thần bí và thi sĩ vĩ đại Trung Hoa, dường như đã hiểu mầu nhiệm sức mạnh được hoàn hảo trong sự yếu đuối khá sâu sắc, ít nhất trong một số khía cạnh của nó, mà không cần biết đến Chúa Kitô hay thập giá.
Có lẽ họ hiểu một mầu nhiệm tương tự và có liên quan nhưng không hoàn toàn giống. Hoặc có lẽ họ hiểu điều đó qua Đức Kitô và thập giá của Người, mặc dù một cách không ý thức và rõ ràng. Làm sao chúng ta biết ranh giới của thập giá kéo dài đến đâu? Vòng tay của thập giá rất rộng. Đức Kitô là “ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1,9) bằng mặc khải tự nhiên, sự khôn ngoan tự nhiên và luật tự nhiên được lương tâm nhận biết. Khi một vị Lão Tử, hoặc một Socrates, hoặc một Đức Phật thâm hiểu một chân lí vĩnh cửu, các vị ấy làm được vậy là nhờ ánh sáng của Đức Kitô, Ngôi Lời vĩnh cửu, Người là Lời trước khi nhập thể hay là sự mặc khải của Thiên Chúa. Ngài vẫn là đấng (ngôi vị) ấy, nhưng không mang bản tính nhân loại, nhập thể.
Tất cả chân lí là chân lí của Ngài. Nhưng Chúa Giêsu nhập thể là mặc khải dứt khoát của Thiên Chúa, là gương mặt của Thiên Chúa hướng về chúng ta trong sự thân mật tột cùng. Chúng ta biết nhiều về một người thông qua gương mặt của người đó hơn là lưng hoặc bàn chân của họ. Vì vậy, chúng ta hãy nhìn vào mặc khải chung cuộc, dứt khoát và trọn vẹn ấy của Thiên Chúa mà chúng ta hiện có ‒ Đức Kitô và thập giá của Người ‒ để cố gắng làm sáng tỏ nghịch lí về sức mạnh đến từ sự yếu đuối. Câu hỏi của chúng ta là: Làm sao sự yếu đuối lại làm cho chúng ta mạnh mẽ nhờ thập giá? hoặc, làm sao sự yếu đuối của thập giá làm cho chúng ta mạnh mẽ?
Đây là hai câu hỏi, chứ không phải một. Câu thứ nhất có tính lí thuyết và không thể trả lời. Câu thứ hai có tính thực tế và có thể trả lời.
Câu hỏi thứ nhất là: Nó hoạt động như thế nào? Bằng kĩ thuật tâm linh, siêu nhiên nào mà cỗ máy là sự yếu đuối tạo ra sản phẩm là sức mạnh? Thập giá hoạt động như thế nào?
Các nhà thần học đã nghiên cứu về điều đó trong gần hai nghìn năm, và không có sự đồng thuận rõ ràng trong Kitô giới, không có câu trả lời rõ ràng đầy đủ, chỉ có những điều loại suy. Phép loại suy lành mạnh của Thánh Anselmô là sự dữ chiếm hữu chúng ta và Đức Kitô đã trả giá để chuộc chúng ta về. Các Giáo phụ đầu tiên đã đưa ra một phép loại suy như trận chiến vũ trụ: Đức Kitô đã xâm chiếm lãnh thổ bị kẻ thù chiếm đóng – trước hết là mặt đất, sau đó, vào Thứ Bảy Tuần Thánh, đến âm phủ, và đánh bại ma quỷ cùng các thế lực tội lỗi và sự chết của hắn. Khi đó có một Chủ nghĩa thực tiễn Mỹ mang tính đơn sơ thú vị của mục sư thuộc Southern Free Will Baptist cho rằng: “Satan bỏ phiếu chống lại bạn, và Chúa Giêsu bỏ phiếu ủng hộ bạn, còn bạn đưa ra lá phiếu quyết định”. Những ẩn dụ này hữu ích, nhưng chúng chỉ là những biểu tượng, những sự tương tự thôi. Chúng ta hầu như không biết cách thức hoạt động của điện, làm sao chúng ta có thể biết sự cứu chuộc hoạt động như thế nào?
Tuy nhiên, câu hỏi thứ hai có thể trả lời chắc chắn hơn. Đó là câu hỏi thực tế: Tôi phải sống như thế nào; Tôi nên cư xử như thế nào liên quan đến sự yếu đuối? Tôi nên thể hiện thập giá như thế nào trong cuộc sống của tôi? Bởi vì thập giá ở ngay trong cuộc sống của tôi. Nó không phải là một điều kì dị mà là một sự thật phổ quát đã nhập thể, không chỉ là một sự kiện chỉ xảy ra một lần là xong ở bên ngoài tôi trong không gian và thời gian, ở Israel vào năm 29 Công nguyên, cách tôi 8.000 dặm và 2.000 năm, nhưng đó cũng là một sự kiện đang tiếp diễn bên trong tôi, hay đúng hơn tôi ở trong đó.
Có hai sai lầm ngang nhau và trái ngược nhau khi trả lời câu hỏi này: Tôi sẽ thể hiện mầu nhiệm thập giá này như thế nào trong cuộc đời tôi? Đó là chủ nghĩa nhân văn và chủ nghĩa ẩn dật, chủ nghĩa hiếu động và chủ nghĩa thụ động. Chủ nghĩa nhân văn nói rằng tất cả đều là hành động của con người, rằng chúng ta phải tranh đấu và vượt qua sự yếu đuối, thất bại, thua thiệt, bệnh tật, cái chết và đau khổ. Chúng ta phải vượt qua thập giá. Nhưng rốt cuộc chúng ta không bao giờ vượt qua được. Chủ nghĩa nhân văn là Don Quixote phóng ngựa đối đầu với xe tăng.
Chủ nghĩa ẩn dật, hay thuyết định mệnh, quan niệm một cách đơn giản là: Hãy chịu đựng nó, hãy chấp nhận nó. Nói khác đi, đừng là con người. Hãy đi “nhẹ nhàng vào đêm tối tốt lành đó”, đừng “tức giận, nổi xung vì ánh sáng lụi tàn”.
Kitô giáo còn nghịch lí hơn chủ nghĩa nhân văn và thuyết định mệnh ‒ chủ nghĩa nhân văn cứ vậy mà chối bỏ; còn thuyết định mệnh thì cứ vậy mà chấp nhận. Có một nghịch lí kép trong câu trả lời của Kitô giáo về sự nghèo khó, đau khổ và cái chết. Sự nghèo khó phải được chống lại và giảm bớt, nhưng nó là mối phúc. Giúp đỡ người nghèo thoát khỏi sự tàn phá của sự nghèo khó là một trong những nhiệm vụ thiết yếu của Kitô hữu. Nếu chúng ta chối bỏ sự khó nghèo, chúng ta không phải là Kitô hữu, chúng ta không được cứu độ (Mt 25, 41-46). Tuy nhiên, chính những người giàu có mới là những người cần được thương xót và đáng thương, như Mẹ Têrêsa đã nói với Harvard những lời gây sửng sốt: “Đừng gọi đất nước của tôi là một nước nghèo. Ấn Độ không phải là nước nghèo. Mỹ là nước nghèo, một nước nghèo về tinh thần”. Người giàu khó được cứu rỗi (Mt 19,23), trong khi những người có tâm hồn nghèo khó, nghĩa là những người vui lòng nghèo khó, những người không dính bén của cải, thì được chúc phúc (Mt 5,3).
Cũng thấy được thái độ bộ đôi đầy nghịch lí ấy trong Kitô giáo đối với cái chết. Cái chết một mặt là sự dữ lớn lao, là “kẻ thù cuối cùng” (Cr 15,26), là dấu vết và hình phạt của tội lỗi. Đức Kitô đến để đánh bại nó. Tuy nhiên, cái chết cũng là cánh cửa dẫn đến sự sống đời đời, dẫn vào thiên đàng. Đó là cỗ xe ngựa vàng do vị vua vĩ đại gửi đến đón cô dâu Lọ Lem của ngài.
Đau khổ cũng là một nghịch lí. Một mặt nó cần được xoa dịu, mặt khác nó là mối phúc. Các thánh là thánh chủ yếu vì hai lí do: họ có tình yêu anh hùng và lòng trắc ẩn đối với những người thân cận, nghĩa là, họ cống hiến hết mình để xoa dịu những nỗi đau khổ của người khác. Nhưng họ cũng yêu mến Thiên Chúa đến nỗi họ chấp nhận và dâng hiến những đau khổ của riêng mình một cách anh dũng và thậm chí còn lấy làm vui nữa. Họ vừa chiến đấu với đau khổ vừa chấp nhận đau khổ. Họ năng động hơn những người theo chủ nghĩa nhân văn và dễ chấp nhận hơn những người theo chủ nghĩa ẩn dật. Cả ba ‒ nghèo khó, cái chết và đau khổ ‒ đều là những hình thức của sự yếu đuối. Vấn đề yếu đuối là vấn đề chung và phổ quát hơn. Chẳng hạn, sự đau khổ tự nó không phải là không chịu đựng được như sự yếu đuối, vì chúng ta sẵn sàng chịu lấy những đau đớn như việc sinh con chỉ với điều kiện chúng được chọn lựa cách tự do, trong khả năng của chúng ta ‒ nhưng ngay cả những nỗi đau và bất tiện nhỏ, như trễ chuyến bay hay bị dầm đâm ngón tay, cũng khiến chúng ta cảm thấy quá sức chịu đựng nếu chúng được áp đặt lên chúng ta ngược lại ý muốn của chúng ta. Chúng ta thà chạy một dặm cách tự do còn hơn bị buộc phải chạy một dãy nhà. Kierkegaard nói: “Nếu tôi có một người đầy tớ khiêm tốn, khi tôi xin anh ta một li nước, thay vào đó, anh mang đến những loại rượu đắt tiền trên thế giới được rót vào một cái li đúng kiểu, tôi sẽ sa thải anh ta, để dạy anh rằng niềm vui thực ở chỗ làm theo cách của riêng tôi”.
Alfred Adler là môn đệ lập dị của Freud đã rời bỏ thầy của mình vì vấn đề trung tâm này: đâu là mong muốn cơ bản nhất của con người; Adler đã khám phá ra đó không phải là thú vui, như Freud nghĩ, mà là sức mạnh.
Ngay cả Thánh Tôma Aquinô cũng ngầm đồng ý, vì khi ngài xem lại và loại bỏ tất cả những ứng viên không thích hợp và có vẻ thần tượng cho vị trí hạnh phúc tối cao của con người, tất cả những thứ chúng ta theo đuổi thay vì Thiên Chúa, ngài nhận xét rằng chúng ta bị quyền lực thu hút bởi vì nó có vẻ thần thánh nhất. (Tuy nhiên, điều này dễ gây lầm lẫn vì quyền năng của Chúa là sự tốt lành của Ngài). Quyền lực là câu trả lời của Thánh Augustinô về lí do ngài đi ăn trộm những quả lê cứng, không ăn được và không bán được khi còn là một cậu bé. Cái ngài muốn không phải là niềm vui hay tiền bạc mà là quyền lực, quyền lực để không bị đặt dưới luật “ngươi không được trộm cắp”, quyền lực để bất tuân luật pháp và dường như thoát khỏi nó. Chúng ta khổ sở dưới sự ràng buộc.
À, nhưng bản chất của chúng ta là sự ràng buộc. Nói cho cùng, chúng ta chỉ là những thọ tạo, không phải là người sáng tạo; hoàn toàn hữu hạn, không vô hạn; phải chết, không bất tử; ngu dốt, không biết tất cả. Tất cả những điều này là các hình thức của sự yếu đuối, chúng không phải là những điểm yếu ngẫu nhiên và có thể tránh được mà là những điểm yếu bẩm sinh và cần thiết cho chính con người chúng ta với tư cách là những thụ tạo. Khi bực bội với những hạn chế của sự yếu đuối, chúng ta bực bội với chính con người mình.
Thậm chí trước khi chúng ta bắt đầu cố gắng thoát khỏi vấn đề của chúng ta về sức mạnh từ sự yếu đuối, trước tiên chúng ta phải nhìn vào trong đó cách sâu hơn và rõ ràng hơn. Có ba nhược điểm liên quan nhưng khác biệt cần xem xét.
Trước tiên, có sự yếu đuối do đứng thứ hai, đóng vai phụ, đáp ứng thay vì khởi xướng, theo sau thay vì dẫn đầu, vâng lời thay vì ra lệnh. Chúng ta có bực tức chống lại điều này thì quả là chuyện hoàn toàn ngu xuẩn, vì chính Thiên Chúa cũng có sự yếu đuối này! Từ muôn đời Chúa Con vâng phục Chúa Cha. Điều gì Ngài làm trên trần gian, Ngài đã làm trong cõi vĩnh hằng. George MacDonald đã trình bày như sau: “Ngài đã làm, trong thời tiết gay gắt ở những vùng xa xôi, điều Ngài đã làm từ đời đời nơi quê nhà trong vinh quang”. Chưa có ai từng vâng phục hơn Đức Kitô.
Do đó, vâng lời không phải là dấu hiệu của sự thấp kém. Đáp ứng, hát bè, đóng vai phụ, không hạ thấp phẩm giá, vì Đức Kitô, Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, là Đấng vâng lời hoàn hảo. Trong đó, chúng ta có một trong những cuộc cách mạng đáng kinh ngạc và triệt để nhất mà thế giới đã từng được nghe, và vẫn chưa hiểu. Phụ nữ vẫn phẫn nộ vì là phụ nữ, nghĩa là, về mặt sinh học phải tiếp nhận sự thụ tinh của nam giới, cần sự bảo vệ và lãnh đạo của nam giới, bởi họ nghĩ điều này khiến họ thấp kém hơn. Trẻ con khó chịu phải vâng lời cha mẹ, và công dân khó chịu phải phục tùng chính quyền dân sự, vì cùng một lí do: họ nghĩ rằng sự vâng lời đánh dấu sự kém cỏi của họ. Không phải vậy.
Đức Kitô trước đến giờ ngang hàng với Chúa Cha trong mọi sự; nhưng Đức Kitô đã vâng lời và thậm chí bây giờ vẫn đang vâng lời Chúa Cha. Có vai trò khác nhau không có nghĩa là khác nhau về giá trị. “Sự yếu đuối” của sự vâng phục không đến từ sự thấp kém mà đến từ sự bình đẳng về giá trị.
Con cái cũng phải vâng lời cha mẹ. Tuy nhiên, con cái không thua kém cha mẹ về đạo đức hay tâm linh. Mệnh lệnh phải vâng lời không hạ thấp phẩm giá nhưng giải phóng ‒ nếu chúng ta đang nói về sự vâng phục “trong Đức Kitô”. Trên thế giới, quyền lực thống trị, và kẻ mạnh đặt mình lên trên kẻ yếu. Ở đó, vâng phục thực sự là dấu hiệu thấp kém về quyền lực. Nhưng không phải trong Hội Thánh. Ở đây, mọi thứ khác hẳn: “Anh em biết: thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20, 25-28).
Chúa Giêsu ngang hàng với Chúa Cha, nhưng Ngài vâng phục. Nếu sự kiện đơn giản nhưng có tính cách mạng đó được hiểu và đánh giá đúng, chúng ta sẽ có một thế giới mới ‒ không phải thế giới nô lệ và áp bức cổ xưa, cũng không phải thế giới Phương Tây hiện đại bị mất gốc và rối loạn, cào bằng trái tự nhiên và đầy cạnh tranh vì oán hận. Thay vào đó, chúng ta sẽ có tình thương.
Tình thương làm nên sức mạnh. “Sự yếu đuối” của Đức Kitô trong sự vâng phục Chúa Cha đã làm cho Người mạnh mẽ vì đó là sự vâng phục vì thương. Nếu Đức Kitô đã không vâng theo ý muốn của Đức Chúa Cha, khi Satan cám dỗ Người trong hoang địa, Ngài sẽ mất sức mạnh, như Samson, và yếu ớt chịu thua kẻ thù của mình. Sự vâng phục là một dấu hiệu của thiên tính nơi Người. Chúng ta cũng vậy: nếu chúng ta hoàn toàn vâng phục Chúa Cha, chúng ta được biến đổi thành những người dự phần vào bản tính Thiên Chúa. Bởi vì sự hối cải, đức tin và phép rửa tội, ba công cụ giúp cho sự biến đổi đó, đều là những hình thức vâng phục. Chúng ta được truyền phải hối cải, tin tưởng và chịu phép rửa.
Hình thức thứ hai của “sự yếu đuối” chỉ dành riêng cho chúng ta, không phải cho Đức Kitô, nhưng hình thức thứ hai này cũng không phải để gây khó chịu. Đó là sự hữu hạn của chúng ta, là thuộc tính thọ tạo của chúng ta. Chúng ta được tạo dựng. Do đó, chúng ta phụ thuộc vào Thiên Chúa về mọi thứ, về chính sự tồn tại của chúng ta và tất cả những gì phát sinh từ đó. Không có gì chúng ta có là của riêng chúng ta bởi vì chính con người chúng ta không phải là của chúng ta. Thiên Chúa sở hữu chúng ta. (Vì vậy, tự tử là hành vi trộm cắp). Chúng ta không có quyền vượt lên trên Thiên Chúa. Không có tạo vật nào, kể cả tổng lãnh thiên thần vĩ đại nhất, vượt trên Thiên Chúa.
Không có thụ tạo nào là toàn năng, cũng không có thụ tạo nào hoàn toàn bất lực. Ngay cả một thiên thần cũng không thể tạo ra vũ trụ hay cứu rỗi một linh hồn, và ngay cả một hạt cát cũng có thể thể hiện Thiên Chúa, có thể chọc tức một ngón chân và một bộ não, và có thể quyết định một trận đánh và một cuộc chiến.
Ngay cả trong cõi vĩnh hằng không một thọ tạo nào có thể làm cạn kiệt và khám phá hết tình thương của Ngài. Thiên Chúa sẽ luôn luôn hơn nữa. Chúng ta sẽ không bao giờ mất đi niềm vui vô song do sự khiêm tốn, và do sự tôn sùng. Thật ngớ ngẩn làm sao khi lấy làm bực bội vì “sự yếu đuối” đó.
Và thật ngớ ngẩn khi oán trách cách Thiên Chúa và thiên nhiên bù đắp cho sự yếu đuối đó, bằng sự phụ thuộc lẫn nhau, liên đới, hợp tác, vị tha. Chúng ta mang gánh nặng cho nhau, như vậy là chu toàn luật Đức Kitô (Gl 6,2). Tôi nghĩ cụm từ “luật của Đức Kitô” có nghĩa lớn hơn tuân theo các lệnh truyền của Đức Kitô; tôi nghĩ nó có nghĩa là sống sự sống của Đức Kitô. Tôi nghĩ luật của Chúa Kitô giống như luật trọng lực hơn là luật của vùng đất này. Những quả táo rơi hoàn thành luật trọng lực, còn việc mang gánh nặng cho nhau hoàn thành luật của Đức Kitô.
Hôn nhân là ví dụ hàng đầu của việc mang gánh nặng cho nhau. Đàn ông cần đàn bà, như Thiên Chúa đã tuyên bố lúc tạo dựng: “Đàn ông ở một mình thì không tốt” (St 2,18). Còn đàn bà cần đàn ông. Ngày nay, cả đàn ông lẫn đàn bà thường hay oán ghét nhu cầu đó. Đó là sự nổi loạn chống lại luật của Đức Kitô, được ghi trong luật tự nhiên của con người. Chính hình ảnh của Thiên Chúa được minh định trong sách Sáng thế 2,27 là “người nam và người nữ”.
Cuối cùng, hình thức yếu đuối thứ ba mà người ta phải chống lại: sự yếu đuối do tội lỗi và những hậu quả của nó. Hữu hạn là tốt, nhưng sa ngã thì không. Tất cả chúng ta đều bất thường, không còn ở trạng thái tự nhiên. Ở đây, chúng ta cần nổi loạn chống lại con người của mình, vì con người của chúng ta đây không phải tự nhiên, không phải là cái do Chúa tạo thành. Việc chúng ta không hài lòng với sự yếu đuối về mặt luân lí và tâm linh của mình ngầm chứng tỏ rằng chúng ta biết một điều gì đó tốt hơn ‒ về một tiêu chuẩn mà chúng ta dùng để đo lường bản thân, cuộc sống và thế giới của mình, và thấy là chúng thiếu sót. Chính ký ức của chúng ta về vườn Địa đàng đã gây ra cuộc tranh cãi giữa người yêu hiện tại của chúng ta với thế giới, với vùng hoang địa “phía đông vườn Địa đàng” (St 3,24).
Chính bởi vì chúng ta yếu đuối về luân lí nên chúng ta được truyền phải cầu xin “chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, nghĩa là, sa vào thử thách và khó khăn. Bởi vì tất cả chúng ta, đều có điểm giới hạn của mình. Nếu Thiên Chúa không rút ngắn những ngày Đại nạn, thì cả các thánh cũng không chịu nổi và được cứu rỗi (Mt 24,22).
Chúng ta không chỉ yếu đuối về luân lí mà còn yếu kém về mặt trí tuệ: dốt nát, khờ dại, ngu ngốc. Tội lỗi không đơn thuần là sự ngu xuẩn như Plato dạy, và chắc chắn nguyên nhân của nó không chỉ là sự thiếu hiểu biết như Plato dạy, mà vì sự thiếu hiểu biết không phải là nguyên nhân của tội lỗi, nó là hậu quả của tội lỗi.
Thân xác chúng ta cũng yếu đuối vì tội lỗi. Một khi linh hồn tuyên bố độc lập với Thiên Chúa, Đấng là nguồn gốc của mọi sự sống và sức mạnh, thì thể xác trở nên yếu đuối vì nó càng độc lập với linh hồn, là nguồn sự sống của nó. Do đó, sự chết là kết quả tất yếu của tội lỗi. Giống như nam châm. Thiên Chúa là nam châm giữ hai vòng sắt, thể xác và linh hồn, lại với nhau. Lấy nam châm ra và các vòng rơi ra. Một khi xa lìa Thiên Chúa, chúng ta làm được gì ngoài việc chịu chết? Và một khi chúng ta kết hợp với Thiên Chúa, chúng ta sẽ làm gì nếu không phải là sống đời đời?
Chúng ta nên chấp nhận vâng phục Đức Chúa Cha như là “điểm yếu” đầu tiên của chúng ta, và chúng ta nên nhận sự hữu hạn là “điểm yếu” thứ hai của mình, nhưng liệu chúng ta có nên chấp nhận “điểm yếu” thứ ba, tức là tội lỗi của chúng ta không? Có và không. Tội lỗi giống như bệnh ung thư. Khi mắc bệnh ung thư, chúng ta nên chấp nhận sự thật đó bằng trí tuệ chứ không phải bằng ý chí của chúng ta. Chúng ta nên chấp nhận sự thật, chứ không phải sự tốt đẹp của bệnh ung thư, bởi vì bệnh ung thư là không tốt. Hãy chấp nhận nó về mặt lí thuyết, nhưng không phải về mặt thực tế. Ở mức độ thực tế, chúng ta nên chống lại nó. Đối với tội lỗi cũng vậy.
Người ta thường nhầm lẫn về điểm đơn giản này. Ngay cả một tư tưởng vĩ đại như Carl Jung dường như cũng rơi vào sự nhầm lẫn chết người này khi ông bảo chúng ta “chấp nhận mặt tối của chính mình, bóng tối của chúng ta”. Không! Thiên Chúa đã phải chết và chịu đựng những sự khủng khiếp của hoả ngục để cứu chúng ta khỏi mặt tối đó. Làm sao chúng ta dám “chấp nhận” nó trong khi Đấng Thánh đã tuyên chiến vĩnh viễn với nó? Làm sao chúng ta dám trung lập khi Thiên Chúa chia phe hẳn hoi? Làm sao chúng ta dám đóng vai Chamberlain ở Munich trước những phát minh quái quỷ? [Hai thủ tướng Anh và Pháp là Neville Chamberlain và Edouard Daladier ký hoà ước Munich với lãnh đạo đảng Quốc xã Adolf Hitler ngày 30/9/1938. Thoả thuận này ngăn chặn chiến tranh nổ ra nhưng giao Czechoslovakia cho Đức chiếm đóng (ND)]. Chỉ có một số phận thích hợp cho sự yếu nhược tâm linh như vậy. Hãy tra trong sách Khải huyền 3,16. Đừng ai cố ăn thứ Thiên Chúa đã nôn ra.
Bây giờ tôi sẽ đi vào những lĩnh vực sâu hơn, gai góc hơn về vấn đề chúng ta đang suy gẫm.
Yếu đuối của chúng ta trở thành sức mạnh khi Thiên Chúa bước vào sự yếu đuối của chúng ta. Như bác sĩ gây mê bệnh nhân để bệnh nhân không còn là người khoẻ mà thành người bệnh, thành thụ động, để không nhảy dựng trên bàn mổ, Thiên Chúa làm chúng ta yếu đi để Ngài có thể thực hiện những ca phẫu thuật trên chúng ta, nếu không chúng ta không thể làm được.
Điều này đặc biệt đúng về cái chết. Cái chết là cuộc phẫu thuật triệt để, và chúng ta phải được gây mê cách triệt để hầu đón nhận nó. Thiên Chúa muốn thâm nhập vào trái tim của chúng ta, con người sâu thẳm nhất của chúng ta. Trái tim của chúng ta phải ngừng đập để hoạt động đó diễn ra.
Cũng nguyên tắc ấy hoạt động trong những cách thấp hơn trước cái chết, trong những cái chết nhỏ. Thiên Chúa phải đánh gục chúng ta trước để cứu chúng ta khỏi chết đuối, vì chúng ta vùng vẫy một cách ngu xuẩn. Ngài phải đập vỡ những món đồ chơi chúng ta đang cầm trên tay để lấp đầy bằng niềm vui của Ngài.
Đến đây là tốt rồi. Nguyên tắc đó khá nổi tiếng. Nhưng khi chúng ta tìm đến các nhà thần bí, và rồi khi chúng ta đọc thứ ngôn ngữ kì lạ của họ về việc “hóa ra không”, tuyệt đích của sự yếu đuối, chúng ta lắc đầu khó hiểu và nghi ngờ. Tuy nhiên, ý nghĩa về “sự hư vô” trước Thiên Chúa của các nhà thần bí không là gì khác hơn chính nguyên tắc được đưa đến kết luận hợp lí của nó. Nếu sức mạnh của Chúa lấp đầy chúng ta khi chúng ta yếu đuối, và sự vĩ đại của Chúa lấp đầy chúng ta khi chúng ta nhỏ bé, thì tất cả của Chúa sẽ lấp đầy chúng ta khi chúng ta không là gì cả.
Nhưng chúng ta phải phân biệt hai loại “không là gì”. Các nhà thần bí phương Đông dường như nói rằng linh hồn là “hư không” vì nó không có thật. Họ nhìn qua “ảo ảnh” về cá nhân. Họ dường như nói rằng chúng ta thực sự không phải là thụ tạo, trừ Thiên Chúa. Bởi vì tất cả đều là Thiên Chúa nếu bạn là một người tin vào thuyết phiếm thần. Điều đó đơn giản là sai, vì Thiên Chúa đã tạo ra chúng ta khác biệt với chính Ngài.
Thay vì vậy, “sự hư không” của các nhà thần bí Kitô giáo có nghĩa là không có ý riêng và không còn chú ý đến bản thân. “Đừng theo ý con, nhưng xin cho ý Cha thể hiện” là công thức cơ bản dành cho mọi sự thánh thiện, không chỉ dành cho các nhà thần bí. Trong đây không có gì đặc biệt là thần bí. Nhưng khi, được Thiên Chúa mê hoặc qua việc nếm trước cảnh tượng hạnh phúc của thiên đàng, nhà thần bí được ban ơn dường như mất hết ý thức về chính mình, ông dường như không là gì đối với chính mình, bởi vì ông không còn nhìn vào mình nữa, mà chỉ nhìn vào Thiên Chúa. Nhưng, tất nhiên, ông vẫn có đó, vì phải có một cái tôi để thực hiện hành động quên mình. Ai đang quên? Chắc chắn không phải Thiên Chúa, vì sự toàn tri thì không quên.
Nhà thần bí Kitô giáo trải nghiệm một niềm hạnh phúc trong sự yếu đuối hoàn toàn đến mức hư không này, vì đó là sự tin tưởng hoàn toàn, nghỉ ngơi hoàn toàn trong vòng tay của Chúa, được Cha ôm lấy. Do đó, tất cả lo lắng và sự quan tâm đến bản thân đều tan biến. Đây là sự khiêm tốn hoàn toàn. Vì kiêu ngạo là tội lỗi đầu tiên, tội lỗi của ma quỷ, nên khiêm nhường là nhân đức đầu tiên.
Kiêu ngạo không có nghĩa là quan điểm phóng đại về giá trị của bản thân; đó là sự phù phiếm. Kiêu ngạo nghĩa là đóng vai Thiên Chúa, đòi làm Thiên Chúa. “Thà cai trị địa ngục còn hơn phục vụ trên thiên đường,” đây là câu nói mà Satan dùng để biện minh cho sự nổi loạn của mình trong Paradise Lost [Thiên đàng đã mất] của Milton. Đó là công thức kiêu ngạo. Kiêu ngạo lúc nào cũng là “ý tôi thể hiện”.
Khiêm tốn là “ý Cha thể hiện”. Khiêm tốn là tập trung vào Thiên Chúa, chứ không vào bản thân. Khiêm tốn không phải là đánh giá quá thấp bản thân. Khiêm tốn là quên mình. Một người khiêm tốn không bao giờ nói với bạn rằng anh ta tệ như thế nào. Anh ấy bận nghĩ về bạn đến nỗi không thể nói về bản thân mình. Đó là lí do tại sao khiêm tốn là một niềm vui và rất gần với nhãn quan hạnh phúc, nơi mà chúng ta sẽ say mê Thiên Chúa đến nỗi chúng ta hoàn toàn quên mình, giống như các nhà thần bí. Khi kết hợp hai điều này – hoàn toàn muốn “không phải ý con mà là ý Cha được thực hiện” và biết hoàn toàn quên mình – có lẽ chúng ta có thể bắt đầu hiểu làm thế nào các nhà thần bí tìm thấy niềm vui vô song khi trở thành hư không. Đó là cảm giác hồi hộp bí ẩn mà chúng ta cảm thấy khi hát dâng Chúa Thánh Thần: “Hãy thổi, thổi, thổi cho đến khi tôi còn sống/ Nhưng đó là hơi thở của Chúa Thánh Thần thổi trong tôi”.
Rất khó để nói về việc này, về sự ngây ngất. Thi thoảng nghe chuyện đó có vẻ ngớ ngẩn. Nó rất dễ bị hiểu lầm. Nó không thể được giải thích bằng ngôn ngữ thông thường. Nó giống như đang yêu vậy. Nó đang yêu. Nó không phải một ý tưởng, cần giải thích. Đó là một trải nghiệm, để được sống, hoặc ít nhất để được đồng cảm, với tâm và trí mở rộng.
Thập giá liên quan đến điều này như thế nào? Ngoài việc cứu chúng ta khỏi tội lỗi, thập giá còn biểu lộ bản chất ngây ngất nơi Ba Ngôi Thiên Chúa, đó là Thần Khí của tình yêu tự hiến giữa Cha và Con, là chính bí mật của sự sống nội tại của Thiên Chúa. Thập giá, mà Đức Kitô đã cắm như một thanh gươm vào lòng đất trên đồi Canvê, được giữ bằng cán gươm trên thiên đàng. Thiên đàng đã rèn lưỡi kiếm đó. Thập giá đã gây chiến với tội lỗi và sự chết trong thời gian, nhưng nó bày tỏ sự bình an và sự sống trong cõi đời đời.
Xin cho “ý Cha, không phải ý con, được thể hiện” không chỉ là điều khó khăn nhất trong các việc chúng ta có thể làm (đó là điều mà tội lỗi đã làm cho chúng ta), nhưng còn là điều vui sướng và tự do nhất mà chúng ta có thể làm (đó là điều mà ân sủng đã ban tặng cho chúng ta). Có cả nghìn tỉ thí nghiệm đã chứng minh một điểm vượt qua tất cả nghi ngờ: rằng bất cứ khi nào chúng ta nhắm đến hạnh phúc như thể chúng ta là Thiên Chúa, bằng cách phát huy năng lực và sự kiểm soát của mình, chúng ta sẽ kết thúc trong bất hạnh, cho dù chúng ta có được thứ mình muốn hay không. Vì nếu có được nó, chúng ta đâm chán; và nếu không đạt được, chúng ta thất vọng. Nhưng bất cứ khi nào chúng ta trở thành hư không, trở nên hoàn toàn yếu đuối, bất cứ khi nào chúng ta nói và nói hoàn toàn thật lòng: “Xin đừng theo ý con, nhưng xin cho ý Cha được thể hiện”, chúng ta tìm thấy hạnh phúc, niềm vui và bình an lớn lao nhất có thể có trên thế giới này. Tuy nhiên, cho dù đã có hàng nghìn tỉ thực nghiệm xác nhận chân lí này, chúng ta vẫn tiếp tục thử những trải nghiệm khác để tìm kiếm hạnh phúc bên ngoài Thiên Chúa và bên ngoài sự phục tùng Thiên Chúa, do đó chúng ta liên tục bán đi quyền được hưởng niềm vui vốn có của mình. Nói cách khác, chúng ta bị điên. Tội lỗi là sự điên rồ.
Trọng tâm của Hồi giáo là sự thật mạnh mẽ mà chúng ta vừa thấy. “Hồi giáo” mang hai ý nghĩa: “phục tùng” và “bình an” (cùng nguồn gốc với từ “shalom” [trong tiếng Do Thái]). Quy phục Thượng đế (“Allah”, “Đấng”) là con đường dẫn đến hòa bình. Dante trình bày điều này chỉ bằng năm từ trong một dòng và được T.S. Eliot cho là hoàn hảo và sâu sắc nhất trong tất cả các áng văn chương: “Theo ý Chúa, ta bình an” (In his will, our peace).
Sự yếu đuối này chính là sức mạnh của Thiên Chúa, là bí mật về sự toàn năng của Thiên Chúa. Thiên Chúa toàn năng không phải vì Ngài có thể tạo ra vũ trụ hay làm các phép lạ. Thiên Chúa toàn năng vì Ngài là tình yêu, vì Ngài có thể khuất phục chính mình, vì Ngài có thể yếu đuối. Không một người hữu thần nào ngoại trừ Kitô hữu hiểu được bí mật sự toàn năng. Một Thiên Chúa mà chỉ có một mình thì không thể hoàn toàn toàn năng.
Chỉ có Thiên Chúa Ba Ngôi, chỉ có vị Thiên Chúa, Đấng có thể liên tục trút bỏ chính mình cho chính mình, mới có thể toàn năng.
Chúng ta thường nghĩ về Chúa Cha là nguồn sự toàn năng, nhưng thật ra cả ba ngôi vị đều cần thiết cho sự toàn năng. Sự toàn năng chỉ phát sinh khi chúng ta đến với Chúa Thánh Thần là tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con dành cho nhau. Khi Thánh Thần được thổi vào trong chúng ta, thì cả Ba Ngôi vào trong chúng ta, và sống sự sống của Ngài trong và qua chúng ta. Thánh giá vinh quang của Chúa Ba Ngôi vĩnh cửu và thánh giá đẫm máu trên đồi Canvê hòa quyện trong tâm hồn và cuộc sống của chúng ta khi chúng ta tham dự vào niềm vui nơi tình yêu Thiên Chúa và vào sự đau khổ mang lại ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Chuyển ngữ: Martin Lâm
(theo: peterkreeft.com)
2023
Giáo hội tiếp cận với những vấn đề đang gây nhiễu trong không gian mạng dưới ánh sáng của các sứ điệp truyền thông
Ngày Thế giới Truyền thông do Công đồng Vaticanô II thiết lập vào ngày 4 tháng 12 năm 1963 trong sắc lệnh Inter Mirifica. Qua sắc lệnh này, Giáo hội mời gọi các Giáo phận trên khắp thế giới cử hành ngày này hằng năm nhằm kêu gọi các tín hữu ý thức hơn về các vấn đề liên quan đến lĩnh vực truyền thông và khuyến khích họ hiệp thông với Đức Thánh Cha ngang qua Sứ điệp Truyền thông hằng năm của ngài; đồng thời, mời gọi họ hợp ý cầu nguyện và đóng góp hỗ trợ cho những đề án của Giáo Hội trong lãnh vực truyền thông.[1] Mặc dù Giáo hội không phải là những chuyên viên trong lĩnh vực công nghệ truyền thông hiện đại, nhưng rõ ràng, với con tim và đôi mắt của người mục tử, Giáo hội tiên liệu tất cả những vấn đề sẽ xảy ra trong lĩnh vực công nghệ truyền thông vào mỗi thời điểm của lịch sử nhân loại.[2] Những thành tựu của công nghệ hiện đại đáng được trân trọng và những giá trị của nó nên được thừa nhận và ứng dụng vào đời sống của Giáo hội.
Mục đích của bài viết không bàn đến những thành tựu đạt được của ngành truyền thông hiện đại cũng như những đóng góp của nó vào đời sống của Giáo hội. Mục tiêu chính ở đây nhắm đến những vấn đề đang gây nhiễu trong lĩnh vực truyền thông diễn ra trên không gian mạng hiện nay. Cụ thể hơn, những vấn đề mà con người ngày nay đang phải đối diện khi sống trong thời đại kỹ thuật số chi phối hầu hết mọi lĩnh vực của xã hội. Giáo hội không đứng ngoài lịch sử loài người, “Giáo hội không đứng xa cách hoặc cố gắng tự cô lập mình khỏi dòng chính của những sự kiện này.”[3] Vì thế, những vấn đề của con người cũng chính là những vấn đề của Giáo hội, bởi lẽ, trong tất cả mọi sự, Giáo hội phải trở thành những chứng tá cho chân lý và sự thật, vì chỉ có sự thật mới giải thoát chúng ta. (x. Ga 8,32)
Trong lĩnh vực truyền thông, Giáo hội không ngừng đưa ra những hướng dẫn nhằm trả lời cho những vấn đề của công nghệ kỹ thuật trong từng giai đoạn của lịch sử. Chúng ta có thể tìm thấy những định hướng của Giáo hội ngang qua những tài liệu chính thức được phát hành trong những dịp đặc biệt của Giáo hội. Bên cạnh đó, để đáp ứng nhu cầu cấp thiết trong từng vấn đề mang tính thời sự diễn ra trong xã hội, đặc biệt liên quan đến truyền thông xã hội, Giáo hội đã đóng vai trò đồng hành với con người thông qua các sứ điệp của Ngày Thế giới Truyền thông Xã hội hằng năm. Những sứ điệp này chất chứa những giá trị to lớn để hướng dẫn và giúp các tín hữu khơi lên mối quan tâm của họ trong lĩnh vực truyền thông xã hội rộng lớn tác động đến hầu hết mọi khía cạnh của cuộc sống con người. Những sứ điệp này không chỉ nói lên lập trường của Giáo hội về vấn đề truyền thông xã hội, nhưng nó còn là cách để Giáo hội đưa ra những định hướng cho các tín hữu, chủ yếu về khía cạnh thiêng liêng, giúp nuôi dưỡng đức tin và kiện cường khả năng làm chứng của họ.
Ngày nay, Internet và mạng xã hội nổi lên như một phương tiện mang đến cho con người nhiều hiệu quả trong việc kết nối với thế giới bên ngoài.[4] Nhưng rõ ràng, sức mạnh của nó thì không thể che khuất những vấn đề đang gây nhiễu trên không gian mạng, đến nỗi khi nhắc đến Internet, nhiều người cảm thấy như cơn ác mộng bởi những vấn đề và tác hại tiêu cực xảy ra tràn lan trên thế giới rộng lớn. Trước những vấn đề đó, đâu là thái độ và lập trường của Giáo hội? Khám phá những bản văn của Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông Xã hội chắc chắn sẽ giúp chúng ta nhận ra những giá trị mà nó thực sự mang lại, đặc biệt có thể trả lời những vấn đề còn tồn đọng ngày nay trên thế giới Internet. Quan trọng nhất, những giá trị này sẽ cung cấp cho các tín hữu biết cách phải làm gì khi họ bước vào không gian mạng mà họ gần như không thể từ chối bởi chính họ là một thành viên trong môi trường số đó.
Không có gì nghi ngờ khi nói rằng, “các công nghệ kỹ thuật số mới đang mang lại những thay đổi cơ bản trong các mô hình giao tiếp và các mối quan hệ giữa con người với nhau.”[5] Chúng ta không thể phủ nhận những lợi ích to lớn mà Internet và mạng xã hội đã mang đến cho con người từ khi nó ra đời vào những năm của thập niên 60. Không khó để nhận ra những ảnh hưởng tích cực của nó. “Mạng là một nguồn tài nguyên của thời đại chúng ta. Đó là một nguồn kiến thức và những mối quan hệ mà trước đây không thể tưởng tượng được.”[6] Chúng làm cho cuộc sống của con người ngày nay hiện đại hơn, phát triển hơn, thông minh hơn, tạo nên những kết nối giúp con người dễ dàng đến với nhau hơn, và đây cũng là kho tàng cung cấp tri thức của nhân loại trong thời đại kỹ thuật số.
Có thể nói, “Internet là sự sáng tạo phổ biến và sáng tạo nhất trong thế giới công nghệ.”[7] Con người ngày nay dường như đã trở nên phụ thuộc vào Internet do những lợi ích to lớn của nó. Tính đến ngày 06/05/2023, có hơn 5,6 tỷ người ở khắp nơi trên hành tinh của chúng ta hiện đang sử dụng Internet, như một bằng chứng xác thực về tính phổ biến và hữu ích của nó.[8] Nó mang một số dữ liệu về hầu hết mọi chủ đề và rất nhanh chóng trở thành một phần quan trọng trong cuộc sống của mọi tầng lớp xã hội. Do đó, “Internet là một trong những sáng tạo vĩ đại nhất và cung cấp cho mọi người quyền truy cập tức thì vào nguồn cung cấp kiến thức và giải trí vô tận.”[9]
Tuy nhiên, bên cạnh những ích lợi to lớn, Internet cũng gây ra nhiều tác hại cho con người, đặc biệt những người không biết cách hoặc không thể kiểm soát chúng. Mặc dù Internet là một trong những sáng tạo vĩ đại của con người qua mọi thời đại, nhưng nó cũng có những nhược điểm đang gây nhiễu cách nghiêm trọng đối với những người tham gia vào môi trường Internet. Nếu chúng ta dễ dàng nhận diện về những lợi ích của Internet thì chúng ta cũng không khó để nhận ra những tác hại tiêu cực mà Internet gây ra cho những người sử dụng chúng. Và “nếu Internet đại diện cho một khả năng tiếp cận kiến thức phi thường, thì cũng đúng rằng nó đã được chứng minh là một trong những lĩnh vực tiếp xúc nhiều nhất với thông tin sai lệch và sự bóp méo có chủ đích và có ý thức của các sự kiện và các mối quan hệ giữa các cá nhân, những thứ thường được sử dụng để làm mất uy tín.”[10] Bên cạnh đó, mạng xã hội như là một phần của Internet “có thể tạo điều kiện thuận lợi cho các mối quan hệ và thúc đẩy những điều tốt đẹp của xã hội, nhưng chúng cũng có thể dẫn đến sự phân cực và chia rẽ hơn nữa giữa các cá nhân và các nhóm.”[11] Có thể nói, thế giới kỹ thuật số là một quảng trường công cộng, một nơi gặp gỡ, nơi chúng ta có thể khuyến khích hoặc hạ bệ lẫn nhau, tham gia vào một cuộc thảo luận có ý nghĩa hoặc các cuộc tấn công không công bằng.
Một thực trạng khác diễn ra ngày nay trong thế giới truyền thông và hệ thống kỹ thuật số mà chúng ta đang phải chứng kiến đó là sự lan rộng của thứ được gọi là “tin tức giả mạo”. Nó đề cập đến việc lan truyền thông tin sai lệch trên mạng hoặc trên các phương tiện truyền thông hiện đại cũng như phương tiện truyền thống. Nó liên quan đến thông tin sai lệch dựa trên dữ liệu không tồn tại hoặc bị bóp méo nhằm đánh lừa và thao túng người đọc. Việc lan truyền tin tức giả mạo có thể phục vụ cho việc thúc đẩy các mục tiêu cụ thể, ảnh hưởng đến các quyết định chính trị và phục vụ lợi ích kinh tế. Có thể nói, “khả năng bóp méo sự thật là triệu chứng của tình trạng của chúng ta, cả với tư cách cá nhân và cộng đồng.”[12]
Bi kịch của thông tin sai lệch là nó làm mất uy tín của người khác, coi họ là kẻ thù, đến mức khiến họ trở nên quỷ dị và kích động xung đột. “Tin tức giả mạo là một dấu hiệu của thái độ không khoan dung và quá nhạy cảm, và chỉ dẫn đến sự lây lan của sự kiêu ngạo và thù hận. Đó là kết quả cuối cùng của sự không trung thực.”[13] Ngay cả một sự bóp méo dường như nhỏ của sự thật cũng có thể gây ra những tác động nguy hiểm đến phẩm giá của con người, cũng như cướp đoạt sự tự do nội tâm của con người.
NHỮNG GIÁ TRỊ RÚT RA TỪ CÁC SỨ ĐIỆP NGÀY THẾ GIỚI TRUYỀN THÔNG3.1. Thiên Chúa: Cội nguồn của sự truyền thông
Trong lịch sử nhân loại, Thiên Chúa tỏ ra mình là một Thiên Chúa tự thông truyền chính mình. “Truyền thông được thiết lập trong Mầu nhiệm Thiên Chúa.”[14] Thiên Chúa không còn là Thiên Chúa nếu Ngài không tương quan với những Ngôi vị khác cũng như không giao tiếp với thụ tạo của Ngài. “Thông truyền là một phần trong kế hoạch của Thiên Chúa dành cho chúng ta và là một cách thiết yếu để trải nghiệm mối tương giao.”[15] Con người được ưu ái hơn trong số các loài thụ tạo khác. Họ được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và giống Thiên Chúa nên họ được tiếp nhận khả năng giao tiếp từ Thiên Chúa. Đồng thời, họ cũng có khả năng cảm nhận và chia sẻ những nét đẹp, những gì là đúng, tốt và đẹp trong bất cứ môi trường mà họ thuộc về. Sự hiệp thông tình yêu giữa các Ngôi vị Thần linh chính là cội nguồn mà từ đó khả năng hiểu biết và giao tiếp giữa các thụ tạo được hình thành.[16] Điều đó cũng cho thấy rằng “Thiên Chúa không Đơn độc, nhưng Hiệp thông; Người là Tình yêu, vì thế nên có sự truyền thông, bởi vì tình yêu luôn truyền thông; thật vậy, tình yêu truyền thông chính mình để gặp người khác.”[17]
3.2. Khuôn mẫu truyền thông của Chúa Giêsu
Để hiểu về bản chất của một Thiên Chúa tự thông truyền chính mình, chúng ta không thể không nhắc đến khuôn mặt vĩ đại của Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô. Người là nhà truyền thông hoàn hảo của Thiên Chúa được ban cho nhân loại, đồng thời Người cũng là khuôn mẫu cho tất cả chúng ta trong cách chúng ta giao tiếp với Thiên Chúa và với người khác. Đức tin Kitô giáo mời gọi các tín hữu, trong mọi hoàn cảnh, hãy tuyên xưng đức tin của mình vào Đức Kitô. “Ngài chính là Thiên Chúa, Đấng Cứu độ của nhân loại và của lịch sử, là Đấng mà mọi sự đều được viên mãn.”[18] Vì thế, trong Mạng xã hội, các Kitô hữu diễn tả niềm xác tín của họ ngang qua việc chia sẻ kinh nghiệm sâu xa về món quà đức tin và niềm hy vọng nơi Thiên Chúa của họ: “Đức tin nơi Thiên Chúa nhân từ và yêu thương được bày tỏ trong Chúa Giêsu Kitô.”[19]
Thông điệp của Chúa Giêsu thật rõ ràng được diễn tả trong những bài giáo huấn và việc làm của Người. Tiềm ẩn trong đó là cả một kho tàng về mối quan tâm và sự ưu ái dành cho người nghèo và những bất hạnh trong mạng lưới xã hội vào thời đó. Phẩm giá con người luôn hiện hữu trong mọi cách thức rao giảng và hoạt động của Người. Những giá trị của Tin mừng mà Chúa Giêsu loan báo không chỉ mặc khải về một Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, nhưng nó cũng là nền tảng để xây dựng mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người, cũng như giữa con người với nhau.[20]
Chúa Giêsu là chân lý của Thiên Chúa. “Chân lý của Chúa Kitô là chân lý vĩnh cửu của Thiên Chúa, Đấng đã tỏ mình ra cho chúng ta không chỉ trong thế giới được tạo dựng mà còn qua Sách Thánh, và đặc biệt là trong và qua Con của Ngài, Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời đã hóa thành xác phàm.”[21] Người đến để làm chứng cho sự thật, vì “Người là Đường, là Sự thật và là Sự sống.” (Ga 14, 1) “Đấng duy nhất thực sự đáng cậy trông và đáng tin cậy – Đấng mà chúng ta có thể tin cậy – là Thiên Chúa hằng sống. Do đó, Chúa Giêsu có thể nói: ‘Tôi là sự thật’ (Ga 14, 6).”[22] Chỉ trong Đức Kitô, chúng ta mới được giải thoát. (x. Ga 8, 32) “Chân lý của Chúa Giêsu Kitô là sự đáp ứng đầy đủ và xác thực cho mong muốn của con người về mối quan hệ, sự hiệp thông và ý nghĩa được phản ánh trong sự phổ biến rộng rãi của mạng xã hội.”[23] Do đó, cách thức truyền thông của Chúa Giêsu không phải là con đường của sự sợ hãi và thỏa hiệp, nhưng là con đường của việc thực thi thánh ý của Thiên Chúa Cha. Tuy nhiên, Chúa Giêsu không áp đặt sự dạy dỗ của Người cho bất cứ ai và cũng không loại trừ ai, đối với Người, những gì được Người tạo dựng là dành cho tất cả mọi người. Người chính là khuôn mẫu cho tất cả chúng ta.[24]
3.3. Công nghệ truyền thông: Dấu ấn của một Thiên Chúa yêu thương
Truyền thông là những cuộc gặp gỡ. Dù diễn ra ở bất cứ đâu và thế nào, truyền thông vẫn mở ra tầm nhìn rộng lớn cho nhiều người. Đây là món quà của Thiên Chúa, vì nó mang dấu ấn của Thiên Chúa tình thương. “Một món quà có ý nghĩa to lớn đối với giai đoạn lịch sử loài người mà chúng ta đang sống, món quà của tất cả những phương tiện kỹ thuật tạo điều kiện, nâng cao và làm phong phú thêm sự giao tiếp giữa con người với nhau.”[25] Điều này tạo nên một mối tương quan khắng khít giữa truyền thông và lòng thương xót của Thiên Chúa. Những gì chúng ta truyền thông và cách thức chúng ta truyền thông phải bày tỏ lòng trắc ẩn, sự dịu dàng và sự tha thứ của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Tình yêu của Thiên Chúa, theo bản tính của nó, chính là sự giao tiếp; nó dẫn đến sự cởi mở và chia sẻ.[26] Sau tất cả, chúng ta nhận ra những giá trị to lớn của những kỳ quan còn tuyệt vời hơn nữa: “Những kỳ quan của công nghệ mà Thiên Chúa đã định sẵn cho thiên tài con người khám phá ra.”[27] Và đương nhiên, tất cả chúng đều mang dấu ấn của một vị Thiên Chúa đầy sáng tạo và trung tín với dân của Ngài.
3.4. Làm chứng cho Sự thật: Con đường truyền thông của Giáo hội
Vì là Thân thể Mầu nhiệm của Đức Kitô, nên Giáo hội được chia sẻ sứ mệnh tự thông truyền chính mình từ Thiên Chúa. “Giáo hội hy vọng và tự tin quay lại khi tìm cách công bố sứ điệp của Đức Kitô dưới một hình thức thích ứng với các công cụ hiện đang theo ý của mình và trong ngôn ngữ dễ hiểu đối với nền văn hóa có điều kiện truyền thông trên toàn thế giới mà nó phải được giải quyết.”[28] Tuy nhiên, trong tất cả những cơ hội và thách đố hiện nay, Giáo hội được mời gọi trung thành với con đường và cách thức truyền thông của Thiên Chúa. Điều này cũng diễn tả trong hướng đi của Giáo hội, đó là làm chứng cho sự thật.
Bước theo Đức Kitô và bắt chước mọi sự nơi cuộc sống của Ngài là mối quan tâm ưu tiên của các tín hữu. Và vì “Đức Kitô là sự thật” (Ga 14, 6), nên các tín hữu được mời gọi để bước theo Ngài trong con đường chân lý và làm chứng cho sự thật. “Sự thật là thứ bạn có thể dựa vào để không gục ngã.”[29] Vì thế, con đường của Giáo hội không thể vắng bóng khuôn mặt của Thiên Chúa hằng sống và chân thực. Đi trên con đường mang tên Giêsu, “chúng ta khám phá và tái khám phá sự thật khi chúng ta kinh nghiệm nó trong chính mình với lòng trung thành và đáng tin cậy của Đấng yêu thương chúng ta.”[30] Trong tương quan này với Thiên Chúa, con người được giải thoát nhờ sự thật và nhờ Đấng là cội nguồn của sự sống và chân lý. (x. Ga 5:26; 8: 32; 10:10, 28) Nhờ đó, chiến lược truyền thông của người Kitô hữu được đặt nền tảng trên sự thật và đạt đến chân lý là chính Thiên Chúa.
3.5. Bảo vệ phẩm giá con người trong chiến lược truyền thông của Giáo hội
Vì nền tảng truyền thông của Kitô giáo được xuất phát từ Thiên Chúa, nên nó cũng phải truyền đạt và phục vụ những gì thuộc về Thiên Chúa. Nói khác đi, việc bảo vệ những giá trị đến từ Thiên Chúa là sứ mệnh mà Giáo hội được Ngài ủy thác. “Giáo hội sẽ cảm thấy mình có lỗi trước Thiên Chúa nếu không tận dụng những công cụ mạnh mẽ mà kỹ năng của con người không ngừng phát triển và hoàn thiện.”[31]
Trong bất cứ thời kỳ nào của lịch sử nhân loại, phẩm giá của con người luôn có nguy cơ bị chà đạp. Điều đó cũng không ngoại lệ trong thời đại kỹ thuật số và trong không gian mạng. Thực tế cho thấy rằng con người được hưởng lợi nhiều từ khi Internet ra đời, nhưng trong không gian rộng lớn của mạng lưới toàn cầu đó, nó cũng tiềm ẩn những nguy cơ làm tổn hại đến những giá trị của con người. Qua đó, nó chỉ cung cấp những kiến thức sâu rộng nhưng không dạy các giá trị; và khi các giá trị bị coi thường, chính con người sẽ bị hạ thấp và con người dễ dàng đánh mất phẩm giá siêu việt của mình. Trong bối cảnh như vậy, chiến lược truyền thông của Giáo hội phải bộc lộ rõ mục đích của nó, nghĩa là phải tìm cách nuôi dưỡng sự khôn ngoan không chỉ đến từ thông tin và từ cái nhìn sâu sắc, sự khôn ngoan hiểu được sự khác biệt giữa đúng và sai, và duy trì quy mô của các giá trị đến từ sự khác biệt giữa người với người.[32] Vì thế, việc khuyến khích mọi người có thiện chí đang hoạt động trong môi trường công nghệ mới của truyền thông kỹ thuật số cam kết thúc đẩy văn hóa tôn trọng, đối thoại và hữu nghị. “Cuộc sống không chỉ là một chuỗi liên tiếp của các sự kiện hoặc các kinh nghiệm: nó là một cuộc tìm kiếm chân, thiện và mỹ.”[33]
3.6. Loan báo Tin mừng trong thế giới kỹ thuật số
Tìm kiếm những giá trị đến từ Thiên Chúa là sự đòi hỏi liên lỉ và kiên trì. Và khi những giá trị đó được hiện thực nơi những người khao khát đi tìm kiếm chân lý, một khát vọng khác sẽ được khơi dậy trong cõi lòng của họ, khát vọng được loan báo những giá trị từ niềm vui Tin mừng.[34] Nói khác đi, món quà được biết Tin mừng mà họ nhận được từ Thiên Chúa phải được diễn tả và loan báo trong bất cứ môi trường và hoàn cảnh họ đang sống và được sai đến.
Các Kitô hữu ngày nay vẫn tiếp tục sứ mệnh được trao phó từ thời các Tông đồ ra đi để rao giảng Tin mừng của Chúa Kitô. Họ được mời gọi để thực hiện sứ mệnh được Đức Kitô ủy thác cho các tông đồ. (x. Mt 28, 19-20) Tuy nhiên, việc truyền giáo không phải là vấn đề mở rộng địa lý, “vì Giáo hội còn phải vượt qua nhiều ngưỡng văn hóa, mỗi ngưỡng đều đòi hỏi năng lượng và trí tưởng tượng mới mẻ trong việc loan báo một Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô.”[35] Thời đại ngày nay luôn đòi hỏi những hình thức truyền giáo mới. Do đó, với cuộc cách mạng truyền thông và thông tin đang diễn ra sôi nổi, cơ hội loan báo Tin mừng dường như đang nằm trong tầm tay của Giáo hội. Vì thế, Giáo hội cần phải tận dụng những nguồn tài nguyên mới được cung cấp bởi sự khám phá của con người trong công nghệ máy tính và vệ tinh cho nhiệm vụ truyền giáo luôn được khuyến khích tận dụng cách hiệu quả nhất. Sứ điệp quan trọng và khẩn cấp nhất của Giáo hội liên quan đến sự hiểu biết về Đấng Kitô và con đường cứu rỗi mà Ngài đề xuất. Đây là điều mà Giáo hội cần phải đặt ra trước mọi người ở mọi thời đại, mời gọi họ đón nhận Phúc Âm trong tình yêu thương, và luôn tâm niệm rằng “chân lý không thể tự áp đặt ngoại trừ nhờ chân lý của chính nó, chân lý chiến thắng tâm trí bằng cả sự dịu dàng và quyền năng.”[36]
Nhờ đó mà khuôn mặt của Đức Kitô được xuất hiện trong không gian rộng lớn của mạng lưới toàn cầu. Đó không còn là không gian ảo và trống rỗng, nhưng là khung trời của hạnh phúc và vui mừng của ơn cứu độ của nhân loại hiện hữu. Nó trở thành không gian đích thực của con người, “vì nếu không có chỗ cho Đức Kitô, thì không có chỗ cho con người.”[37] Vì thế, vượt qua ngưỡng cửa mới của thời đại và dám dấn thân cho việc loan báo khuôn mặt Đức Kitô trong mạng lưới rộng lớn ngày nay chính là cách làm cho vinh quang Thiên Chúa trên khuôn mặt Đức Kitô được biểu lộ một cách rõ nét và mạnh mẽ. (2Cr 4, 6)
Thực trạng hiện nay trong xã hội luôn có tính hai chiều được biểu hiện một cách rõ nét ngang qua những phương tiện truyền thông xã hội. Những lợi thế và đóng góp của nó được bộc lộ rõ hơn những hậu quả và nguy cơ tiềm ẩn trong hầu hết mọi phương tiện truyền thông mà con người đang sử dụng. Ngay từ những ngày đầu diễn ra Công đồng Vatican II, các nghị phụ đã nhìn thấy trước về tương lai và cố gắng phân biệt bối cảnh mà Giáo hội được kêu gọi thực hiện sứ mệnh của mình. Qua đó, họ giúp các tín hữu nhận thức rõ rằng “sự tiến bộ của công nghệ đã biến đổi bộ mặt của trái đất và thậm chí vươn tới ra ngoài để chinh phục không gian. Họ cũng nhận ra rằng những phát triển trong công nghệ truyền thông, đặc biệt, có khả năng gây ra những phản ứng dây chuyền với những hậu quả không lường trước được.”[38]
Trong bối cảnh đó, Giáo hội không tách rời khỏi xã hội hoặc cố gắng tự cô lập mình khỏi dòng chính của những sự kiện, nhưng đúng hơn, Giáo hội nhận ra mình đang ở giữa sự tiến bộ của nhân loại và cam kết dấn thân một cách tích cực, chia sẻ kinh nghiệm của phần còn lại của nhân loại, tìm cách hiểu chúng và giải thích chúng bằng ánh sáng của đức tin. “Những người trung thành của Thiên Chúa đã sử dụng một cách sáng tạo những khám phá và công nghệ mới vì lợi ích của nhân loại và thực hiện kế hoạch của Thiên Chúa dành cho thế giới.”[39] Vì thế, Giáo hội luôn có bổn phận loan báo cho thế giới về niềm tin của mình và sẵn sàng giải thích lý do cho lập trường của Giáo hội đối với bất kỳ vấn đề hoặc sự kiện cụ thể nào. Giáo hội luôn có khả năng để lắng nghe tiếng nói của dư luận và tham gia vào cuộc thảo luận liên tục với thế giới xung quanh Giáo hội; và vì thế, Giáo hội tham gia ngay lập tức vào việc tìm kiếm chung các giải pháp cho nhiều vấn đề cấp bách của nhân loại hiện nay.[40]
Trong sự khôn ngoan và hiểu biết sâu sắc của mình, Giáo hội liên tục đưa ra những định hướng và hướng dẫn cụ thể để trình bày những giá trị của Thiên Chúa cho thế giới trong việc tiếp cận nền văn hóa mạng ngày nay. Nói khác đi, Giáo hội không chỉ giúp con người chỉ ra những lỗ hổng trong nền công nghệ tiên tiến và đưa ra những chỉ dẫn giúp cân bằng trong nhiều khía cạnh khác nhau của cuộc sống liên quan đến đạo đức và luân lý, nhưng đúng hơn, Giáo hội muốn giới thiệu và đưa sứ điệp quan trọng và khẩn thiết nhất của mình liên quan đến sự hiểu biết về Đức Kitô và con đường cứu rỗi mà Người đề xuất. Ý thức sống động này luôn hiện hữu trong lập trường của Giáo hội. Vì thế, những luận điểm rõ ràng và vững chắc của Giáo hội khi đối diện với một vài vấn đề gây nhiễu trong không gian mạng sẽ được trình bày qua một vài điểm cụ thể sau:
4.1. Đức Kitô, trung tâm điểm cho mọi người trong không gian mạng quy hướng về
Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI khơi lên một ý tưởng quan trọng trong Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông Xã hội năm 2011 rằng, hiện tượng đặc trưng của thời đại chúng ta chính là sự xuất hiện của Internet như một mạng lưới truyền thông. Vì thế, Internet không chỉ thay đổi cách chúng ta giao tiếp mà còn thay đổi bản thân sự giao tiếp, đến mức có thể nói rằng chúng ta đang sống qua một thời kỳ biến đổi văn hóa rộng lớn.[41] Các công nghệ mới cung cấp cho chúng ta những cơ hội lớn nhưng nó cũng đòi hỏi sự quan tâm và nhận thức sâu sắc hơn về những rủi ro có thể xảy ra. Nó có nguy cơ bị phân tâm nhiều hơn vì sự chú ý của chúng ta bị phân tán và bị tập trung vào một thế giới “khác” với thế giới mà chúng ta đang sống. Chúng ta cũng có nguy cơ đánh mất khả năng xây dựng những mối tương quan với những người chúng ta gặp gỡ trong cuộc sống. Con người dường như xao nhãng bổn phận của mình cho những việc không quan trọng và thứ yếu.
Người ta luôn đề cập hậu quả của việc nghiện Internet đó là giảm khả năng tập trung của con người. Thật dễ để nói rằng, công nghệ đang giết chết khả năng tập trung của con người. Họ dễ dàng bị chi phối và chia trí khi làm việc trực tiếp với máy tính được kết nối Internet. Điều này khiến cho những công việc không thể theo tiến độ như kế hoạch đã được đề ra. Tuy nhiên, cái đáng sợ nhất mà sự xao nhãng gây ra không chỉ dừng lại ở khía cạnh bổn phận và trách nhiệm trong công việc, nhưng đúng hơn, nó khiến cho con người bị phân tán và tách rời khỏi một cộng đồng ngay khi đang ở trong một mạng lưới xã hội rộng lớn. Dường như ai cũng có khả năng trở thành “hàng xóm” của tôi trong thế giới mới, nhưng đó cũng có thể trở thành tình trạng trống rỗng của tâm hồn khi họ không thực sự cảm nghiệm được sự hiện diện đích thực của một ai đó. Vì thế, họ nhận ra rằng, “tiếp xúc ảo không thể và không được thay thế cho tiếp xúc trực tiếp của con người với mọi người ở mọi cấp độ trong cuộc sống của chúng ta.”[42]
“Truyền thông về Chúa Giêsu: Đường, Sự thật và Sự sống.” (x. Ga 14, 6) Chỉ một mình Chúa Giêsu mới có thể lấp đầy những khoảng trống do thế giới ảo tạo ra nơi tâm hồn của con người, cũng như chỉ có ngài mới gắn kết những mối tương quan rạn nứt giữa người với người, và chỉ có ngài mới có thể quy tụ mọi sự về cho Thiên Chúa Cha. “‘Con đường’ của Đức Kitô là con đường của một đời sống nhân đức, kết quả và bình an như con cái Thiên Chúa và như anh chị em trong cùng một gia đình nhân loại; ‘chân lý’ của Đức Kitô là chân lý vĩnh cửu của Thiên Chúa, Đấng đã tỏ mình ra cho chúng ta không chỉ trong thế giới được tạo dựng mà còn qua Sách Thánh, và đặc biệt là trong và qua Con của Người, Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời đã hóa thành xác phàm; và ‘sự sống’ của Đức Kitô là sự sống của ân điển, món quà miễn phí của Thiên Chúa là phần được tạo dựng trong sự sống của chính Ngài và giúp chúng ta có thể sống mãi mãi trong tình yêu của Ngài.”[43] Quả thật, khi những người tham gia vào mạng lưới toàn cầu xác tín về điều này, cuộc đời của họ sẽ biến đổi. Sự biến đổi này không những giúp cho các cá nhân biết cách tập trung vào những điều cốt lõi của cuộc sống trong môi trường Internet, mà còn mang lại cho họ khả năng truyền thông cách tập trung vào đức tin sống động vào Chúa Giêsu và những giá trị tốt đẹp đem lại những lợi ích thiêng liêng cho con người.
Hơn nữa, những vấn đề không thể vắng mặt trên không trên mạng xã hội liên quan đến tình yêu, sự thật, hạnh phúc và ý nghĩa cuộc sống chỉ có thể được tìm thấy nơi con người Chúa Giêsu. Người Kitô hữu luôn được mời gọi để chia sẻ đức tin của họ trong diễn đàn kỹ thuật số. Tuy nhiên, “nếu những nỗ lực của chúng ta trong việc chia sẻ Phúc Âm mang lại kết quả tốt đẹp, thì điều đó luôn luôn là nhờ quyền năng của chính Lời Chúa có thể chạm đến trái tim, trước bất kỳ nỗ lực nào của chúng ta. Sự tin cậy vào quyền năng của công việc Thiên Chúa phải luôn luôn lớn hơn bất kỳ sự tin tưởng nào mà chúng ta đặt vào các phương tiện của con người.”[44] Bởi vì Chúa Giêsu không những là “đường đi, sự thật và sự sống”, Người cũng là “ánh sáng thế gian” – ánh sáng để soi đường dẫn lối cho chúng ta, ánh sáng giúp chúng ta nhận thức được chân lý, ánh sáng của Chúa Giêsu, Đấng ban cho chúng ta cuộc sống siêu nhiên lúc này và mai sau.
4.2. Chân lý và sự thật, thuốc giải độc cho sự dối trá
Giáo hội khẳng định rõ về niềm tin của mình khi nói rất rõ rằng, “Được tạo ra theo hình ảnh và sự giống của Đấng Tạo hóa của chúng ta, chúng ta có thể thể hiện và chia sẻ tất cả những gì đúng, tốt và đẹp.”[45] Nói khác đi, chúng ta được chia sẻ khả năng truyền thông của Thiên Chúa. Tuy nhiên, dấu vết của sự kiêu ngạo và ích kỷ đã làm sai lệch cách sử dụng khả năng thông truyền của chúng ta. Con người có xu hướng thích nghe những điều dối trá hơn là sự thật. Có thể nói rằng, “khả năng bóp méo sự thật là triệu chứng của tình trạng của chúng ta, cả với tư cách cá nhân và cộng đồng.”[46]
Trong thế giới truyền thông và hệ thống kỹ thuật số đang thay đổi nhanh chóng ngày nay, chúng ta phải đối diện với sự lây lan không ngừng của “tin tức giả mạo” mỗi ngày như một loại vi-rút mới và đầy nguy hiểm. Giáo hội luôn nhắc nhớ chúng ta về giá trị của sự thật và việc làm chứng cho sự thật, nên truyền thông xã hội cũng phải phục vụ sự thật.[47] Do đó, việc ngăn chặn những thông tin giả mạo và tái khám phá phẩm giá của báo chí trong việc truyền đạt sự thật là một đòi hỏi cấp thiết ngày nay trong không gian kỹ thuật số.
Thông tin giả mạo gây ra cho con người những tác hại rất lớn. Hậu quả của thông tin sai lệch làm mất uy tín của người khác, coi họ là kẻ thù, đến mức khiến họ trở nên những người tích cực tham gia mù quáng vào các cuộc xung đột hoặc trở thành tác nhân chính trong các cuộc xung đột. “Tin tức giả mạo là một dấu hiệu của thái độ không khoan dung và quá nhạy cảm, và chỉ dẫn đến sự lây lan của sự kiêu ngạo và thù hận. Đó là kết quả cuối cùng của sự không trung thực.”[48] Vì thế, không ai trong chúng ta được miễn trách nhiệm chống lại những điều gian dối này. Đây không phải là một nhiệm vụ dễ dàng. Nó đòi hỏi sự nỗ lực của nhiều tổ chức và cá nhân để giải thích và đáng giá thông tin do các phương tiện truyền thông cung cấp, đồng thời giáo dục và khuyến khích họ tham gia tích cực vào việc vạch mặt những điều sai trái, thay vì góp phần vào việc lan truyền thông tin sai lệch.
Việc vạch mặt và xác định cách thức hoạt động của thông tin sai lệch cũng đòi hỏi một quá trình phân định sâu sắc và cẩn thận. Cội nguồn của tất cả mọi sự dối trá là ma quỷ. (Mt 5,37) Chiến lược của nó là bắt chước một cách chính xác, hình thức dụ dỗ ranh mãnh và nguy hiểm đó đi sâu vào lòng người bằng những lý lẽ sai lầm và lôi cuốn, đến nỗi chúng ta có thể nói rằng, “không có cái gọi là thông tin sai lệch vô hại; trái lại, tin tưởng vào sự giả dối có thể gây ra hậu quả thảm khốc. Ngay cả một sự bóp méo dường như nhỏ của sự thật cũng có thể gây ra những tác động nguy hiểm.”[49] Do đó, việc giáo dục chân lý sẽ giúp mọi người biết cách phân định, đánh giá và hiểu những mong muốn và khuynh hướng sâu xa nhất của con người, kẻo chúng ta đánh mất điều tốt và khuất phục trước mọi cám dỗ.
Bên cạnh đó, sự ô nhiễm liên tục bởi ngôn ngữ lừa dối có thể khiến đời sống nội tâm của chúng ta bị đen tối. Vì thế, chúng ta phải có trách nhiệm và bổn phận tự bảo vệ chính mình bằng nhiều cách khác nhau. Tuy nhiên, “thuốc giải độc triệt để nhất cho vi-rút của sự giả dối là thanh lọc bằng sự thật.”[50] Trong cách hiểu của Kitô giáo, sự thật không phải là một thực tại khái niệm liên quan đến cách thức chúng ta đánh giá mọi thứ, xác định chúng là đúng hay sai. Sự thật không chỉ đưa ra ánh sáng những điều bị che giấu có thể khiến chúng ta tin tưởng. Nhưng “sự thật liên quan đến toàn bộ cuộc sống của chúng ta.”[51] Vì thế, sự thật là thứ bạn có thể dựa vào để không gục ngã. Trong ý nghĩa đó, chúng ta có thể khẳng định rằng, Đấng duy nhất thực sự đáng tin cậy và cậy trông – Đấng mà chúng ta có thể tin cậy – là Thiên Chúa hằng sống. Chính Chúa Giêsu Kitô là sự thật và chân lý của Thiên Chúa. Do đó, “chúng ta khám phá và tái khám phá sự thật khi chúng ta kinh nghiệm nó trong chính mình với lòng trung thành và đáng tin cậy của Đấng yêu thương chúng ta. Chỉ điều này thôi cũng có thể giải phóng chúng ta: Sự thật sẽ giải thoát anh em.”[52] Kết quả là, chúng ta trở nên những con người thực sự tự do để không lệ thuộc vào những gì là dối trá và sẵn sàng xây dựng một mối quan hệ dựa trên sự tin tưởng và sự thật. Tìm kiếm mối tương quan với tình huynh đệ, sự hiệp thông và lắng nghe nhau sẽ giúp chân lý được thực thi. Và khi sự thật được tìm kiếm liên lỉ sẽ giúp đẩy xa những gì là dối trá khỏi những suy nghĩ và tâm hồn của chúng ta.
4.3. Phẩm giá con người cần được tôn trọng trong không gian mạng
Trong môi trường Internet, những tác hại lớn lao liên quan đến con người được xem như là những điều ảnh hưởng đến phẩm giá của con người hơn hết. Phương tiện truyền thông mang đến nhưng sự thay đổi cơ bản trong các mô hình giao tiếp và các mối quan hệ giữa con người với nhau, trong đó phải kể đến những ảnh hưởng tiêu cực mà nó gây ra. Trên thực tế, Internet có thể giúp chúng ta trở thành những công dân tốt nhưng kèm theo đó phải là trách nhiệm của chúng ta trong việc tôn trọng phẩm giá của người khác. Dù chúng ta không nhìn thấy họ nhưng dù sao cũng là người có thật và có phẩm giá cần được tôn trọng. “Internet có thể được sử dụng một cách khôn ngoan để xây dựng một xã hội lành mạnh và cởi mở để chia sẻ.”[53] Điều này cũng có nghĩa là những người sử dụng Internet hoặc đang hoạt động trong môi trường mới nổi của truyền thông kỹ thuật số được khuyến khích thúc đẩy văn hóa tôn trọng, tương giao và đối thoại.[54]
Những công nghệ này thực sự là một món quà cho nhân loại và chúng ta phải nỗ lực để đảm bảo rằng những lợi ích mà chúng mang lại được phục vụ cho tất cả các cá nhân và cộng đồng con người, đặc biệt là những người thiệt thòi và dễ bị tổn thương nhất.[55] Do vậy, “những người đang hoạt động trong việc sản xuất và phổ biến nội dung truyền thông mới nên cố gắng tôn trọng phẩm giá và giá trị của con người.”[56] Mục đích tốt đẹp ban đầu của các phát minh trong lĩnh vực công nghệ nên được nhắc lại liên tục trong suốt quá trình phục vụ con người của nó. Ý thức được điều này, “tất cả chúng ta sẽ tránh chia sẻ những từ ngữ và hình ảnh làm suy đồi con người, thúc đẩy sự thù hận và không khoan dung, làm giảm đi sự tốt đẹp và thân mật của tình dục con người hoặc lợi dụng những người yếu đuối và dễ bị tổn thương.”[57]
Các công nghệ truyền thông hiện đại cũng đã mở ra con đường đối thoại trong nhiều lĩnh vực khác nhau giữa những tổ chức và con người từ các quốc gia, nền văn hóa và tôn giáo khác nhau. Không gian mạng trở thành một trung tâm cho phép diễn ra những cuộc gặp gỡ, học hỏi và trao đổi về những truyền thống và giá trị của nhau. Nó tạo nên một diễn đàn của những người yêu thích công nghệ mới và ứng dụng nó vào trong cuộc gặp gỡ có tính tương tác đa chiều. Trong những cuộc gặp gỡ này, “nếu muốn có kết quả, cần có những hình thức thể hiện trung thực và thích hợp cùng với sự lắng nghe chăm chú và tôn trọng.”[58] Bản chất của những cuộc đối thoại là cùng nhau tìm kiếm chân lý một cách chân chính và lẫn nhau. “Sau khi lắng nghe người khác bằng con tim trong sáng, chúng ta cũng có thể nói theo sự thật trong tình yêu.”[59] Nhưng cuộc gặp gỡ chỉ có thể đạt được mục đích sâu xa khi nó nhận ra được tiềm năng của nó để thúc đẩy sự phát triển trong hiểu biết và khoan dung. Vì thế, chúng ta cần khẳng định lại một cách chắc chắn lần nữa rằng, “cuộc sống của con người không chỉ là một chuỗi liên tiếp của các sự kiện hoặc các kinh nghiệm: nó là một cuộc tìm kiếm chân, thiện và mỹ.”[60]
Điều này chỉ có thể đạt được mục đích của nó nơi Chúa Giêsu. Chỉ có chân lý của Chúa Giêsu Kitô mới có thể đáp ứng đầy đủ và xác thực cho mong muốn của con người về mối quan hệ, sự hiệp thông và ý nghĩa được phản ánh trong sự phổ biến rộng rãi của mạng xã hội. Những đòi hỏi này bắt đầu từ những người tin vào Chúa Giêsu. Họ được mời gọi làm chứng cho niềm tin sâu sắc nhất của họ trong việc ngăn chặn những trang web đóng vai trò như một công cụ hạ thấp cá nhân con người, cố gắng thao túng con người về mặt cảm xúc hoặc những trang web cho phép những người có quyền lực độc quyền ý kiến của người khác. Bên cạnh đó, người Kitô hữu nên khuyến khích mọi người tiếp tục sống những câu hỏi vĩnh cửu của con người, những câu hỏi làm chứng cho ước muốn siêu việt và khao khát của chúng ta về những hình thức đích thực, thực sự đáng được sống. Sự khao khát thiêng liêng này chắc chắn sẽ truyền cảm hứng cho việc chúng ta ngày nay tìm kiếm sự thật và sự hiệp thông và thúc đẩy chúng ta giao tiếp với sự chính trực và trung thực.[61]
4.4. Công nghệ truyền thông phục vụ cho việc loan báo Tin mừng
Các công nghệ kỹ thuật số mới đang mang lại cho con người những sự thay đổi thực sự trong cuộc sống. Điều này cho thấy tiềm năng rất lớn của công nghệ truyền thông hiện đại trong mọi hoạt động của Giáo hội và xã hội. Nếu chúng ta biết cách sử dụng chúng một cách hiệu quả, chúng sẽ trở thành một tác nhân mạnh mẽ để thúc đẩy việc loan báo Tin mừng ngày nay. “Những công nghệ này thực sự là một món quà cho nhân loại và chúng ta phải nỗ lực để đảm bảo rằng những lợi ích mà chúng mang lại được phục vụ cho tất cả các cá nhân và cộng đồng con người, đặc biệt là những người thiệt thòi và dễ bị tổn thương nhất.”[62] Bên cạnh đó, Giáo hội cũng phải tận dụng những nguồn lực tài nguyên mới được cung cấp bởi sự khám phá của con người trong công nghệ máy tính và trí tuệ nhân tạo cho sứ vụ truyền giáo luôn cấp bách của mình. “Sứ điệp quan trọng và khẩn cấp nhất của Giáo hội liên quan đến sự hiểu biết về Đấng Kitô và con đường cứu rỗi mà Ngài đưa ra. Đây là điều mà Giáo hội phải đặt ra trước mọi người ở mọi thời đại, mời gọi họ đón nhận Phúc Âm trong tình yêu thương.”[63]
Phương tiện truyền thông luôn có sẵn và sẵn sàng phục vụ cho việc loan báo Tin mừng. Điều quan trọng của người Kitô hữu chính là khả năng sử dụng các ngôn ngữ mới của máy tính, không chỉ để theo kịp thời đại, nhưng đúng hơn là để cho phép sự phong phú vô hạn của Tin mừng được diễn đạt, và có thể chạm đến tâm trí và trái tim của tất cả mọi người. Đối với Giáo hội, “thế giới không gian mạng mới là một lời triệu tập cho cuộc phiêu lưu vĩ đại của việc sử dụng tiềm năng của nó để loan báo sứ điệp Tin Mừng.”[64] Vì thế, ý thức tầm quan trọng của việc loan báo Tin mừng và những ngôn ngữ mới để phục vụ cho việc truyền giáo cách hiệu quả, chúng ta cần chú ý cẩn thận đến việc hiểu biết văn hóa và phong tục của những người chưa nhận biết Thiên Chúa để chân lý của Tin mừng có thể chạm đến trái tim và tâm trí của họ. “Trái tim nói với trái tim.” (Thánh John Henry Newman) Do đó, “việc công bố Đức Kitô trong thế giới công nghệ mới đòi hỏi phải có kiến thức sâu rộng về thế giới này nếu các công nghệ đó phục vụ đầy đủ cho sứ mệnh của chúng ta.”[65] Đặc biệt, Giáo hội nên khuyến khích những người trẻ, những người có khả năng tiếp cận dễ dàng với những phương tiện truyền thông mới, đảm nhận trách nhiệm truyền bá Tin mừng hóa trong “lục địa kỹ thuật số” này.
Bên cạnh đó, mạng xã hội cũng là một phương tiện truyền bá Phúc âm, đồng thời cũng là một yếu tố trong sự phát triển của con người. Mạng xã hội cũng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc chia sẻ các nguồn tài nguyên tinh thần và phụng vụ, giúp mọi người cầu nguyện với cảm giác gần gũi hơn với những người có cùng đức tin. Nó cũng tạo nên một sự tương tác chân thực và hiệu quả giữa những người Kitô hữu có đức tin vững mạnh với những ai đang hoài nghi hoặc xa rời đức tin Kitô giáo, giúp họ nuôi dưỡng đức tin của họ bằng lời cầu nguyện và suy tư về sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống của họ. Món quà lớn nhất mà những người Kitô hữu có thể chia sẻ với mọi người trong không gian mạng lưới toàn cầu đó là Tin mừng về một Thiên Chúa đã trở thành người, Đấng chịu đau khổ, đã chết và đã sống lại để cứu tất cả mọi người. “Trái tim con người đang khao khát một thế giới mà tình yêu thương trường tồn, nơi những món quà được chia sẻ, nơi sự hiệp nhất được xây dựng, nơi tự do tìm thấy ý nghĩa trong sự thật và nơi bản sắc được tìm thấy trong sự hiệp thông tôn trọng.”[66]
Để kết luận, chúng ta không thể không nhắc lại sự thay đổi vĩ đại mà Internet đã mang lại cho nhân loại trong những thập niên gần đây. Nếu cuộc cách mạng công nghiệp đã mang lại một sự biến đổi sâu sắc trong xã hội nhờ những sửa đổi mà nó đưa vào chu trình sản xuất và đời sống của người lao động, thì những thay đổi căn bản đang diễn ra trong công nghệ truyền thông hiện đại đang hướng dẫn những phát triển quan trọng trong các nền văn hóa và xã hội.[67] Thiên niên kỷ thứ 3 được xem là thời kỳ biến đổi văn hóa rộng lớn ngang qua sự xuất hiện của những công nghệ truyền thông mới. Nó tạo nên một lối suy nghĩ và nghiên cứu mới, cùng với những cơ hội chưa từng có để thiết lập các mối quan hệ và xây dựng mối tương quan hỗ tương.
Rõ ràng, chân trời mới hiện nay mở ra tầm nhìn rộng lớn khiến con người phải ngạc nhiên về những gì nó đóng góp và cung ứng cho con người từ những phát minh vĩ đại của nó. Đồng thời, nó cũng thách thức khả năng nhận diện vấn đề đang gây nhiễu trong mạng lưới rộng lớn đó, đặc biệt là thúc đẩy con người ngày nay cam kết và dấn thân mạnh mẽ hơn trong việc suy tư cách nghiêm túc về tầm quan trọng của truyền thông xã hội trong thời đại kỹ thuật số hiện nay. Nghĩa là họ phải luôn sẵn sàng trong tư thế tỉnh táo và tỉnh thức để đối diện với những tiềm năng phi thường của Internet và sự phức tạp trong quá trình sử dụng chúng. Internet giống như một biên giới mới mở ra trong kỷ nguyên mới này. Giống như những biên giới mới của những thời đại khác, “biên giới này cũng đầy rẫy sự đan xen của nguy hiểm và hứa hẹn.”[68] Đối với Giáo hội, thế giới không gian mạng mới là một lời triệu tập cho cuộc phiêu lưu vĩ đại của việc sử dụng tiềm năng của nó để loan báo sứ điệp Tin Mừng và tân Phúc âm hóa. Cũng như mọi thành quả khác của sự khéo léo của con người, các công nghệ truyền thông mới phải được đặt để phục vụ lợi ích toàn diện của cá nhân và toàn thể nhân loại. Nếu được sử dụng một cách khôn ngoan, chúng có thể góp phần thỏa mãn khát vọng về ý nghĩa, chân lý và sự thống nhất vốn vẫn là khát vọng sâu xa nhất của mỗi con người.[69]
Mặc dù Internet không bao giờ có thể thay thế được kinh nghiệm sâu sắc về Thiên Chúa mà chỉ đời sống sinh hoạt, phụng vụ và bí tích của Giáo hội mới có thể cung cấp, nhưng nó chắc chắn có thể đóng góp một sự bổ sung và hỗ trợ độc đáo trong cả việc chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô trong cộng đồng, và nâng đỡ người mới tin trong cuộc hành trình đức tin đầy thách đố và cam go sau này của họ. Do đó, các tín hữu được khuyến khích để tiếp tục suy tư và sống những câu hỏi vĩnh cửu của con người, những câu hỏi làm chứng cho ước muốn siêu việt và khao khát của chúng ta về những hình thức sống đích thực, thực sự đáng được sống. Chính sự khao khát thiêng liêng duy nhất của con người này đã truyền cảm hứng cho việc chúng ta tìm kiếm sự thật và sự hiệp thông và thúc đẩy chúng ta truyền thông với sự chính trực và trung thực. Khi chúng ta trung tín với kế hoạch của Thiên Chúa, kết quả là, việc truyền thông sẽ trở thành một biểu hiện hữu hiệu của chúng ta trong việc tìm kiếm lẽ thật và theo đuổi điều thiện có trách nhiệm.
Linh mục Micae Rua Trần Phạm Hoàng Gia Thi SDB
WHĐ (18.05.2023)
[1] x. Phaolô VI. Inter Mirifica: Sắc Lệnh về Các Phương Tiện Truyền Thông Xã Hội (04/12/1963). Số 18.
[2] x. Gioan Phaolô II. Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 24 (27/05/1990).
[3] Bđd,.
[4] x. Bênêđictô XVI. Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 47 (12/05/2013), tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/-su-diep-cua-duc-thanh-cha-benedicto-xvi-nhan-ngay-the-gioi-truyen-thong-xa-hoi-lan-thu-47-17831
[5] Phanxicô. Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 53 (24/01/2019), tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/su-diep-cua-duc-thanh-cha-phanxico-cho-ngay-the-gioi-truyen-thong-xa-hoi-lan-thu-53-nam-2019–34731
[6] Bđd,.
[7] Pulkitagarwal03pulkit. Ưu và nhược điểm của Internet (Cập nhật: 28/06/2022). Trích dẫn từ: https://www.geeksforgeeks.org/advantages-and-disadvantages-of-internet/
[8] Matt Ahlgren. Hơn 100 thống kê, sự kiện và xu hướng Internet cho năm 2023. Trích dẫn từ: https://www.websiterating.com/vi/research/internet-statistics-facts/
[9] Computer Hope. Những lợi thế của Internet là gì? (Cập nhật: 12/01/2019). Trích dẫn từ: https://www.computerhope.com/issues/ch001808.htm
[10] Phanxicô. Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 53 (24/01/2019), tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/su-diep-cua-duc-thanh-cha-phanxico-cho-ngay-the-gioi-truyen-thong-xa-hoi-lan-thu-53-nam-2019–34731
[11] Bênêđictô XVI. Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 47 (12/05/2013), tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/-su-diep-cua-duc-thanh-cha-benedicto-xvi-nhan-ngay-the-gioi-truyen-thong-xa-hoi-lan-thu-47-17831
[12] Phanxicô. Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 52 (24/01/2018), tại: https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/su-diep-ngay-the-gioi-truyen-thong-xa-hoi-thu-52-2018–32294
[13] Bđd,.
[14] Eiler, Franz-Josef. Communicating in Ministry and Mission: An Introduction to Pastoral and Evangelizing Communication. Fourth Updated Edition Manila: Logos, 2018. p. 26.
[15] Phanxicô. Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 52 (24/01/2018), tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/su-diep-ngay-the-gioi-truyen-thong-xa-hoi-thu-52-2018–32294
[16] x. Phanxicô. Phanxicô. Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 53 (24/01/2019), tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/su-diep-cua-duc-thanh-cha-phanxico-cho-ngay-the-gioi-truyen-thong-xa-hoi-lan-thu-53-nam-2019–34731
[17] Bđd,.
[18] Bênêđictô XVI. Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 47 (24/01/2013), tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/-su-diep-cua-duc-thanh-cha-benedicto-xvi-nhan-ngay-the-gioi-truyen-thong-xa-hoi-lan-thu-47-17831
[19] Bênêđictô XVI. Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 45 (24/01/2011), tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/su-diep-cua-duc-thanh-cha-benedicto-xvi-nhan-ngay-the-gioi-truyen-thong-xa-hoi-lan-thu-45-17762
[20] x. Bênêđictô XVI. Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 47 (24/01/2013), tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/-su-diep-cua-duc-thanh-cha-benedicto-xvi-nhan-ngay-the-gioi-truyen-thong-xa-hoi-lan-thu-47-17831
[21] Gioan Phaolô II. Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 31(11/05/1997).
[22] Phanxicô. Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 52 (24/01/2018), tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/su-diep-ngay-the-gioi-truyen-thong-xa-hoi-thu-52-2018–32294
[23] Bđd,.
[24] x. Gioan Phaolô II. Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 26 (31/05/1992).
[25] Bđd,.
[26] x. Phanxicô. Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 50 (24/01/2016), tại
[27] Phaolô VI. Inter Mirifica: Sắc Lệnh về Các Phương Tiện Truyền Thông Xã Hội (04/12/1963). Số 1.
[28] Gioan Phaolô II. Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 26 (31/05/1992).
[29] Phanxicô. Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 52 (24/01/2018), tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/su-diep-ngay-the-gioi-truyen-thong-xa-hoi-thu-52-2018–32294
[30] Bđd,.
[31] Phaolô VI. Tông huấn Evangelii Nuntiandi. Số 45.
[32] x. Gioan Phaolô II. Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 36 (11/05/1997).
[33] Bênêđictô XVI. Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 43 (24/05/2009), tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/su-diep-cua-duc-thanh-cha-benedicto-xvi-nhan-ngay-quoc-te-truyen-thong-xa-hoi-lan-thu-43-24-05-2009-17705
[34] x. Phanxicô. Tông huấn Evangelii Gaudium (24/11/2013). Số 1, tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/tong-huan-niem-vui-cua-tin-mung-evangelii-gaudium-46656
[35] Gioan Phaolô II. Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 36 (12/05/2002).
[36] Phaolô VI. Tuyên ngôn về Tự do Tôn giáo Dignitatis Humanae (07/12/1965). Số 1.
[37] Gioan Phaolô II. Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 36 (12/05/2002).
[38] Gioan Phaolô II. Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 24 (27/05/1990).
[39] Bđd,.
[40] x. Vatican. Huấn thị Communio và Progressio (23/05/1971). Số 114.
[41] x. Bênêđictô XVI. Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 45 (05/06/2011), tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/su-diep-cua-duc-thanh-cha-benedicto-xvi-nhan-ngay-the-gioi-truyen-thong-xa-hoi-lan-thu-45-17762
[42] Bđd,.
[43] Phanxicô. Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 52 (24/01/2018), tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/su-diep-ngay-the-gioi-truyen-thong-xa-hoi-thu-52-2018–32294
[44] Bênêđictô XVI. Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 47 (24/01/2013), tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/-su-diep-cua-duc-thanh-cha-benedicto-xvi-nhan-ngay-the-gioi-truyen-thong-xa-hoi-lan-thu-47-17831
[45] Phanxicô. Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 52 (24/01/2018), tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/su-diep-ngay-the-gioi-truyen-thong-xa-hoi-thu-52-2018–32294
[46] Bdđ,.
[47] x. Phaolô VI. Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 6 (21/04/1972).
[48] Phanxicô. Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 52 (24/01/2018), tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/su-diep-ngay-the-gioi-truyen-thong-xa-hoi-thu-52-2018–32294
[49] Bđd,.
[50] Bđd,.
[51] Phanxicô. Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 53 (24/01/2019), tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/su-diep-cua-duc-thanh-cha-phanxico-cho-ngay-the-gioi-truyen-thong-xa-hoi-lan-thu-53-nam-2019–34731
[52] Phanxicô. Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 52 (24/01/2018), tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/su-diep-ngay-the-gioi-truyen-thong-xa-hoi-thu-52-2018–32294
[53] Phanxicô. Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 50 (24/01/2016), tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/su-diep-cua-duc-thanh-cha-phanxico-cho-ngay-the-gioi-truyen-thong-xa-hoi-lan-thu-50-17903
[54] x. Bênêđictô XVI. Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 43 (24/05/2009), tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/su-diep-cua-duc-thanh-cha-benedicto-xvi-nhan-ngay-quoc-te-truyen-thong-xa-hoi-lan-thu-43-24-05-2009-17705
[55] Bđd,.
[56] Bđd,.
[57] Bđd,.
[58] Bđd,.
[59] Phanxicô, Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 57 (24/01/2023), tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/su-diep-cua-duc-giao-hoang-phanxico-nhan-ngay-the-gioi-truyen-thong-xa-hoi-lan-thu-57-50274
[60] Bênêđictô XVI. Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 43 (24/05/2009), tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/su-diep-cua-duc-thanh-cha-benedicto-xvi-nhan-ngay-quoc-te-truyen-thong-xa-hoi-lan-thu-43-24-05-2009-17705
[61] x. Bđd,.
[62] Bđd,.
[63] Bđd,.
[64] Gioan Phaolô II. Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 36 (12/05/2002).
[65] Bđd,.
[66] Bênêđictô XVI. Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 47 (12/05/2013), tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/-su-diep-cua-duc-thanh-cha-benedicto-xvi-nhan-ngay-the-gioi-truyen-thong-xa-hoi-lan-thu-47-17831
[67] x. Bênêđictô XVI. Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 45 (05/06/2011), tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/su-diep-cua-duc-thanh-cha-benedicto-xvi-nhan-ngay-the-gioi-truyen-thong-xa-hoi-lan-thu-45-17762
[68] Gioan Phaolô II. Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 36 (12/05/2002).
[69] x. Bênêđictô XVI. Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 45 (05/06/2011), https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/su-diep-cua-duc-thanh-cha-benedicto-xvi-nhan-ngay-the-gioi-truyen-thong-xa-hoi-lan-thu-45-17762
2023
ĐÂU LÀ PHÂN ĐỊNH LUÂN LÝ ĐỐI VỚI CÁC VIỆC BÁC ÁI ?
ĐÂU LÀ PHÂN ĐỊNH LUÂN LÝ ĐỐI VỚI CÁC VIỆC BÁC ÁI ?
ĐÂU LÀ PHÂN ĐỊNH LUÂN LÝ ĐỐI VỚI CÁC VIỆC BÁC ÁI ?
Lòng bác ái có thể được biểu lộ như thế nào? Xuyên qua những công việc bác ái. Nhưng đối với nhiều người, bác ái bị nghi ngờ, từ ngữ “bác ái” gợi lên một khuôn mẫu lỗi thời, che giấu tồi một sự tiếp tay đối với một trật tự xã hội bất công. Trong Deus Caritas est, số 26, Đức Bênêđíctô XVI đã nhắc lại phong trào chống đối hoạt động bác ái của Giáo hội từ thế kỷ 19, được tư tưởng Marxít triển khai cách rõ ràng. “Việc chống đối này cho rằng người nghèo không cần đến những công việc bác ái, nhưng đòi hỏi công bằng. Những việc bác ái – việc bố thí – trong thực tế chỉ là cách thức để người giàu bỏ qua việc tái lập công bằng, ru ngủ lương tâm, bảo vệ vị trí riêng của mình và tước đi quyền lợi của người nghèo….”. Đức Bênêđíctô XVI nhìn nhận “vài điểm trong lập luận này, nhưng nhiều điểm sai lệch”.
Quả đúng là bác ái luôn bị đe dọa bởi sự đồi bại. Nhưng điều đó không có nghĩa rằng cần phải chối bỏ nó. Do đó, làm thế nào khôi phục danh dự cho nhân đức này? Đâu là phân định luân lý được thực hiện trên các việc bác ái?
1. Bác ái đích thực
Đâu có thể là ý nghĩa của cử chỉ đúng đắn này mà rõ ràng sẽ không giải quyết số phận của người nghèo? Chính cử chỉ bố thí không tránh khỏi ngờ vực. Người cho phải chăng không được đền trả lại? Do đó, một cử chỉ như thế không thể là nhưng không thuần túy. Quả thật, bác ái luôn dễ bị làm méo mó và phục vụ cho những lợi ích thầm kín.
Nhưng cho dù những động cơ ít nhiều vô thức của cử chỉ được thực hiện là gì, thì chắc chắn rằng thế giới hẳn phi nhân hơn nếu mỗi người không chịu chìa tay ra. Đôi bàn tay đưa ra đã diễn tả một khởi đầu ân cần. Nó là dấu của một thái độ không dửng dung. Nó đón nhận sự hiện diện của người khác. Nó biến lề đường, quán xá…thành những nơi gặp gỡ tha nhân. Nó là sự khởi đầu của bác ái: “Bác ái bắt đầu bằng những cử chỉ sơ đẳng tìm cách làm giảm cơn khát của con người mệt nhoài, tìm cách chìa tay ra cho người bị ruồng bỏ…[1]”
Nhưng sẽ là cái nhìn thiển cận về bác ái khi chỉ dừng lại ở việc bố thí. Vậy đâu là những tiêu chí của một bác ái đích thực? Sự liên kết giữa bác ái và công bằng cho chúng ta một tiêu chí đầu tiên: bác ái đích thực cần quan tâm đến công bằng. Việc bố thí làm phúc không miễn chuẩn một sự dấn thân cho công bằng[2]. Ngược lại, sự dấn thân cho công bằng không miễn trừ cử chỉ cá nhân đối với người nghèo. Đức Gioan-Phaolô II cung cấp cho chúng ta một tiêu chí khác về bác ái đích thực này vốn trái ngược với não trạng thời đại tìm kiếm một cử chỉ thuần túy vô vị lợi, hoàn toàn một chiều. Ngài biến sự hỗ tương thành điều kiện của bác ái đích thực: “Tình yêu thương xót, trong các tương quan của con người, không phải là một hành vi hay là một tiến trình đơn phương. Ngay cả trong các trường hợp mà tất cả dường như rằng chỉ một bên tặng và cho và bên kia chỉ lấy và nhận (chẳng hạn trong trường hợp bác sĩ chăm sóc, thầy dạy, cha mẹ nuôi dưỡng và giáo dục con cái, ân nhân giúp đỡ những người túng thiếu), thế nhưng, trên thực tế, ngay cả người cho vẫn luôn hưởng ích từ đó” (Dives in misericordia, số 14).
Xem xét lòng thương xót cách đơn phương, rốt cục đó là duy trì một khoảng cách giữa người làm việc thiện và người được hưởng. “Từ đó phát sinh tham vọng giải phóng các tương quan nhân loại và xã hội khỏi lòng thương xót và xây dựng chúng trên công bằng” (số 14). Công việc thanh tẩy các hành vi và ý hướng của chúng ta do đó hệ tại bước vào một sự hiểu biết song phương các thực hành của chúng ta, chứ không chỉ như là một thiện ích được làm cho người khác. Vì lòng thương xót “thực sự là một hành vi tình yêu thương xót chỉ khi, khi thực thi nó, chúng ta xác tín sâu xa rằng chúng ta lãnh nhận nó đồng thời từ những ai chấp nhận nó từ chúng ta. Nếu khía cạnh song phương và tính hỗ tương này thiếu đi, thì các hành động của chúng ta không còn là những hành vi thương xót đích thực nữa; sự hoán cải, mà con đường của nó được Chúa Kitô dạy cho chúng ta trong lời nói và mẫu gương của Ngài, cho đến thập giá, vẫn còn chưa được hoàn toàn thực hiện nơi chúng ta; và chúng ta vẫn còn chưa tham dự hoàn toàn vào nguồn mạch kỳ diệu của tình yêu thương xót, được mạc khải cho chúng ta nơi Ngài” (số 14). Chúa Kitô chịu đóng đinh được đề nghị cho chúng ta như là khuôn mẫu và “khi xây dựng cuộc đời chúng ta trên khuôn mẫu cảm động này, thì chúng ta, bằng tất cả lòng khiêm nhường, có thể biểu lộ lòng thương xót đối với những người khác, biết rằng Ngài đón nhận nó như thể nó được làm chứng cho chính Ngài (x. Mt 25, 34-40)” (ibid.).
Như thế, thay vì theo đuổi một cử chỉ làm phúc “thuần khiết về mặt luân lý”, hoàn toàn vô vị lợi, Đức Gioan-Phaolô II mời gọi chúng ta khám phá rằng chúng ta luôn hưởng ích lợi từ cử chỉ mà chúng ta thực hiện đối với những người túng thiếu. Các hành vi bác ái từ nay có thể được xem như là một ân sủng hơn là một nghĩa vụ: để “trả lại con người cho chính nó” (Dives in misericordia, số 14), để làm cho thế giới nhân bản hơn (x. GS số 40).
Như thế, tính đặc thù của Kitô giáo không hệ tại trong việc phục vụ tha nhân cách vô vị lợi – cái quan niệm vị tha của tương quan với tha nhân vốn có nguy cơ chuyển sang những hình thức óc gia trưởng hay chủ nghĩa luân lý (x. Piô XI, Divini Redemptoris, số 46: “Nhưng vẫn còn một phương dược hữu hiệu hơn, mà phải tác động cách trực tiếp hơn đến sự dữ hiện nay, đó là giới luật đức ái. Chúng tôi muốn nói đến đức ái Kitô giáo « kiên nhẫn và tốt lành » (1 Cor 13, 4), vốn biết tránh những dáng vẻ bảo vệ làm mất thể diện và mọi sự phô trương; đức ái mà, từ ban đầu của Kitô Giáo, đã chinh phục được cho Chúa Kitô những nghèo nhất giữa những người nghèo, những người nô lệ). “Trái lại, nên suy nghĩ sự đảo ngược sâu xa và sự lật đổ tận căn qua đó chính chủ thể được hiểu như là một người khác[3]”. Vấn đề không phải là chúng ta chăm lo cho người khác, chú ý đến hoàn cảnh của họ, nhưng là nhìn nhận bản thân chúng ta như họ, nhìn nhận họ như là những người khác “chính mình như một người khác”, khám phá ra họ là những bạn bè huynh đệ.
Du ngôn người Samaritanô nhân hậu (Lc 10, 29-36) cung cấp một mình họa tốt cho sự đảo ngược này. “Quả thế, chìa khóa hệ tại trong cách thức lật ngược hoàn cảnh mà nó thực hiện. Đối với luật sĩ hỏi Ngài – về việc giải thích giới răn yêu thương kép – ai là tha nhân của ông, Chúa Giêsu, sau khi đã kể câu chuyện về người bất hạnh bị bỏ rơi bởi hai người đạo đức và được cứu giúp bởi một người Samaritanô, đã hỏi: “Theo ý ông, ai trong ba người này đã tỏ ra là tha nhân của người bị rơi vào tay bọn cướp? (câu 36). Như thế, Ngài đã dẫn người đối thoại của Ngài đến chỗ tự đồng hóa, không phải với người này hay người kia có thể cứu giúp, nhưng với người đang cần được cứu giúp. Quả thế câu hỏi “ai là tha nhân mà tôi phải yêu mến?” không bao giờ có thể là “óc gia trưởng” và, do đó, trái ngược với thực tại sâu xa của tình yêu. Tình yêu này chỉ thực sự có thể nảy sinh ở đâu người ta chấp nhận không phải trước tiên yêu mến và giúp đỡ, nhưng là được yêu mến và được giúp đỡ…ngay cả bởi một người Samaritanô, tức là một kẻ thù và là một người chẳng ra gì[4]”. Sự lật ngược này là nguồn mạch và là điều kiện của sự gần gũi của chúng ta với những người nghèo nhất, với những người bị tổn thương của cuộc sống. Như thế, chìa tay cho người nghèo, đó là một cách nào đó nhớ đến các nạn nhân và các người cùng khổ như là những chủ thể bình đẳng và nhớ đến sự cùng quẫn của chúng ta. Đức Gioan-Phaolô II cho thấy quà tặng được cho và được nhận biểu dương phẩm giá con người và củng cố mối liên hệ xã hội và tinh thần: “Người cho trở nên quảng đại hơn khi nó cảm thấy được đáp trả lại bởi người chấp nhận quà tặng; cách hỗ tương, người nào biết nhận quà tặng với ý thức rằng bản thân mình cũng làm việc thiện khi chấp nhận quà tặng, thì, về phần mình, phục vụ cho sự nghiệp cao cả nhất của phẩm giá con người, và do đó đóng góp vào việc hiệp nhất con người cách sâu xa hơn” (Dives in misericordia, số 14).
2. Một đức ái sáng suốt
Tuy nhiên, lòng nhân từ, sự tử tế đối với người ăn xin không được chìm đắm trong sự mù quáng. Chắc chắn cần phải dè chừng “những lý do tốt lành” sai lạc của chúng ta về việc không cho mà rốt cục đi đến chỗ lên án người nghèo khổ. Truyền thống tông đồ đã soạn thảo các tiêu chí trong việc phân cấp trợ giúp cho người nghèo. Bởi vì là vô hạn, nên bác ái có nguy cơ đưa đến việc khai thác những tâm hồn quảng đại. Bác ái do đó phải sáng suốt. Về vấn đề này, France Quéré đã cho thấy trong Didachè, một cuốn giáo lý luân lý cổ xưa, một giáo huấn mà các Giáo Phụ sẽ không ngừng lặp lại: “Có óc thực tế, tập sách Didachè đề phòng những lạm dụng có thể xảy ra, bằng cách xác định những giới hạn cho bác ái…Để sống yêu thương, nó không được nhượng bộ cho sự mù quáng. Đó sẽ là tự buộc mình phải bị sụp đổ, do những chi tiêu thái quá đối với những kẻ thiếu tế nhị và như thế chỉ phục vụ cho cái xấu. Cần phải đọc tập khảo luận luân lý thực hành thú vị này. Tác giả của nó bảo vệ những người cho mà thu nhập của họ nói chung là khiêm tốn, nhưng lại có ưu tư đối với phẩm giá của những người hưởng nhận: cảnh khổ cực thoáng qua của họ không miễn cho họ các bổn phận đối với cộng đồng mà họ không ngừng thuộc về. Do đó, sách Didachè dạy phân biệt người túng thiếu thực sự và kẻ bịp bợm: nó giữ cân xứng sự trợ giúp cho công việc mà vị khách chấp nhận làm, khi anh ta có sức khỏe tốt. Sau cùng, nó đề phòng các cộng đoàn Kitô hữu chống lại việc lưu trú dài ngày: “Nếu anh ta cố chấp làm biếng, thì đó là một kẻ bịp bợm của Chúa Kitô. Hãy đuổi những người như thế”. Nhưng cuốn sách cũng khuyên tiếp đón mọi người xa lạ, ít ra thời gian của một chặng đường[5]”.
XII. 1. Bất cứ ai « đến » với bạn « nhân danh Chúa » đều phải được lãnh nhận (Mt 21, 9 ; Tv 117, 26) ; nhưng tiếp đến, sau khi đã thử người ấy, bạn sẽ biết phân định phải với trái : bạn có phán đoán của bạn. 2. Nếu người đến với bạn chỉ là qua đường, thì hãy giúp anh ta như bạn có thể. Nhưng anh ta chỉ ở lại nhà bạn hai hay ba ngày, nếu cần thiết. 3. Nếu anh ta muốn ở luôn nơi nhà bạn và anh ta là thợ, thì anh ta phải làm việc và tự nuôi sống. 4. Nhưng nếu anh ta không có nghề nghiệp, thì sự khôn ngoan của bạn phải bù vào đó, để một Kitô hữu không được sống nhàn cư nơi nhà bạn. 5. Nếu anh ta không muốn hành động như thế, thì đó là một kẻ bất chính của Chúa Kitô ; bạn hãy giữ mình khỏi những hạng người đó » ( « La Didachè », in Les Pères Apostoliques, Coll. Foi Vivante, Cerf, Paris, 1990, p. 60.)
Người xin, dù đó là ai, phải luôn được tôn trọng. « Bởi vì mọi người đều là hình ảnh hữu hình của Thiên Chúa vô hình và là người em của Chúa Kitô, nên người Kitô hữu nhận thấy nơi mỗi người chính Thiên Chúa với đòi hỏi tuyệt đối của Ngài về công bằng và tình yêu » (Justitia in Mundo, số 49).
3. Một đức ái sáng tạo
Sắc lệnh về Tông đồ Giáo Dân dành một đoạn cho hoạt động bác ái : « Ngày nay, hoạt động bác ái có thể và phải nhắm tới tất cả mọi người và mọi nhu cầu. Ở đâu có người thiếu ăn, thiếu uống, thiếu mặc, thiếu nhà ở, thiếu thuốc men, thiếu việc làm, thiếu giáo dục, thiếu những phương tiện cần thiết để sống xứng danh con người, ở đâu có người bị đau khổ vì nghịch cảnh, ốm yếu, chịu cảnh lưu đày, tù ngục, thì ở đó bác ái Kitô giáo phải tìm gặp, ân cần săn sóc, ủi an và xoa dịu họ bằng những trợ giúp thích đáng. Thi hành bổn phận này trước hết là bổn phận của những người giàu và các dân tộc giàu » (số 8). Như thế, các giáo dân có trách nhiệm hàng đầu trong việc thực thi và biểu lộ bác ái : tìm kiếm và khám phá những ai đang sống trong sự khốn quẫn, an ủi họ, nâng đỡ họ. « Từ đó, bác ái sẽ có ý nghĩa xã hội là trao lại cho họ những người đối thoại[6] ».
Trong bối cảnh hiện nay, vấn đề đối với các tổ chức Giáo Hội là biết làm thế nào chúng có thể còn làm chiếu sáng bác ái Kitô giáo. Những khai triển trên đây cho phép chỉ ra một vài đường hướng cho việc suy tư rộng rãi hơn.
a. Các tổ chức bác ái tôn giáo theo cách của mình phải biểu lộ sự biện chứng giữa công bằng và bác ái. Sứ mạng của chúng không thể khép mình vào việc phân phối các trợ giúp đủ loại khác nhau. Chúng phải làm cho bác ái lên tiếng nhưng cũng nhắc nhở những đòi hỏi công bằng. Vì các hoàn cảnh mà chúng gặp cũng là những hậu quả của một số bất công. Điều này cũng cho chúng một trách nhiệm đối với các cấp chính trị và kinh tế để nói lên những gì thuộc về công bằng.
Do đó, chúng cũng phải đóng góp vào việc tố giác và làm cho luật pháp tiến triển khi luật pháp này tỏ ra bất công hay bất lực. Trong trường hợp trái lại, đó sẽ là biến bác ái thành một phạm trù phụ so với công bằng. Thế nhưng, đối với chúng, trước hết vấn đề là diễn tả xuyên qua các hành động của chúng rằng tình yêu thương xót là nguồn mạch sâu xa nhất của công bằng.
b. Các tổ chức bác ái có một vai trò đặc thù phải thực hiện, một vai trò không được lẫn lộn với vai trò của các cấp kinh tế và xã hội. Trước hết, chúng không tồn tại để sửa chữa những rối loạn chức năng của kinh tế hay của chính trị. Nhưng xuyên qua các hành động của mình, chúng phải biểu lộ ý nghĩa của con người, « trả lại con người cho chính nó » theo kiểu nói của Đức Gioan-Phaolô II. Bởi thế, các tổ chức bác ái của Giáo hội được mời gọi cập nhật những hình thức nghèo khổ và sáng tạo nên những hình thức hiện diện và gần gũi mới mẻ nhằm khôi phục lại một tương quan nhân bản với những ai cách này hay cách khác đang sống trong sự túng thiếu. Vì thế, đức ái phải sáng tạo và làm nổi lên những hình thức can thiệp mới mẻ mỗi khi « Thiên Chúa bị đe dọa nơi con người và con người như là hình ảnh của Thiên Chúa bị đe dọa [7]».
c. Một đe dọa đè nặng trên mọi tổ chức : các việc thực hành trở thành lề thói. Các tổ chức bác ái phải canh chừng đừng để chìm đắm trong các thực hành hành chính, đừng nhượng bộ cho một lo-gíc cửa giao dịch hay một lo-gíc hiệu năng trong việc xem xét và cư xử các hoàn cảnh. Điều đó có nguy cơ làm biến mất chứng tá về « tình yêu thương xót ».
d. Các tổ chức bác ái cũng phải biết diễn tả sự biết ơn của chúng đối với các ân nhân giúp họ hành động và đối với các thụ nhân chấp nhận sự trợ giúp của chúng. Chính với điều kiện này mà các ân nhân sẽ có thể nhận ra ân huệ mà họ được đổ đầy khi đáp lại những lời cầu xin và các thụ nhân cũng sẽ có thể được mời gọi sống quảng đại đối với những người còn nghèo khổ hơn họ. Chính ở đó mà « không gian nên thánh » được mở ra cho họ và cho hết mọi người.
Tác giả: Dominique Greiner
(Tý Linh chuyển ngữ)
————————————————-
[1]C. Chalier, « Equité et bonté », art. cit., p. 35.
[2] Về vấn đề này, Catherine Chalier nói đến “cái bẫy ngộ đạo thuyết » trong đó các Kitô hữu đôi khi vấp ngã : một bác ái quá nhanh chóng rời bỏ công bằng : « Bác ái đích thực, bác ái mà không bao giờ quên sự cần thiết của công bằng, thật khó nghĩ và khó sống, biết bao nhiêu lần, viện cớ đến một lòng nhân từ được coi như là được cưu mang bởi lý tưởng imitatio Dei (bắt chước Thiên Chúa), con người có nguy cơ đầu hàng trước cám dỗ của một bác ái bất công, chẳng hạn nó cho kẻ tội phạm cư trú mà không đòi hỏi nó phải trả lẽ cho luật pháp của một nước » (Catherine Chalier, « Equité et bonté », Autrement, série Morale n° 11, avril 1993, p. 29).
[3]Denis Müller, « Estime et respect de soi, justice, reconnaissance » in Les passions de l’agir juste, EditionsUniversitaires, Fribourg, Cerf, Paris, 2000, p.112
[4]J.-F. Collange, « Foi, espérance, amour et éthique », art. cit., p. 43.
[5]France Quéré, « Un mot qui prend feu », Autrement, série Morale n° 11, avril 1993, pp. 43-44.
[6] Ibid., tr. 26.
[7]Règle de vie de la Congrégation des Augustins de l’Assomption, Rome, 1984, Chapitre 1, n° 4.
Tác giả bài viết: (Tý Linh chuyển ngữ)
2023
Người Kitô hữu trước vấn nạn tham gia mạng xã hội
Người Kitô hữu trước vấn nạn tham gia mạng xã hội
NGƯỜI KITÔ HỮU TRƯỚC VẤN NẠN THAM GIA MẠNG XÃ HỘI
Aug. Trần Cao Khải
Trong bài giảng tĩnh tâm Mùa Chay 2023 cho giới trẻ tại giáo xứ Đa Minh (Ba Chuông Saigon) với chủ đề “Những nấm mồ trên mạng xã hội”, Đức Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Khảm, giám mục Mỹ Tho, khi nói về những tác động và ảnh hưởng mạnh mẽ của mạng xã hội, đã dùng hai hình ảnh nổi bật trong Kinh Thánh, đó là dụ ngôn Người Samari nhân hậu (Lc 10,29-37) và câu chuyện Chúa Giêsu đứng trước mộ Lazaro (Ga 11,1-45) để dẫn giải rằng mặc dù mạng xã hội có nhiều điểm tích cực nhất định nào đó, nhưng bên cạnh cũng đầy dẫy những ảnh hưởng tiêu cực đáng lưu ý, nhất là đối với giới trẻ Công giáo chúng ta ngày nay. Trong phần kết luận, Đức Giám mục Mỹ Tho đã nói:
“Lắng nghe tiếng gọi, ‘Hãy ra khỏi mồ’. Nói đến những nấm mồ trên mạng xã hội làm cho chúng ta dễ có cảm giác Giáo Hội không có thiện cảm với mạng xã hội, và khuyến khích chúng ta tẩy chay mạng xã hội. Không! Không phải thế. Giáo Hội không tẩy chay mạng xã hội vì mạng xã hội có thể mang lại rất nhiều lợi ích và làm cho đời sống chúng ta phong phú hơn. Hơn nữa đây còn là sứ mạng của Giáo Hội: loan báo Tin Mừng bằng các phương tiện truyền thông, hiện diện ở nơi con người đang hiện diện: “Người trẻ – cũng như các thế hệ lớn hơn – xin Giáo Hội gặp gỡ họ nơi họ đang hiện diện, gồm cả mạng xã hội”. Vấn đề là hiện diện như thế nào? Chúa muốn chúng ta hiện diện như thế nào trên mạng xã hội?
“Suy nghĩ về mạng xã hội trong ánh sáng Tin Mừng hôm nay, chúng ta hãy hình dung Chúa Giêsu đang đứng trước cánh cửa tâm hồn mỗi người giống như Ngài đứng trước mồ của Lazaro, và Ngài cũng kêu lên “Hãy ra khỏi mồ”. Hãy ra khỏi nấm mồ của thế giới ảo; hãy ra khỏi nấm mồ của gian dối; hãy ra khỏi nấm mồ của hận thù và chia rẽ! Hãy bước vào mạng xã hội trong tư cách môn đệ của Chúa, nghĩa là trở thành người loan báo sự thật và gieo rắc tình yêu trong thế giới mạng xã hội.”[1]
Như vậy, người Ki-tô hữu chúng ta hãy mạnh dạn ra khỏi nấm mồ của thế giới tiêu cực của mạng xã hội, thế giới tràn ngập những gian dối, lọc lừa, phản bội, chia rẽ, hận thù, để can đảm bước vào mạng xã hội tích cực trong tư cách là môn đệ Chúa Ki-tô. Chúng ta sẽ biến thế giới ảo thành thế giới của sự thật, biến thế giới đố kỵ ghen ghét thành thế giới của tình thương và sự tha thứ. Với căn tính Ki-tô hữu của mình, nhờ Chúa Thánh Thần hướng dẫn, nhờ ơn khôn ngoan và khả năng phân định, chúng ta sẽ sử dụng mạng xã hội cách sáng suốt, tự tin, đúng với những giáo huấn và đường hướng mà Hội thánh đề ra.
Cách đây gần một năm, ngày 25-5-2022, trả lời phỏng vấn của Truyền Thông Gx Ba Chuông Saigon nhân Ngày Thế Giới Truyền Thông lần thứ 56 với chủ đề “Hãy lắng nghe bằng con tim”, Đức cha Phê-rô Nguyễn Văn Khảm, giám mục Mỹ Tho cũng đã nói như sau:
“…Trong thời kỹ thuật số ngày nay, mỗi chúng ta đều là chủ thể truyền thông, hoặc bằng cách đưa bài viết, tin tức, hình ảnh lên mạng; hoặc bằng cách phản hồi qua việc comment, like, share… Ở cả hai tư cách (người đưa tin và người nhận tin) chúng ta đều cần ý thức trách nhiệm của mình là người môn đệ Chúa Giêsu và tự hỏi xem: hành động của tôi có làm gia tăng sự hiệp thông và tình yêu thương trong Hội Thánh không, hay là gây chia rẽ và xung đột? Hành động của tôi có phục vụ cho sự thật hay lại cổ võ sự dối trá? Có gieo rắc cái đẹp của Phúc Âm không hay lại phá hủy vẻ đẹp đó?
“Tư cách Công giáo, tư cách môn đệ Chúa Kitô không chỉ thể hiện ở việc đi nhà thờ mà thôi, dù việc đó rất tốt, nhưng còn ở ngay lúc ngồi trước màn hình máy tính, lên mạng, vào mạng xã hội: tôi xem gì, đọc gì, nói gì, phản ứng thế nào… Tất cả đều phản ánh tư cách môn đệ của chúng ta. Nếu mỗi người Công giáo ý thức được điều này thì bằng chính những việc nhỏ bé hằng ngày, chúng ta trở thành những tông đồ trên máy tính, góp phần làm cho men Tin Mừng thấm nhập và lan tỏa nhiều nơi.”[2]
Như vậy, vấn đề của người Công giáo chúng ta hôm nay tự xét coi mình đã sử dụng mạng xã hội như thế nào cho phù hợp với tư cách của một Ki-tô hữu. Nhất là chúng ta có coi đó như là một phương tiện hữu hiệu, chính đáng để loan báo Tin Mừng Chúa Ki-tô cho hết mọi người xung quanh xa gần.
Chúng ta cũng biết rằng, “…Mạng xã hội trở thành một ‘lục địa mới’, với hơn nửa dân số thế giới tham gia mà đa số là người trẻ, và thời gian họ hoạt động trên đó mỗi ngày một nhiều hơn. Đây đúng là một lục địa bao la đang cần rất nhiều mục tử đến đồng hành và chăm sóc. Thật vậy, nhu cầu đối với Giáo hội hiện nay là làm thế nào để các mạng xã hội mang lại lợi ích từ sự tham gia đầy đủ của những người tin, những người khao khát chia sẻ sứ điệp của Đức Kitô và giá trị của phẩm giá con người vốn được giáo huấn của Đức Kitô khích lệ. Các tín hữu ngày càng nhận thức rằng nếu Tin Mừng không được phổ biến cả trong những môi trường kỹ thuật số, thì có thể sẽ vắng bóng trong kinh nghiệm của nhiều người, những người vốn coi không gian này là điều quan trọng. Môi trường kỹ thuật số không phải là một thế giới song song hay chỉ là một thế giới ảo, nhưng là thành phần của thực tại thường nhật của nhiều người, nhất là của giới trẻ.”[3]
Xin nhắc lại, ngày 13-11-2022, trên trang web của HĐGMVN (WHĐ) có đăng bài viết tựa “Giáo hội và mạng xã hội: ứng dụng mạng xã hội vào sứ mạng loan báo Tin Mừng” của LM George Nwachukwu, theo đó tác giả có nêu ý kiến như sau:
“Là người Công giáo, ơn gọi của mỗi người chúng ta cũng như của Giáo hội là trở thành người đem Tin Mừng của Chúa Giêsu đến cho mọi người. Chúng ta được kêu gọi để trở thành người chia sẻ với người khác những niềm vui và những gọi mời của đức tin. Vì tầm quan trọng của sứ vụ này, nên chúng ta cần sử dụng tất cả những phương tiện tốt nhất hiện có.
“Theo dòng lịch sử, phương tiện mà Giáo hội sử dụng để thi hành sứ mạng loan báo Tin Mừng đã được hỗ trợ bởi các công nghệ theo từng thời kỳ. Đối với Thánh Phaolô Tông đồ, đó là hệ thống đường sá La Mã. Đối với thời kỳ Cải Cách, đó là máy in. Đối với chúng ta ngày nay, đó là sức mạnh của Internet, thứ đang nằm trong tầm tay của gần như tất cả mọi người. Điều này có được là nhờ công nghệ hiện đại và sự ra đời của các mạng xã hội. Trong thời đại này, chúng ta có thể tiếp cận và giảng dạy cho hầu hết mọi người trên thế giới thông qua một thiết bị đơn giản mà chúng ta cầm trên tay. Thiết bị đó có thể là một máy tính xách tay hoặc một chiếc điện thoại di động trong túi chúng ta. Thế giới đã thay đổi và mở ra những cơ hội lớn cho Giáo hội trong thời đại hôm nay.”[4]
Nhân đây, trong khuôn khổ bài viết về đề tài người Công giáo trước vấn nạn tham gia mạng xã hội, chúng ta cùng tìm hiểu mấy vấn đề sau:
– Mạng xã hội là gì?
– Đôi nét về “Hội chứng nghiện mạng xã hội”
– Các mặt tích cực và tiêu cực đáng lưu ý của mạng xã hội
– Ki-tô hữu có nên tham gia mạng xã hội?
Trước đây, khi chưa biết đến mạng xã hội, bản thân người viết hình dung đó như là một cái gì ghê gớm lắm. Giống như một thứ bệnh “xã hội” lây lan trong cộng đồng khiến nhiều người mắc phải, đau khổ và chìm đắm trong đam mê tội lỗi! Nhưng sau khi đã “kết” mạng xã hội rồi thì mới thấy đây quả là một “lục địa mới” đầy hấp dẫn và tươi đẹp. Chúng ta cũng biết rằng, Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã gọi đó là agora (quảng trường hay Sân chư dân) mới, một không gian công cộng rộng mở, nơi con người chia sẻ ý tưởng, thông tin, ý kiến, và là nơi cũng có thể nảy sinh những mối tương quan và những hình thức cộng đoàn mới[5].
Sau đây ta thử tìm hiểu đôi nét về mạng xã hội.
Mạng xã hội trong tiếng Anh là Social network. Theo tổng hợp trên Wikipedia, mạng xã hội với cách gọi đầy đủ là “dịch vụ mạng xã hội” hay “trang mạng xã hội”, là nền tảng trực tuyến nơi mọi người dùng để xây dựng các mối quan hệ với người khác có chung tính cách, nghề nghiệp, công việc, trình độ,… hay có mối quan hệ ngoài đời thực.
Mạng xã hội có nhiều dạng thức và tính năng khác nhau, có thể được trang bị thêm nhiều công cụ mới, và có thể vận hành trên tất cả các nền tảng như máy tính để bàn, máy tính xách tay, máy tính bảng hay điện thoại thông minh.
Mạng xã hội cho phép người dùng chia sẻ câu chuyện, bài viết, ý tưởng cá nhân, đăng ảnh, video, đồng thời thông báo về hoạt động, sự kiện trên mạng hoặc trong thế giới thực. Nếu như trong mô hình mạng xã hội truyền thống, ví dụ như sự kiện hội chợ, đã tồn tại từ lâu trong lịch sử thì mạng xã hội trên web giúp người dùng kết nối với những người sống ở nhiều vùng đất khác nhau, ở thành phố khác hoặc trên toàn thế giới.
Mạng xã hội là kênh kết nối, chia sẻ và tiếp nhận thông tin ngày càng trở nên phổ biến và mở rộng. Những tác động của nó tới đời sống con người cũng ngày càng rõ rệt, được thể hiện trên cả hai phương diện tích cực và tiêu cực[6].
Chúng ta biết rằng, “trên thế giới, số lượng người dùng mạng xã hội tính đến tháng 01 năm 2021 đạt hơn 4,2 tỷ người dùng, chiếm khoảng 53% tổng dân số toàn cầu. Con số này sẽ tiếp tục tăng trong tương lai gần. Facebook vẫn là nền tảng mạng xã hội được nhiều người truy cập nhất với hơn 2,7 tỷ người dùng tích cực, tiếp theo là YouTube (2,2 tỷ), WhatsApp (2 tỷ), Facebook Messenger (1,3 tỷ), WeChat (1,2 tỷ), Instagram (1,158 tỷ), TikTok (0,689 tỷ),… Có tới 86% người trẻ từ 18 đến 29 tuổi sử dụng Facebook và là thành phần chiếm đa số người dùng mạng xã hội này. Một người dùng mạng xã hội thường có trung bình 9 tài khoản khác nhau và dành ra trung bình mỗi ngày 2 giờ 24 phút trên mạng xã hội, tăng hơn 1 giờ đồng hồ so với năm 2015.
“Riêng tại Việt Nam, như cầu sử dụng mạng xã hội xem ra ngày càng gia tăng. Thống kê cho hay, Việt Nam là nước có số lượng người dùng mạng xã hội cao hơn mức trung bình thế giới. Dân số Việt Nam hiện nay là 97.980.706, đứng thứ 15 thế giới, nhưng số lượng người dùng Facebook tại Việt Nam thì vươn lên 8 bậc, đứng thứ 7 thế giới với hơn 69 triệu người, chiếm 70,1% toàn bộ dân số. Đó là chưa kể đến số lượng người dùng các mạng xã hội nổi tiếng khác như Zalo, YouTube, Tiktok,…
“Với số lượng người dùng lớn như vậy, trong các gia đình Việt Nam, từ ông bà, cha mẹ, cho đến trẻ em, hầu hết mọi người đều có tài khoản mạng xã hội để nối kết và đăng tải các sự kiện lớn nhỏ trong đời sống mỗi người. Trong đó, người trẻ hoạt động tích cực nhất. Theo thống kê, đa số người dùng Facebook tại Việt Nam có độ tuổi còn khá trẻ từ 18 – 34 tuổi (chiếm hơn 23 triệu người). Đặc biệt, thời gian người Việt sử dụng mạng xã hội cũng nhiều hơn mức trung bình thế giới. Theo một nghiên cứu của Đoàn Thanh niên Bộ Tư pháp, trung bình một ngày, người Việt Nam bỏ ra khoảng 6 giờ 53 phút để lướt Web nếu dùng máy vi tính cá nhân và Tablet; 2 giờ 33 phút nếu dùng điện thoại di động; và dành 2 giờ 39 phút cho mạng xã hội, nhiều hơn mức trung bình của thế giới 15 phút.”[7]
Như vậy, ta có thể thấy ngay rằng ngày hiện nay mạng xã hội đã trở thành “người bạn đường” rất thân thương của nhiều người, nhất là đối với những người trẻ. Sự thân thiết mạnh mẽ đến nỗi người ta coi đó như một hội chứng cuồng mạng xã hội. Quả thực nhiều người cuồng điên vì lệ thuộc quá nhiều vào mạng xã hội. Ta hãy thử xem một trường hợp điển hình được báo chí kể lại sau: Cô gái tên T. 27 tuổi có thói quen cứ dừng đèn đỏ là lôi điện thoại ra kiểm tra và trả lời tin nhắn trên mạng xã hội. Cô thường tốn thời gian đi đường nhiều gấp đôi người khác. Cô thừa nhận “Quãng đường người khác đi hết 15 phút thì tôi có thể cần tới 30 phút!”. Chiếc smart-phone gần như không rời khỏi tay vì cô luôn có cảm giác “sợ lỡ mất thông tin quan trọng!”.
Trên thực tế, còn cả trăm, nghìn trường hợp khác cho thấy người ta gắn bó với mạng xã hội như thế nào. Ngay cả khi đi khám bệnh, đi làm giấy tờ ở công sở, chờ đợi ở sân bay, trên xe đò, xe buýt, ở quán ăn, quán cà-phê…thậm chí ngay cả đang đi xe máy, xe hơi người ta cũng tranh thủ vào mạng xem có gì mới lạ! Bản thân tôi, người viết, còn chứng kiến nhiều bạn trẻ, khi đi lễ Chúa nhật, không quên cầm theo điện thoại để kết nối… Có người ngồi ngoài sân, ngoài đường vừa “xem/ nghe” lễ vừa kết nối. Có người khi vừa vào trong nhà thờ chưa kịp làm dấu đọc kinh đã rút cái smart-phone ra để “lướt mạng”, nhắn tin…Tất cả điều này cho thấy nhiều người đang bị nghiện mạng xã hội.
Theo các chuyên gia, tại Việt Nam, tình trạng lệ thuộc mạng xã hội được đánh giá là rất phổ biến. Theo báo cáo Digital 2021 của công ty quảng cáo kỹ thuật số We Are Social (Anh), Việt Nam có khoảng 72 triệu người dùng mạng xã hội, tương đương hơn 73% dân số. Nhóm 25-34 tuổi và 18-24 tuổi lần lượt là hai nhóm sử dụng nhiều nhất nên hay xuất hiện tình trạng lệ thuộc nhất. “Chỉ cần ra quán cà phê, ta sẽ thấy các bạn trẻ cắm đầu vào điện thoại cả buổi mà không tương tác trực tiếp với nhau”. Báo cáo Digital 2021 cũng cho thấy mỗi ngày, người Việt dùng Internet trung bình 6 tiếng 47 phút, trong đó 2 tiếng 21 phút dành riêng cho mạng xã hội. Với những người lệ thuộc “chuyên nghiệp” thì thời gian truy cập hàng ngày lên tới 5-6 tiếng. Có người khẳng định, “Trước khi đi ngủ, tôi cũng phải lướt mạng ít nhất một tiếng đồng hồ!”[8]
Khi nói một ai đó lệ thuộc quá nhiều vào mạng xã hội thì có nghĩa là họ đang mắc phải hội chứng nghiện-mạng-xã-hội. Theo các nhà chuyên môn thì hiện tượng này không phải là mới. Chương trình Nghiên cứu Internet và Xã hội (VPIS) thuộc ĐH. KHXH-NV Hà Nội trong báo cáo có tên “Tác động tâm lý của mạng xã hội với tâm lý người dùng” năm 2017 cho hay là có 20% người Việt vào mạng xã hội trên ba tiếng đồng hồ mỗi ngày, có 54% truy cập hơn một tiếng một ngày, có 39 % rất đau buồn nếu mạng xã hội bị đóng cửa, có 37% khẳng định nó là phần quan trọng của cuộc sống và có 35% khó chịu, lạc lõng nếu không được truy cập trong 1-2 ngày… Đặc biệt, khi tiến hành thực nghiệm 72 giờ không mạng xã hội, có hơn 43% người tham gia vi phạm cam kết ngay sau sáu tiếng đầu tiên. Những trạng thái cảm xúc thường thấy là mất kết nối với bạn bè, lạc hậu do không nắm được các thông tin đang diễn ra và bứt rứt, như thiếu thốn một thứ gì đó. Các chuyên gia cho rằng những người nghiện mạng xã hội luôn có những dấu hiệu đặc trưng của tình trạng nghiện như ngày càng gia tăng thời lượng sử dụng, trăn trở và tìm kiếm, khó chịu khi tìm cách giảm sử dụng…do đó đối với một số người từ bỏ mạng xã hội là điều không tưởng. Có người tuyên bố thẳng thừng là không có nó (MXH) thì họ sẽ chết mất!
LM Giuse Vũ Hữu Hiền trong bài “Giáo hội, người trẻ và mạng xã hội” đăng trên trang web của HĐGMVN (WHĐ) ngày 12-12-2021 khi đề cập đến vấn đề nghiện mạng xã hội, đã cho biết như sau:
“Các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng: việc lạm dụng mạng xã hội sẽ tạo ra một kiểu kích thích tương tự như những kích thích được tạo ra bởi các hành vi gây nghiện khác. Một nghiên cứu cho thấy: việc nhận được “lượt thích (like)” trên mạng xã hội sẽ kích hoạt các mạch não tương tự như trong não của các thiếu niên được kích hoạt bằng cách ăn sôcôla hoặc trúng thưởng. Khi một thanh thiếu niên đăng nội dung nào đó trực tuyến và nhận được lượt thích (like), chia sẻ (share) và nhận xét tích cực (comment) từ bạn bè của họ, não bộ sẽ tiết ra dopamine – một chất hóa học tạo khoái cảm. Đối với một số người, điều này có thể bắt đầu một chu kỳ gây nghiện khiến họ dành nhiều thời gian hơn trên mạng xã hội.” Về vấn đề liệu có thể cai-nghiện-mạng-xã-hội được không, tác giả bài viết trên cho hay:
“Tình trạng nghiện mạng xã hội ở người trẻ thường là kết quả của các vấn đề tiềm ẩn, chẳng hạn như căng thẳng mãn tính, lo lắng hoặc chấn thương thời thơ ấu. Do đó, việc điều trị bệnh nghiện này tại Học viện Newport luôn bao gồm việc ngưng sử dụng điện thoại và mạng xã hội. Khi cai nghiện như thế, họ sẽ có các triệu chứng giống như khi cai thuốc: lo lắng, tăng nhịp tim, run rẩy… Sau vài ngày, họ được hướng dẫn trở lại với môi trường “sống thực”, hình thành tình bạn trực diện, kết nối lại với thiên nhiên và khám phá các hoạt động ngoại tuyến đầy tính sáng tạo và lành mạnh.”[9]
Các chuyên gia cho biết mặc dù trên thực tế số người tìm đến sự trợ giúp vì mắc chứng lệ thuộc mạng xã hội còn khá ít song điều này không có nghĩa đây không phải là vấn đề cần lưu tâm. So với các chứng nghiện như nghiện rượu hay nghiện mua sắm, chứng lệ thuộc mạng xã hội không bị lên án, khó nhìn thấy ngay hậu quả nhưng vẫn tác động nặng nề tới sinh lý, tâm lý cá nhân và cả xã hội.
Riêng trong phạm vi người Công giáo chúng ta, tôi nghĩ là con số người nghiện mạng xã hội không phải là nhỏ, nhất là bộ phận giới trẻ ngày nay. Phải thừa nhận một điều này là mạng xã hội thực sự đã là một cám dỗ rất mạnh mẽ đối với nhiều người, thuộc nhiều lứa tuổi. Một đứa bé hai, ba tuổi đã biết mở youtube quẹt quẹt bấm bấm để xem các chương trình chúng nó thích. Bên cạnh đó, các cụ ông cụ bà sáu bảy mươi tuổi cũng mò mò để vào các trang mạng xã hội theo dõi tin tức, nghe nhạc, nghe giảng, hay chát chít tám chuyện với bạn bè, với người thân xa, gần. Riêng giới trẻ và trung niên là thành phần chiếm đa số người dùng mạng xã hội thì quá sành sỏi trong các thao tác có trên máy tính cá nhân, máy tính bảng hay trên các smart-phone, để giao lưu trực tuyến, chia sẻ câu chuyện, bài viết, ý tưởng cá nhân, đăng ảnh, gửi video, đồng thời thông báo về hoạt động, sự kiện trên mạng hoặc trong thế giới thực vv.
Hiện nay, mọi người đều thống nhất ý kiến cho rằng mạng xã hội như con dao hai lưỡi, nếu ta khôn ngoan, tỉnh táo thì mạng xã hội là một người bạn tốt, một người thầy giỏi, còn nếu ta u mê, dại dột thì nó trở thành một nhân tố tác hại khôn lường.
Sau đây, chúng ta sẽ tìm hiểu hai mặt tích cực và tiêu cực của mạng xã hội dựa theo nhận định của các chuyên gia và căn cứ kinh nghiệm cá nhân của những người thường xuyên sử dụng mạng xã hội.
III. KHÍA CẠNH TÍCH CỰC VÀ TIÊU CỰC CỦA MẠNG XÃ HỘI
Trên trang elle.vn ngày 30-3-2016 có đăng bài tựa “10 lợi ích khi sử dụng mạng xã hội”, ngay từ đoạn đầu tác giả đã viết như sau:
“Kể từ khi có kết nối mạng trên toàn cầu (internet) và nhất là sau khi điện thoại thông minh hay máy tính bảng được chế tạo, việc sử dụng mạng xã hội (Facebook, Instagram, Viber, Zalo, Skype, Whatsapp, Youtube, Linked, Twitter, vv…) đã không còn xa lạ với hầu hết người dùng, kể cả trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn tuổi.
“Mặc dù nhiều người dùng phàn nàn về sự thiếu kiểm soát trong việc sử dụng rộng rãi các mạng xã hội như: có khả năng gây nghiện cao, mất nhiều thời gian, công sức và tiềm ẩn nhiều rủi ro về đời sống cá nhân hay sự cân bằng cảm xúc do quá mải mê hay ganh đua số lượng fan hoặc cạnh tranh, so sánh hay chỉ trích thái quá, nhưng mạng xã hội/ social network vẫn tiếp tục được sử dụng ngày càng rộng rãi là vì những lợi ích tuyệt vời do xu thế này đang mang lại mà chúng ta không thể phủ nhận. Tất cả những gì chúng ta cần làm là có một chiếc điện thoại thông minh hay máy tính bảng, máy tính cá nhân có cài đặt sẵn tính năng sử dụng social network mà chúng ta muốn tham gia, tạo lập một tài khoản hay đăng ký một số điện thoại là ta sẽ có được những lợi ích rõ ràng cho cuộc sống này…”[10]
Sau đây, chúng ta thử liệt kê ra một số ưu điểm nổi bật của mạng xã hội.
1.1. Công nghệ cao, tính năng dễ sử dụng, dịch vụ rẻ tiền, phổ biến
Như trên đã có dịp đề cập, hiện nay trên thế giới và tại VN, số người dùng mạng xã hội ngày càng tăng. Đó là xu thế tất yếu của thời đại công nghệ 4.0. Trước đây, khi chưa có mạng internet, mạng di động, mạng xã hội thì không ai nghĩ rằng chỉ với một chiếc điện thoại thông minh nhỏ bằng bàn tay là người ta có thể sử dụng cách quá dễ dàng các tính năng sẵn có để kết nối, giao lưu, học hành, liên lạc, chia sẻ hay tiếp nhận thông tin với bất kỳ một ai ở bất kỳ nơi đâu và trong bất cứ thời điểm nào.
Mạng xã hội đang phổ biến hiện nay tại VN là Facebook, Zalo, Youtube, Tiktok…và số người đang sử dụng mạng xã hội ước chừng khoảng trên 73% dân số. Ai cũng biết rằng, việc sở hữu và thực hành mạng xã hội có những ưu điểm rõ rệt, đó là dễ sử dụng, không tốn kém, nhanh gọn và rất phổ biến. Phổ biến là vì bất kỳ ai cũng có thể lập tài khoản mạng xã hội riêng cho mình, đồng thời bất kỳ ai cũng có thể tham gia là thành viên các trang mạng, hay giao lưu kết bạn với bất cứ ai sống trên hành tình này. Một em bé dăm ba tuổi cũng có thể sử dụng thành thạo Youtube, một cụ già, một chị bán rau bán cá ngoài chợ hay một bác lái xe ôm cũng hằng ngày vào mạng Facebook để xem-nghe-nhìn những gì có trên mạng.
Có thể kể mấy công dụng chính của mạng xã hội hiện nay như sau: kết bạn giao lưu, học tập, tiếp nhận và chia sẻ thông tin, kinh doanh mua bán, trau giồi các kỹ năng, giảng dạy, phổ biến kiến thức cá nhân, lập các nhóm cùng chung chí hướng và sở thích vv.
Thực vậy, “Mạng xã hội góp phần tích cực vào sự phát triển nhận thức, tư duy và kỹ năng sống của con người: Mạng xã hội đang ngày càng trở thành nơi cung cấp tin tức, kiến thức về tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chỉ với một vài thao tác đơn giản, người dùng sẽ luôn nhận được những thông tin cập nhật kịp thời về lĩnh vực, vấn đề mà mình quan tâm theo dõi. Qua đó giúp họ có thể nắm bắt được các xu thế của đời sống phục vụ cho công việc và cuộc sống của mình. Bên cạnh đó, trên mạng xã hội có nhiều trang dạy kỹ năng sống như ngoại ngữ, nấu ăn, sửa chữa, giao tiếp, tâm lý, thể thao… giúp người dùng có những kỹ năng cơ bản cần thiết trong cuộc sống hiện đại mà không cần đến lớp hay đóng học phí.”[11]
1.3. Môi trường giao tiếp thuận lợi
Ngày nay, các chuyên gia đều đề cập đến công dụng kết nối các mối quan hệ của mạng xã hội như là một lợi ích tuyệt vời và hấp dẫn. Họ đã nhận định:
“Đặc điểm nổi bật chính của các mạng xã hội chính là thúc đẩy quá trình tương tác với người thân, bạn bè. Nếu như trước kia chúng ta không có điều kiện, cơ hội gặp gỡ bạn bè, người thân, chúng ta phải liên lạc với họ qua thư từ, điện thoại khiến chúng ta tốn khoản tiền dịch vụ không nhỏ.
“Khi mạng xã hội xuất hiện, chúng giúp chúng ta thoải mái cập nhật trạng thái, liên hệ với người thân, bạn bè ở bất cứ nơi đâu, chỉ cần chúng ta có trong tay chiếc máy tính hay là điện thoại thông minh. Thời đại công nghệ hiện nay, con người chúng ta có thói quen hay chia sẻ bày tỏ những cảm xúc trên mạng xã hội. Bất cứ khi nào chúng ta cũng có thể kịp thời cập nhật ngay những câu chuyện, suy nghĩ của họ mà không cần phải nghe lại lời kể của ai. Những người thân, bạn bè đã một khoảng thời gian dài không gặp cũng có thể chat chit, trò chuyện trực tuyến với họ hàng ngày mà không gây tốn kém tiền bạc, cảm giác thật như vừa mới gặp họ vậy. Vì vậy trò chuyện thông qua các trang mạng xã hội sẽ giúp chúng ta gắn bó, đến gần với nhau hơn.”[12]
1.4. Phương tiện giải trí gọn nhẹ, không tốn kém
Chúng ta đều biết rằng, hầu hết các bạn trẻ nam nữ đều ưa thích các phương tiện giải trí như phim ảnh, ca nhạc, biểu diễn nghệ thuật vv. Ngày trước khi chưa có mạng xã hội thì họ phải đến rạp hay đến các tụ điểm vui chơi giải trí hay ít ra theo dõi các chương trình giải trí trên màn ảnh TV…Nhưng nay khi đã có mạng xã hội, họ có thể xem trực tiếp “live” các chương trình giải trí truyền đi trên Youtube, Facebook mà không tốn kém một đồng nào. Nhiều bạn còn quy tụ nhóm bạn yêu văn nghệ từ khắp nơi cùng hát, cùng chia sẻ niềm vui qua việc cài đặt các ứng dụng thích hợp.
Thực vậy, “Cái gì cũng có trên social-network cả! Nào là nghe nhạc miễn phí, xem phim online, chơi trò chơi điện tử trực tuyến, quá nhiều thứ để giải trí đang luôn sẵn sàng chờ các bạn trẻ đăng ký làm thành viên và tham gia chơi trong mạng lưới rộng thậm chí trên toàn quốc hay toàn thế giới như trò chơi Võ lâm truyền kỳ, trò chơi Angry Brids, hay phim và clip nhạc đều có phụ đề các loại ngôn ngữ khác nhau cho bạn lựa chọn. Chắc chắn trong lịch sử văn minh loài người, chưa bao giờ có cái thời đại nào các bạn trẻ lại được giải trí dễ dàng, thuận tiện và thoải mái như hiện nay.”[13]
Như trên đã nói, mạng xã hội là con dao hai lưỡi, có mặt tích cực, ưu điểm thì bên cạnh đó cũng có mặt tiêu cực, khuyết điểm. Dựa vào thực tế và kinh nghiệm của người dùng mạng xã hội, ta có thể tạm liệt kê ra mấy điểm sau:
Chúng ta đều biết rằng, mạng xã hội là thứ dễ gây nghiện như nghiện ma túy, nghiện rượu, nghiện thuốc hút, nghiện game…Một khi đã nghiện rồi thì khó bỏ, khó thoát khỏi sự ràng buộc kỳ lạ của nó. Ngay cả những người mang danh là trí thức cũng có thể rơi vào tình trạng nghiện mạng một cách không ngờ. Thậm chí có nhiều bạn trẻ thẳng thắn nói rằng bỏ cái gì thì bỏ chứ không bỏ “mạng”! Tuy nhiên, hiện nay cũng có một số bạn trẻ đi ngược lại cái xu thế nghiện mạng qua hành động tự nguyện nhằm “thanh lọc” bản thân khỏi sự ràng buộc quá đáng của mạng xã hội. Các chuyên gia nhận định là nhiều bạn trẻ Việt Nam trong thời gian gần đây đang dùng các biện pháp khác nhau để giảm thiểu thời gian sử dụng, “thanh lọc” các trang mạng xã hội cá nhân của mình. Lý do là vì việc sử dụng mạng xã hội nhiều có thể dẫn đến chất lượng giấc ngủ thấp, gây hại cho sức khỏe tâm thần. Vì vậy, gần đây, nhiều bạn trẻ Việt Nam đang lựa chọn xu hướng thanh lọc mạng xã hội để hướng tới một cuộc sống tốt hơn.
2.2 Tốn kém thời gian và sức lực
Theo báo cáo về thị trường số 2022 của We Are Social, số người dùng mạng xã hội tại Việt Nam chiếm hơn 78% dân số. Trung bình mỗi ngày, người Việt dùng mạng xã hội trong thời gian 02 giờ 28 phút, tương đương với mức trung bình của thế giới. Thực tế, thời gian dùng mạng xã hội của nhiều người còn cao hơn nữa. Có thể từ 4-6 giờ mỗi ngày. Có người sáng sớm vừa thức giấc đã lướt mạng và đến tối trước ngủ cũng dành thời gian dài để vào mạng. Điều đó sẽ là nguyên nhân gây tốn phí thời gian và sức lực của nhiều người. Thay vì dành thời gian để học tập, nghiên cứu, đọc sách, đi dạo chơi hay du lịch thì người ta cắm cúi vào chiếc điện thoại thông minh từ sáng đến tối để tự thỏa mãn đam mê! Nhất là việc sử dụng mạng xã hội thường dẫn đến mức độ lo lắng và căng thẳng cao, và điều này sẽ trở thành nguyên nhân gây ra một số bệnh như trầm cảm, mất ngủ, lo âu…
Các nhà nghiên cứu mạng xã hội đã nhận xét, thế hệ trẻ hầu như quá mải mê với mạng xã hội thay vì dành thời gian đó để làm những công việc thực tế hữu ích. Họ lãng phí quá nhiều thời gian trên các nền tảng này đến mức có khi họ phải mua các bài giải đề thi nơi các nhà cung cấp dịch vụ trực tuyến. Họ dành hàng giờ trên mạng xã hội để theo dõi, kiểm tra thông tin cập nhật và phản ứng với các hoạt động của bạn bè.
2.3 Nguyên nhân gây một số bệnh
Như trên đã đề cập, nếu người dùng lạm dụng mạng xã hội thì dễ mắc phải những chứng bệnh về tâm thần và sức khỏe bị sa sút. Chứng bệnh điển hình nhất nơi người dùng mạng xã hội lâu giờ trong ngày, đó là chứng căng thẳng, lo âu, cáu gắt và khó ngủ. Rồi lâu ngày tình trạng trên có thể dẫn đến những sa sút về sức khỏe, đặc biệt là sức khỏe về mặt tâm thần.
Trong bài viết “Giáo hội, người trẻ và mạng xã hội” đã dẫn của tác giả LM Vũ Hữu Hiền có đề cập vấn đề này như sau: “Nhiều cuộc nghiên cứu cho thấy việc sử dụng mạng xã hội có thể làm gia tăng trầm cảm nơi thanh thiếu niên. Ví dụ, một nghiên cứu vào năm 2018 cho thấy: những người từ 14 đến 17 tuổi sử dụng mạng xã hội 07 giờ mỗi ngày có nguy cơ bị trầm cảm, cần được chuyên gia sức khỏe tâm thần chữa trị hoặc cần dùng thuốc điều trị tâm lý. Các cuộc khảo sát bổ sung đối với thanh thiếu niên Hoa Kỳ cho thấy các triệu chứng trầm cảm ở thanh thiếu niên và tỷ lệ tự tử tăng lên trong khoảng thời gian từ năm 2010 đến 2015, những năm mà việc sử dụng điện thoại thông minh và công nghệ tăng theo cấp số nhân.”[14]
2.4 Ảnh hưởng tiêu cực từ tin giả, người gian, kẻ xấu
Có thể nói ảnh hưởng tiêu cực lớn nhất của mạng xã hội hiện nay, đó là nó gây nên rất nhiều đau thương, tan vỡ, tù tội cho cá nhân và gây bất ổn, xáo trộn, ly tán cho xã hội. Tự tử cũng vì mạng xã hội. Đâm chém cũng vì mạng xã hội. Lừa đảo cũng qua mạng xã hội. Ngoại tình, ly hôn cũng do mạng xã hội. Tù tội cũng bởi mạng xã hội. Ăn gian nói dối cũng nhan nhản trên mạng xã hội. Công kích, bôi nhọ, sát phạt nhau cũng dùng mạng xã hội…Chúng ta biết rằng, ngày nay hiện tượng tin giả (Fake news) rất phổ biến trên mạng xã hội. Người ta tung tin giả để lừa gạt, để câu “Like”, câu “View”, để nổi tiếng hay để vu khống nhau vv. Người dùng mạng xã hội nhiều khi không biết đâu là thật đâu là giả, thật thật giả giả lẫn lộn không thể phân biệt nổi. Nhiều người trẻ vì non dạ nên đễ bị lừa, bị gạt, bởi kẻ gian người xấu thì nhan nhản trên mạng xã hội.
Tóm lại, mặt xấu, mặt tiêu cực tác hại của mạng xã hội thì đã rõ nhưng không phải vì thế mà chúng ta loại trừ, tẩy chay, không dùng mạng xã hội. Bởi trên thực tế, nếu chúng ta biết tận dụng ưu điểm và các mặt tích cực của mạng xã hội thì nó sẽ có thể trở nên một nguồn tài nguyên dồi dào phục vụ con người, xã hội và cả Giáo hội nữa. Thực vậy, “Giáo Hội không tẩy chay mạng xã hội vì mạng xã hội có thể mang lại rất nhiều lợi ích và làm cho đời sống chúng ta phong phú hơn. Hơn nữa đây còn là sứ mạng của Giáo Hội: loan báo Tin Mừng bằng các phương tiện truyền thông, hiện diện ở nơi con người đang hiện diện: Người trẻ – cũng như các thế hệ lớn hơn – xin Giáo Hội gặp gỡ họ nơi họ đang hiện diện, gồm cả mạng xã hội.” (ĐGM Nguyễn Văn Khảm, tĩnh tâm Mùa Chay 2023 tại Gx Đa Minh, Ba Chuông SG, bài đã dẫn).
Như trên đã nói, số người dùng mạng xã hội trên thế giới hiện chiếm tỷ lệ khá cao và càng ngày có chiều hướng gia tăng (thống kê tháng 1.2021, số người sử dụng mạng xã hội trên toàn thế giới đã là 4,2 tỷ người, nghĩa là 53,6% dân số thế giới 7,8 tỷ). Tất nhiên trong số đó bao gồm không ít Ki-tô hữu chúng ta theo xu thế chung cũng say mê và tham gia mạng xã hội. Trong quá trình sử dụng mạng xã hội, có nhiều tín hữu đã nghiêm túc tự đặt câu hỏi cho mình: “Là người Công giáo, tôi có được tham gia mạng xã hội không? Nếu tham gia thì tôi có tội gì không?…”
Vào lễ Thánh Phanxicô Salêsiô 24-1-2013, Đức Giáo hoàng Bênêđictô đã gửi sứ điệp nhân Ngày Thế giới Truyền thông xã hội lần thứ 47 với nội dung đề cập đến mạng xã hội. Ngài nói: “Các mạng xã hội kỹ thuật số đang tạo nên một ‘agora’ (quảng trường hay sân chư dân) mới, một không gian công cộng mở, nơi đó con người chia sẻ các ý tưởng, thông tin, ý kiến, tạo ra những mối tương quan và hình thái cộng đồng mới.” Vì là một ‘quảng trường mới’ đã được mở ra cho toàn nhân loại, nên tất nhiên, mạng xã hội cần phải được Giáo hội lưu ý. Do đó, Đức Bênêđictô đã muốn xem xét thật kỹ việc phát triển các mạng xã hội và vai trò của các tín hữu trên mạng xã hội hôm nay.
Đức Giáo hoàng nhận định rằng: “Các mạng xã hội phát sinh từ những khát vọng sâu xa trong lòng người vì chúng mời gọi mọi người tham gia vào việc xây dựng “các mối tương quan và kết bạn, tìm lời giải đáp cho những vấn nạn và tiêu khiển, rèn luyện trí tuệ cũng như chia sẻ kiến thức và các bí quyết. Khi liên kết những người có chung những nhu cầu cơ bản, các mạng xã hội trở thành một yếu tố dệt nên xã hội.”
Đức Giáo hoàng cũng cho rằng: “Các mạng xã hội sẽ góp phần thúc đẩy những hình thức đối thoại và tranh luận, củng cố những mối dây liên kết hiệp thông giữa con người với nhau, xây dựng được tình bạn nhân loại, với điều kiện người ta phải biết sử dụng những phương tiện này trong tinh thần trách nhiệm, tôn trọng sự thật và quan tâm bảo vệ bí mật đời tư; những người đang sử dụng mạng xã hội cần phải cố gắng tỏ ra đáng tin cậy, vì ở đây người ta không chỉ chia sẻ các ý nghĩ và thông tin mà còn thực sự thông truyền chính bản thân mình.”[15]
LM George Nwachukwu trong bài viết tựa “Giáo hội và mạng xã hội: ứng dụng mạng xã hội vào sứ mạng loan báo Tin Mừng” trên trang WHĐ ngày 13-11-2022 đã viết như sau: Ngày nay, các mạng xã hội và các phương tiện đi kèm trong việc truyền tải thông tin đang phát triển nhanh hơn nhiều so với những gì chúng ta có thể nắm bắt. Vào Ngày thế giới truyền thông xã hội lần thứ 36 năm 2002, Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã đặc biệt nhắc đi nhắc lại về internet khi ngài nói: “Giáo hội tiếp cận phương tiện mới mẻ này với thái độ thực tiễn và tin tưởng. Cũng như những phương tiện truyền thông khác, đây là một phương tiện chứ không phải là cùng đích tự thân. Internet có thể ban tặng những cơ hội tuyệt vời để loan báo Tin Mừng nếu nó được sử dụng cách thành thạo và khi ta ý thức rõ đến mặt mạnh và mặt yếu của nó.”
Tác giả bài viết chia sẻ tiếp: Sau khi suy xét việc sử dụng các mạng xã hội, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nói: “Khi sử dụng các công nghệ hiện đại và các mạng xã hội, điều quan trọng là phải biết cách đối thoại và phân định để biểu lộ một sự hiện diện đầy lắng nghe, thân tình và khích lệ. Các con đừng sợ! Hãy để mình hiện diện theo cách này, hãy biểu lộ bản sắc Kitô hữu của mình khi các con trở thành công dân của thế giới kỹ thuật số. Một Giáo hội bước theo con đường này là một Giáo hội học được cách đi cùng với tất cả mọi người.”[16]
Ngoài ra, trong bài phát biểu trước Hội đồng Giáo hoàng về Truyền thông Xã hội vào ngày 27-6-2015, Đức Giáo hoàng Phanxicô cũng đã kêu gọi: “… Nhiệm vụ của các mục tử là giảng dạy và hướng dẫn các tín hữu để họ đạt đến ơn cứu độ và sự hoàn thiện của bản thân, cũng như của toàn thể gia đình nhân loại. Với sự trợ giúp của các phương tiện truyền thông này, nhiệm vụ của các vị mục tử sẽ đạt hiệu quả hơn. Hơn nữa, các tín hữu phải cố gắng làm cho tinh thần Kitô giáo thấm đượm vào những phương tiện truyền thông này, để chúng có thể hoàn toàn đáp ứng những kỳ vọng lớn lao của nhân loại và đúng theo ý định của Thiên Chúa.”[17]
Thật là bất ngờ khi chúng ta biết rằng cả Đức Giáo hoàng Bê-nê-đích-tô XVI và Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô đều đã sử dụng mạng Twitter rất sớm và rất hiệu quả. Tác giả Thảo Nguyên, trong bài “Đức Giáo Hoàng và mạng xã hội” đăng trên cgvdt.vn ngày 18-12-2015 đã cho biết như sau[18]:
Kể từ thời Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, mạng xã hội đã trở thành một phương tiện quen thuộc để Tòa Thánh mở rộng vòng tay với cộng đồng. Các vị đứng đầu Giáo hội Công giáo đã không “làm ngơ” mạng xã hội khi nó ngày càng trở nên quen thuộc với các “công dân mạng”. Tác giả bài báo cho biết tiếp:
Ngày 12.12.2012, Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã chính thức gia nhập mạng Twitter với tên truy cập là Benedict XVI, để cập nhật tình trạng cũng như những thông điệp của mình tới giáo dân. Bất cứ ai cũng có thể đăng ký để theo dõi các thông điệp của Đức Giáo hoàng bằng nhiều thứ tiếng thông qua địa chỉ @Pontifex. Từ đó, Tòa Thánh đã trở thành thành viên “tích cực” của truyền thông xã hội. Trong thông điệp đưa ra trong ngày Truyền thông Thế giới 24.1.2013, Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI đánh giá: “Mạng Xã Hội chính là cánh cửa của sự thật và đức tin, không gian mới cho việc chia sẻ Tin Mừng và hy vọng”. Sự kiện Đức Giáo hoàng tham gia Twitter được xem là phương thức để kết nối hiệu quả hơn với giới trẻ. Twitter của ngài lúc đó thu hút khoảng 2,5 triệu người đăng ký theo dõi.
Ngày 17.3.2013, trang này đã hoạt động trở lại với tin nhắn Twitter đầu tiên của Đức Giáo hoàng Phanxicô. Ngài gởi thông điệp ban phép lành đến mọi người: “Các bạn thân mến, tôi chân thành cảm ơn các bạn và xin các bạn tiếp tục cầu nguyện cho tôi. Giáo hoàng Phanxicô”. Tài khoản Twitter của Đức Giáo hoàng @Pontifex hiện có 9 ngôn ngữ, kể cả tiếng Ả Rập. Theo một nghiên cứu năm 2015 từ Twiplomacy, tài khoản Twitter của Đức Giáo hoàng có trên 25 triệu người theo dõi bằng các ngôn ngữ khác nhau, bỏ xa các nhà lãnh đạo thế giới hay những ngôi sao hàng đầu có ảnh hưởng nhất trên mạng xã hội. Tài khoản @Pontifex trong phiên bản tiếng Anh của ngài đạt mức trung bình khoảng 8.200 lượt chia sẻ với mỗi câu tweet của Đức Phan-xi-cô”…
Đặc biệt, tin tức cũng cho hay vào ngày 20-1-2019 trong bài huấn dụ lúc đọc kinh Truyền Tin, Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô đã ra mắt một ứng dụng di động và nền tảng trực tuyến mới, để ngài chia sẻ những ý cầu nguyện của mình, đồng thời mọi người trên khắp thế giới có thể dùng nó để chia sẻ ý cầu nguyện của họ. Sau đó, mọi người có thể “click vào để cùng cầu nguyện” với nhau. Linh mục Dòng Tên Federic Fornos, giám đốc quốc tế của Mạng lưới Cầu nguyện Toàn cầu của Đức Giáo hoàng, cho biết: Chỉ trong ba ngày đầu tiên, đã có 167.000 người tải ứng dụng “Nhấp để cầu nguyện”. Và nút “click để cầu nguyện” trên các ý cầu nguyện cá nhân đã được click hơn 1 triệu lần chỉ trong ba ngày – từ ngày 20 đến ngày 22-1-2019. Cộng đồng cầu nguyện trực tuyến trên điện thoại còn tham gia nhiều hơn nữa vào các tài khoản của Đức Giáo hoàng nơi hai mạng xã hội Twitter và Instagram.
Như vậy ta có thể thấy rằng chính các vị chủ chăn đứng đầu Hội thánh cũng tham gia mạng xã hội một cách tích cực và có hiệu quả. Riêng tại VN chúng ta, hiện chưa có thống kê có bao nhiêu Ki-tô hữu sử dụng mạng xã hội, đặc biệt là Facebook, Zalo, Youtube, Twitter… và cũng chưa có một cuộc khảo sát nhằm thăm dò ý kiến của họ thế nào đối với mạng xã hội nói chung và Facebook nói riêng. Chúng ta tin rằng số người Công giáo sử dụng mạng xã hội, đặc biệt Facebook, Zalo và Youtube không phải là ít và trong số họ có người đã có nhận thức tốt, đúng đắn khi sử dụng mạng xã hội.
Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô luôn cổ võ các tín hữu tham gia mạng xã hội nhưng ngài nhấn mạnh đến cách sử dụng sao cho có ích lợi cho bản thân, gia đình và cộng đồng. Nếu người sử dụng không tuân thủ những nguyên tắc khôn ngoan và cẩn trọng thì họ sẽ gây tai hại rất lớn. Trong sứ điệp mang tên “Chi thể của nhau – Từ các cộng đồng mạng sang cộng đồng nhân loại” nhân ngày Thế giới Truyền thông Xã hội 2019, Đức Phan-xi-cô đã đưa ra lời cảnh báo như sau: “Khi mạng xã hội được sử dụng để làm gia tăng những khác biệt, gây nghi ngờ, truyền bá dối trá và tạo ra những thành kiến, thì việc sử dụng đó sẽ khiến cho mạng xã hội mang những tính chất phản xã hội, phản Ki-tô giáo và tàn phá nhân loại”.
Tuy nhiên xét về mặt đạo đức tích cực của người dùng mạng xã hội, Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô cũng nhấn mạnh là “Giáo hội Công giáo và tất cả những người có thiện chí đều vẫn nhìn ra những tiềm năng to lớn của mạng xã hội khi người ta biết sử dụng nó một cách tốt đẹp: Nó sẽ giúp đưa mọi người xích lại gần nhau, chia sẻ cho nhau những thông tin hữu ích và những chương trình đào tạo hữu dụng.”
Tới đây, ta tự hỏi vậy làm thế nào để Ki-tô hữu chúng ta có thể sử dụng mạng xã hội cách tốt đẹp theo như chỉ dạy của các đấng bậc trong Giáo hội, trong khi mạng xã hội thì luôn có khuynh hướng lôi kéo ta vào vòng xoáy của háo danh ham lợi, của đam mê ích kỷ, của sa đọa tội lỗi, của gian dối lọc lừa, của những hành vi đi ngược lại với Lời Chúa và Tin Mừng Ki-tô giáo… Dưới đây ta thử bàn qua về một số thái độ và cách ứng xử cần có của người tín hữu trong việc sử dụng mạng xã hội.
Trước hết, người tín hữu chân chính sẽ phải biết tự chủ khi sử dụng mạng xã hội. Họ tự chủ để làm chủ ảnh hưởng của mạng không cho nó lèo lái mình theo xu hướng độc hại, vô bổ. Nhiều người đã so sánh mạng xã hội như một cái chợ bách hóa, bày bán đủ thứ “thượng vàng hạ cám”. Do vậy, chúng ta phải tỉnh táo, khôn ngoan và biết phân định, điều gì là đúng, là phải, là có lợi, và điều gì là sai trái, giả dối, nguy hại cần xa tránh hay loại bỏ. Một facebooker (người dùng mạng Facebook), chẳng hạn, khi mở trang của mình ra thì hàng loạt các tin, nội dung mới xuất hiện. Với tư cách là người nhận tin, chúng ta sẽ nhanh chóng phân loại, sàng lọc để tiếp nhận thông tin. Trên mạng xã hội, xuất hiện các tin tức, bài tham luận và hình ảnh từ các nguồn thông tin khác nhau, vô cùng đa dạng. Nào là những clip quảng cáo đủ kiểu đủ loại. Nào là những chiêu trò hấp dẫn, độc lạ tìm cách lừa gạt người sử dụng mạng. Nào là những những câu chuyện hay những trạng thái (status/ tus cư dân mạng gọi là “tút”) riêng tư được mọi người tự do chia sẻ trên “tường” của mình mà bất kỳ ai cũng có thể đọc được. Vấn đề của chúng ta là những người sử dụng mạng phải khôn ngoan và thông minh, biết gạn đục khơi trong thì ta sẽ có một kho tàng trong tay…
Riêng trong môi trường tương tác giữa các Ki-tô hữu trên mạng xã hội, trong đó có cả giám mục, linh mục, tu sĩ, chủng sinh và giáo dân, chúng ta có thể tiếp nhận thông tin qua việc xem-nghe-đọc rất nhiều nội dung bổ ích và mới lạ. Ta có thể tiếp cận các bài giảng, bài chia sẻ, bài giảng huấn trên Facebook, trên Youtube. Luôn cập nhật nhanh, kịp thời và đầy đủ. Ta có thể học hỏi giáo lý hay được hướng dẫn tham khảo các văn kiện của Tòa Thánh, của giáo phận trên các trang website Công giáo hay trên các trang mạng xã hội của các Ki-tô hữu. Điều này cho thấy, mạng xã hội sẽ người bạn đường vô cùng hữu ích nếu chúng ta biết đồng hành cách tỉnh thức và khôn ngoan.
Bên cạnh việc tiếp nhận thông tin, người dùng mạng xã hội cũng có thể chia sẻ (share) tất cả những gì mình muốn người khác có được như mình. Do đó, nếu chúng ta gieo vãi (share) những gì không tốt, không thực, không chân chính…thì vô hình trung chúng ta góp phần làm băng hoại môi trường giao tiếp, gây thiệt hại cho chính bản thân mình và làm băng hoại nhiều lớp người trong cộng đồng.
Mạng xã hội có những cách thức hấp dẫn chúng ta chẳng hạn khi ta đăng bài hay đăng hình ảnh hay chia sẻ sự kiện gì đó, nếu phù hợp với xu hướng của cộng đồng mạng thì lập tức ta sẽ nhận được nhiều người vào xem và thích, ta gọi đó là “views”, là “likes”. Và chắc chắn lúc đó tác phẩm của mình như bài viết, dòng trạng thái, hình ảnh, sự kiện…cũng sẽ được nhiều người share trên trang của họ. Để không vướng mắc vào cái bẫy của views và likes mà cư dân mạng gọi là xu hướng câu “views”, câu “likes”, ta phải tỉnh táo để cân nhắc xem nên đăng/ post gì, nên chia sẻ gì, nên phổ biến gì, nhất là ta đừng để bị ru ngủ bởi những lời khen, lời bình luận/ comments có cánh khiến ta rơi vào ảo tưởng cho rằng mình là người nổi tiếng!
Cuối cùng, như trên đã nói, người Ki-tô hữu tham gia mạng xã hội luôn mang một tâm thế tích cực của người yêu mến việc tông đồ, biết sử dụng các kỹ năng đa dạng của truyền thông để loan báo Tin Mừng. Đối với Ki-tô hữu, mạng xã hội, ngoài việc phục vụ giải trí, giao lưu và học hỏi, còn có một vai trò rất lớn đối với họ. Đó là xây dựng mối tương tác tốt đẹp giữa cá nhân và cá nhân loại bỏ những nghi kỵ thù hằn, đó là phát triển môi trường liên kết lành mạnh, đầy yêu thương và bác ái giữa mọi thành phần trong Dân Chúa và trong cộng đồng mạng. Mạng xã hội còn là nơi để chúng ta làm chứng và rao truyền Tin Mừng Tình Yêu của Chúa Ki-tô. Đó là cách thế chúng ta hiện diện trên mạng xã hội để thực thi sứ mệnh tông đồ giáo dân của mình cách tích cực và hiệu quả.
Thực vậy, “Tư cách Công giáo, tư cách môn đệ Chúa Kitô không chỉ thể hiện ở việc đi nhà thờ mà thôi, dù việc đó rất tốt, nhưng còn ở ngay lúc ngồi trước màn hình máy tính, lên mạng, vào mạng xã hội: tôi xem gì, đọc gì, nói gì, phản ứng thế nào… Tất cả đều phản ánh tư cách môn đệ của chúng ta. Nếu mỗi người Công giáo ý thức được điều này thì bằng chính những việc nhỏ bé hằng ngày, chúng ta trở thành những tông đồ trên máy tính, góp phần làm cho men Tin Mừng thấm nhập và lan tỏa nhiều nơi.”[19]
[1] https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/nhung-nam-mo-tren-mang-xa-hoi-50529
[2] http://giaophanmytho.net/bai-viet/truyen-thong-daminh-phong-van-duc-cha-phero-nguyen-van-kham-ve-su-diep-ngay-the-gioi-truyen-thong-lan-thu-56-33301.html
[3] https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/dong-hanh-voi-nguoi-tre-trong-doi-song-gia-dinh-truoc-nhung-co-hoi-va-thach-thuc-tu-mang-xa-hoi-44308
[4] https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/giao-hoi-va-mang-xa-hoi-ung-dung-mang-xa-hoi-vao-su-mang-loan-bao-tin-mung-46786
[5] x.Bênêđictô XVI, Sứ điệp nhân Ngày Thế giới Truyền thông Xã hội lần thứ 47 (12/5/2013).
[6] https://luatduonggia.vn/mang-xa-hoi-la-gi-chuc-nang-vai-tro-dac-diem-va-phan-loai-mang-xa-hoi/
[7] https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/dong-hanh-voi-nguoi-tre-trong-doi-song-gia-dinh-truoc-nhung-co-hoi-va-thach-thuc-tu-mang-xa-hoi-44308
[8] https://vnexpress.net/benh-nghien-mang-xa-hoi-cua-nguoi-tre-4376267.html
[9] https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/giao-hoi-nguoi-tre-va-mang-xa-hoi-44224
[10] https://www.elle.vn/bi-quyet-song/10-loi-ich-khi-su-dung-mang-xa-hoi
[11] https://luatduonggia.vn/mang-xa-hoi-la-gi-chuc-nang-vai-tro-dac-diem-va-phan-loai-mang-xa-hoi/
[12] https://www.studocu.com/vn/document/truong-dai-hoc-duy-tan/viet-tieng-viet/nhung-mat-tich-cuc-cua-mang-xa-hoi/42828352
[13] x. https://www.elle.vn , bài đã dẫn.
[14] LM Vũ Hữu Hiền – Giáo hội, người trẻ và mạng xã hội – Bài đã dẫn
[15] LM Vũ Hữu Hiền – Giáo hội, người trẻ và mạng xã hội – Bài đã dẫn
[16] https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/giao-hoi-va-mang-xa-hoi-ung-dung-mang-xa-hoi-vao-su-mang-loan-bao-tin-mung-46786
[17] LM George Nwachukwu – Giáo hội và mạng xã hội: ứng dụng mạng xã hội vào sứ mạng loan báo Tin Mừng – Bài đã dẫn (nguồn hdgmvietnam.com ngày 13-11-2022)
[18] http://www.cgvdt.vn/cong-giao-the-gioi/duc-giao-hoang-va-mang-xa-hoi_a2405
[19] ĐGM Phê-rô Nguyễn Văn Khảm – Trả lời phỏng vấn của ban TT gx Ba Chuông SG ngày 25-5-2022 – Bài đã dẫn