2021
Ý nghĩa bức họa Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Ý nghĩa bức họa Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Đây là bức tranh được trưng bày trong đại lễ suy tôn Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, ngày 19-06-1988 tại quảng trường thánh Phêrô tại Roma, do họa sĩ Gordon Faggetter trình bày.
Bức tranh lấy cảm hứng từ câu 9 trong đoạn 7 của sách Khải Huyền : “Tôi đã thấy một đoàn người đông đảo không tài nào đếm nổi, thuộc mọi nước mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng rước ngài Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế”. Theo Thánh Gioan, đám người đông đảo tượng trưng cho muôn vàn vị Tử Ðạo trong lịch sử Giáo Hội hoàn vũ đã bỏ mình vì trung kiên với Thiên Chúa, và hiện nay đang vinh hiển trong cõi hoan lạc trường sinh. Còn trong Giáo Hội VN, 117 Thánh Tử Ðạo tượng trưng cho trên dưới 130,000 bạn đồng hành đã anh dũng hy sinh mạng sống trong suốt 261 năm bách hại: từ sắc chỉ cấm đạo đầu tiên năm 1625, cho tới hết thời Văn Thân (1886).
Đứng hàng thứ nhất chính giữa hình là sáu vị đứng đầu danh sách 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam, được XƯỚNG DANH trong nghi thức SUY TÔN đó là : Linh mục Anrê Dũng Lạc, Thanh niên chủng sinh Tôma Thiện và Cụ Trùm gia trưởng Emmmanuel Lê Văn Phụng, đại diện chính thức cho 96 vị thánh Việt Nam, thuộc ba miền Bắc Trung Nam.
Hai giám mục Dòng Đaminh Hermosilla Liêm và Valentino Vinh, đại diện cho 11 thừa sai Tây Ban Nha Dòng Đaminh (6 giám mục – 5 linh mục) và 27 vị khác quốc tịch Việt Nam thuộc gia đình Đaminh, (11 linh mục, 6 thày giảng, 3 linh mục và 7 giáo dân dòng Ba Đaminh)
Linh mục Théophane Vénard Ven, (áo chùng đen, cổ có ba gạch trắng) đại diện cho 10 thừa sai Pháp thuộc Hội Thừa Sai Paris. (gồm 2 giám mục, 8 linh mục). Cũng ở hàng đầu từ trái qua phải là : Linh mục Phaolô Lê Bảo Tịnh, Hai vị Dòng Đaminh tử đạo tiên khởi trong danh sách 117 là cha Vinhsơn Phạm Hiếu Liêm là cha Castaneda Gia (quỳ phía trước).
Quỳ phía bên phải : Quan Thái bộc Micae Hồ Đình Hy.
Sau lưng là ba vị gia đình cụ Án Đaminh Phạm Trọng Khảm, với con trai Luca Phạm Trọng Thìn và người em Giuse Phạm Trọng Tả.
Riêng thánh nữ Annê Lê Thị Thành cũng đứng ngay gần giữa bức tranh, đại diện duy nhất của nữ giới Giáo hội Việt Nam. Thánh nữ đã 60 tuổi, nhưng họa sĩ đã xin phép được vẽ trẻ hơn một chút tính theo tuổi của Nước trời.
Họa sĩ Gordon Faggetter còn chủ tâm vẽ rải rác trong bức họa đủ tám mũ Giám mục, thêm 24 Linh mục triều mặc lễ phục trắng đeo dây stola đỏ, và 7 Thánh Binh trong y phục quân nhân.Dưới chân bức họa là một số dụng cụ gia hình trong các cuộc tử đạo : gông cùm, xiềng xích, dây thừng thắt cổ, roi đòn, kìm kẹp và thanh đao xử trảm.
Cụm hoa sen chỉ ý nghĩa trong sáng của cuộc đời 117 vị thánh, theo biểu tượng văn hóa Việt Nam, Sen tượng trưng người quân tử : “Trong đầm gì đẹp bằng sen… gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.
Phía sau bức tranh là giang sơn gấm vóc của đất Việt, tượng trưng bằng một số KIẾN TRÚC :
– Chùa Một Cột (Bắc), chùa Thiên Mụ (Trung) và chợ Bến Thành (Nam)
– Và 5 ngôi thánh đường :
Chính tòa Sài Gòn: nơi còn bảo toàn hài cốt một số các vị Tử Ðạo miền Nam;
La Vang (Huế): chỗ Ðức Mẹ đã hiện ra an ủi đoàn con bị truy nã vì tin theo Chúa Giêsu Kitô (1789);
Phát Diệm: ngôi thánh đường duy nhất theo kiến trúc Á Ðông, và là nơi vị linh mục chánh xứ Trần Lục xưa kia đã một thời bị bách hại (1858),và bị đầy trên Lạng Sơn (1859-1860);
Bùi Chu: giáo phận đã đóng góp con số tử đạo nhiều nhất (26 vị trong số 117), vì thế mà vẫn là nơi sản xuất dân số Công Giáo đông nhất trong 26 giáo phận Việt Nam;
Chính tòa Hà Nội: một trong hai giáo phận đầu tiên tại Bắc Việt (1679), là xuất xứ của nhiều vị Tử Ðạo (16 vị, trong đó có Cha Thánh Anrê Dũng Lạc).
– Mở rộng đến tận chân trời là biển khơi và cánh đồng lúa, chính là môi trường truyền giáo của các con cháu các vị Anh Hùng. Họ được kêu mời thêm tin tưởng vững bước tiến vào tương lai. Vì từ trên cao, Đức Kitô với một tay mở rộng đón đợi và một tay đang chúc lành, như muốn lập lại lời Ngài xưa : “Trong thế gian anh em sẽ còn phải gian nan khốn khó, nhưng can đảm lên, Thày đã thắng thế gian”
Trích “Uống nước nhớ nguồn” của LM-PX- Đào trung Hiệu
2021
Khái niệm phá thai trên quan điểm y khoa và thần học luân lý Công Giáo
Như đề bài đã nêu, mục đích của bài viết là làm rõ khái niệm phá thai trên phương diện y khoa và thần học luân lý Công Giáo. Từ đó xem xét cách xử trí y khoa trong vài trường hợp mang thai bệnh lý, và phân tích cách xử trí nào của y khoa có thể được chấp nhận về mặt luân lý Công Giáo. Sau đó, gợi ý định hướng trong vài trường hợp khó khăn cụ thể để giúp cho các người trong cuộc và người liên quan giảm bớt hoang mang bối rối khi phải đương đầu với sự không tương hợp giữa lời khuyên của thầy thuốc và giáo huấn của Giáo hội.
I. PHÁ THAI TRÊN PHƯƠNG DIỆN Y KHOA
II. QUAN ĐIỂM THẦN HỌC LUÂN LÝ CÔNG GIÁO VỀ PHÁ THAI 3. Quan điểm Giáo Hội Công Giáo về phá thai |
I. PHÁ THAI TRÊN PHƯƠNG DIỆN Y KHOA
Theo báo cáo ngày 11/7/2013, của Hội Kế Hoạch Hóa Gia Đình Việt Nam, tỉ lệ phá thai tại Việt-Nam (300.000 ca nạo thai/năm, chiếm 20% trong tổng số ca nạo phá thai),[1] cao nhất so với các nước Đông Nam Á và xếp thứ năm so với thế giới.[2] Một đất nước vốn có truyền thống hiếu sinh của đạo Phật lâu đời như Việt-Nam mà nay là một trong năm nước dẫn đầu thế giới về giết chết các nhân linh nhỏ bé vô tội khiến ai “có cái tâm” cũng phải băn khoăn.
Tương tự một số nước khác, pháp luật Việt-Nam cho phép phá thai trước 24 tuần tuổi.[3] Thực tế, có các trường hợp phá thai trễ hơn bảy tháng. Sau đây là các trường hợp phá thai trong y khoa.
1. Phá thai trị liệu
Phá thai trị liệu (therapeutic abortion): Trong thực hành y khoa, các trường hợp mang thai mà sức khỏe hay mạng sống thai phụ bị đe dọa cùng với sự tăng trưởng của thai thì chỉ định thường là “chấm dứt thai kỳ vì lý do y khoa” (medical pregnancy interruption). Khoảng vài thập niên trước, “chấm dứt thai kỳ vì lý do y khoa” thường có nghĩa là phá thai nhi để cứu mẹ. Nhờ tiến bộ y khoa, ngày nay các chỉ định “chấm dứt thai kỳ” do sức khỏe hay sự sống người mẹ bị đe dọa có hạn chế hơn, và một số trường hợp “chấm dứt thai kỳ” chỉ có nghĩa là chủ động cho thai nhi chào đời sớm hơn để mong cứu an toàn cả mẹ và con.[4] Phải nhìn nhận rằng khi có nguy cơ không cứu được cả mẹ lẫn con, các bác sĩ thường chọn bỏ con để cứu mẹ (phá thai “trị liệu”).
2. Phá thai kế hoạch
Nghiêm trọng hơn, phá thai được giảng dạy chính thức như là một trong các biện pháp kiểm soát dân số, gọi là “phá thai kế hoạch”.[5]Ngoài ra, có thể phá thai “kế hoạch” trong các trường hợp không mong muốn (do lỡ lầm, quan hệ ngoài hôn nhân, khó khăn kinh tế, thai phụ còn nhỏ tuổi, bị hiếp dâm…) hay chưa muốn (học tập, công tác, thăng tiến nghề nghiệp,…)[6]
3. Phá thai chọn lọc
Phá thai chọn lọc (selective abortion), hay phá thai ưu sinh (eugenic abortion): Xã hội Việt-Nam, cũng như nhiều xã hội khác trên thế giới, cách riêng ngành y khoa, ngày nay chấp nhận và ngay cả khuyến khích các thai phụ phá thai khi phát hiện thai khuyết tật. Có khi là chọn lọc giới tính. Ở một số nước như Ấn Độ, Trung Quốc, đã có hàng triệu thai nhi gái bị giết chết. Ngoài ra, trong hoàn cảnh ngày nay, “bùng nổ” việc thụ thai nhân tạo, đa thai là một hậu quả khác của thụ thai nhân tạo, và để bảo đảm thai phát triển tốt, nhiều khi bác sĩ sẽ thực hiện phá thai chọn lọc, giữ lại thai mạnh khỏe và bỏ thai yếu hay khuyết tật, hoặc thậm chí có trường hợp phá bỏ bớt phôi thai khỏe mạnh để bảo đảm sự phát triển tốt của thai còn lại.
4. Thai ngoài tử cung
Thai ngoài tử cung (GEU: gestation extra-uterine, hay ectopic pregnancy): Thông thường phôi làm tổ trong nội mạc thân tử cung, khi phôi làm tổ ở bất cứ vị trí nào khác là thai ngoài tử cung. Việc xử trí GEU thường là bỏ thai, nhưng y khoa không xếp việc loại bỏ các GEU vào phá thai, mà là điều trị thai bệnh lý. Việc điều trị GEU nhằm các mục tiêu sau: giải quyết thai nằm ngoài tử cung; giảm tối đa tỉ lệ tử vong cho thai phụ; ngừa tái phát thai ngoài tử cung; duy trì khả năng sinh sản cho người phụ nữ. Cần hiểu rõ cách xử trí vì tuy cùng là GEU, có cách xử trí tương hợp và có cách không tương hợp với nguyên tắc Công giáo. Sau đây là các trường hợp GEU.
4.1. Thai ở ống dẫn trứng
– Theo kinh điển, điều trị thai ngoài tử cung chỉ là phẫu thuật. Điều trị phẫu thuật có thể là cắt bỏ ống dẫn trứng (có chứa thai) hoặc xẻ ống dẫn trứng lấy khối thai (khi bệnh nhân muốn duy trì khả năng sinh sản).
– Điều trị nội khoa: điều trị GEU chọn lọc bằng nội khoa là một cuộc “cách mạng” y khoa. Điều trị nội khoa đang được ưa chuộng vì một số lí do như: giảm tỉ lệ tử vong do phẫu thuật hay do gây mê toàn thân , ít bị tổn thương vòi trứng, ít chi phí và không cần nhập viện. Methotrexate có thể được tiêm bắp cho thai phụ (sẽ gây tác dụng bong thai) hoặc tiêm trực tiếp methotrexate ở vị trí khu trú ( tiêm vào vòi trứng) dưới sự chỉ dẫn của siêu âm hoặc nội soi.
4.2. Thai ở ống dẫn trứng đã vỡ
Phẫu thuật cấp cứu cắt bỏ ống dẫn trứng sát góc tử cung.
4.3. Thai ở cổ tử cung
4.4 Thai ở buồng trứng
Điều trị methotrexate là một phương pháp được chọn khi có thai định vị ở cổ tử cung, buồng trứng hoặc ở đoạn kẽ hoặc ở sừng tử cung. Điều trị phẫu thuật ở những trường hợp này khi có nguy cơ xuất huyết tăng và kết quả là thường đưa đến cắt tử cung hoặc cắt bỏ buồng trứng.
4.5 Thai trong ổ bụng
Túi thai có thể rớt ra khỏi ống dẫn trứng rơi vào ổ bụng và người phụ nữ có thể sẽ mang thai trong ổ bụng (chiếm 0,03%). Phần lớn khi rớt ra khỏi ống dẫn trứng túi thai sẽ chết. Nếu sống được trong ổ bụng, túi thai có thể sống ở bất cứ nơi đâu, thường ở mạc treo, mạc nối, cùng đồ sau – đây là những nơi gần nhất trong ổ bụng. Về xử trí, nếu thai chết lưu, mổ lấy xác thai càng sớm càng tốt để tránh biến chứng rối loạn đông máu. Vì nguy cơ tử vong cho thai phụ cao khi thai phát triển lớn, nên khi phát hiện thai trong ổ bụng, thường bác sĩ khuyên thai phụ phẫu thuật để lấy bỏ thai càng sớm càng tốt. Tuy hiếm hoi, nhưng đã có vài trường hợp, hoặc do không biết sớm, hoặc do thai phụ từ chối phẫu thuật bỏ thai, mà chờ đợi khi thai đến độ đủ trưởng thành để có thể sống ngoài cơ thể mẹ, thì phẫu thuật lấy thai sống an toàn cả mẹ lẫn con.[7]
4.6. Thai trong gan
Thai trong gan cũng chính là hình thức đặc biệt thai trong ổ bụng. Thai trong gan là trường hợp rất hiếm, tỉ lệ 1/ 10.000 các trường hợp GEU. Từ trước đến nay, Việt Nam đã có ghi nhận ba ca thai trong gan. Trong đó, hai ca phát hiện tại Huế và thành phố Hồ Chí Minh, sản phụ được cứu sống do phát hiện sớm; một ca ở Kiên Giang, tử vong trong khi phẫu thuật lấy thai, bé gái thai nhi cũng chết ngay sau khi được tách nhau. Việc điều trị hiện nay là tiêm methotrexate nếu thai còn nhỏ và phẫu thuật lấy bỏ thai nếu thai đã lớn.[8] Năm 2003, một thai nhi người Nam Phi đã lớn lên trong gan mẹ đến lúc ra đời, song, cho đến nay, đây là trường hợp may mắn đầu tiên và duy nhất.
II. QUAN ĐIỂM THẦN HỌC LUÂN LÝ CÔNG GIÁO VỀ PHÁ THAI
Trong phần này bài viết trích dẫn giáo huấn Giáo hội là chủ yếu và giải thích khi cần thiết.
1. Khi nào thì phôi là người?
Đây là một đề tài lớn, tác giả bài viết đã có trình bày và phân tích khá chi tiết trong cuốn sách nhỏ “ Thân Phận Luân Lý và Thần Học của Phôi Thai: Nhận Định trên Quan Điểm Giáo Hội Công Giáo và Phôi Thai Học Hiện Đại”. Ở đây, chỉ nói vắn tắt lập trường của Huấn Quyền. Theo giáo huấn Giáo Hội, phôi người ngay từ lúc trứng thụ tinh đã khởi đầu sự sống của con người, phải được tôn trọng và đối xử như con người và do đó cùng lúc, quyền con người của phôi thai phải được nhìn nhận.[9]
Bộ Giáo Lý Đức Tin dạy rằng: “Từ lúc trứng thụ tinh, một đời sống mới bắt đầu không phải của người cha, cũng không phải của người mẹ; mà đúng hơn là một con người mới với khả năng tăng trưởng riêng của mình. Hữu thể người này không bao giờ có thể là người nếu nó không phải đã là người.” (Declaration on Procured Abortion, 12) …“Giáo huấn này vẫn còn giá trị và được xác định hơn … bằng những tìm thấy mới đây của khoa Sinh học con người nhìn nhận rằng trong hợp tử phát xuất từ thụ tinh, căn tính sinh học của một cá thể người mới đã được cấu thành.” (Huấn Thị Donum Vitae DV, I,1.)
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giải thích thêm: “Bộ gen di truyền xuất hiện như yếu tố cấu tạo và tổ chức của cơ thể …nó điều khiển và chi phối tính thành viên loài người, nối kết di truyền và những đặc trưng thân thể và sinh học của tính cá thể. Nó có ảnh hưởng quyết định trên cấu trúc của hiện hữu thể lý từ lúc khởi đầu thụ tinh cho đến cái chết tự nhiên. Chính trên cơ sở của sự thật nội tại của bộ di truyền, đã hiện diện ngay lúc tạo sinh, khi mà bộ di truyền của người cha và người mẹ hợp nhất, mà Giáo Hội đảm nhận chính mình công việc bảo vệ phẩm giá của mỗi người ngay từ lúc khởi đầu sự hiện hữu của người ấy.”[10]
2. Định nghĩa phá thai
“Phá thai là sự giết cố ý và trực tiếp, thực hiện bằng bất cứ phương tiện nào, một con người trong giai đoạn khởi đầu sự hiện hữu, từ khi thụ thai cho đến khi sinh ra.” (Evangelium Vitae EV, s.58)
Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ trong tài liệu Các Chỉ Dẫn Đạo Đức và Tôn Giáo Cho Các Dịch Vụ Chăm Sóc Sức Khỏe Công Giáo định nghĩa phá thai như sau: “Phá thai là việc trực tiếp và cố ý kết thúc việc mang thai trước khi thai nhi có thể tự sống hoặc trực tiếp cố ý phá hủy thai còn sống…Mọi hành vi có tác dụng trực tiếp duy nhất là kết thúc việc mang thai trước khi thai nhi có thể tự sống đều là việc phá thai. Việc phá thai, trong bối cảnh luân lý của nó bao gồm cả giai đoạn giữa khi thụ thai và phôi thai làm tổ.” (s. 45)
Trong thần học luân lý phân biệt phá thai trực tiếp và phá thai gián tiếp:
– Phá thai trực tiếp (direct abortion, hay còn gọi tắt là phá thai), như đã nêu ở định nghĩa trên. Tất cả những ai phạm tội ác này với sự hiểu biết về hình phạt kèm theo tội, và bao gồm cả những người tòng phạm mà không có sự hợp tác của họ thì tội ác không thể thực hiện được, đều bị vạ tuyệt thông. Theo định nghĩa về phá thai trực tiếp, thì các trường hợp phá thai đã kể ở mục I, bao gồm phá thai trị liệu, phá thai kế hoạch, và phá thai chọn lọc hay phá thai ưu sinh đều là tội ác nghiêm trọng.
– Phá thai gián tiếp (indirect abortion): thực chất không phải phá thai, mà là trong quá trình điều trị bệnh cho người thai phụ, thai bị chết do tác dụng phụ của thuốc hoặc thủ thuật điều trị. Thầy thuốc có thể dự đoán, nhìn trước có khả năng hậu quả thai chết này , nhưng không hề nhắm đến, và không trực tiếp làm chết thai. Trường hợp này áp dụng nguyên tắc song hiệu, và có thể được chấp nhận về mặt luân lý. Từ ngữ “phá thai gián tiếp” có thể gây hiểu lầm, vì thế có thể mô tả một cách đúng hơn trường hợp này là: thai chết do hậu quả phụ của việc điều trị cho người mẹ. Ví dụ: thai phụ, cùng lúc phát hiện ung thư vú, điều trị ung thư vú này, thuốc điều trị ung thư có thể gây hư thai, thai chết. Hoặc phụ nữ bị ung thư tử cung, cùng lúc có thai, thầy thuốc phải cắt tử cung để điều trị ung thư, thai nhi như là một sự ngẫu nhiên nằm trong tử cung, và bị chết, chứ thầy thuốc hay người mẹ không nhắm làm chết đứa bé.
3. Quan điểm Giáo Hội Công Giáo về phá thai
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tuyên bố: “Với uy quyền mà Đức Kitô trao cho Phêrô và những người kế vị ngài, và trong sự hiệp thông với các giám mục của Giáo Hội Công Giáo, tôi xác nhận rằng việc trực tiếp và cố ý giết con người vô tội luôn luôn là điều bất luân nghiêm trọng. Giáo lý này, dựa trên luật không văn tự mà con người, dưới ánh sáng của lý trí, tìm thấy trong tim mình (x. Rm 2, 14-15), được Thánh Kinh tái khẳng định, Truyền Thống của Giáo Hội lưu truyền, và được Huấn Quyền thông thường và phổ quát giảng dạy” (EV 57).
Sách GLHTCG s. 2272 công bố án phạt cho người phạm tội phá thai: “người nào thi hành việc phá thai, và nếu việc phá thai có hiệu quả, thì bị vạ tuyệt thông tiền kết (latae sententiae)”
Cần nhắc lại rằng tất cả phá thai dù bất cứ lý do gì, đều không hợp luân lý Công Giáo. Giáo hội nhìn nhận rằng, thực tế, các chọn lựa phá thai nhiều khi xuất phát từ hoàn cảnh khó khăn, thậm chí bi đát, cô độc, nhiều áp lực nặng nề về kinh tế, về tinh thần, cách riêng trong một xã hội mà ngừa thai nhân tạo và phá thai được xem như chính sách để kiểm soát dân số như ở Việt-Nam.[11] Các hoàn cảnh tiến thoái lưỡng nan như thế có thể làm giảm nhẹ trách nhiệm chủ quan của những người đã thực hiện phá thai. Tuy nhiên, dù trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn đến đâu, chính sự kiện phá hủy sự sống con người vô tội, đặc biệt là khi sự sống ấy còn chưa có khả năng bảo vệ chính mình, vẫn luôn là sự xấu nghiêm trọng (x. EV 18, 58) và tác động đến sự hiệp thông, mối tương quan của người ấy với Thiên Chúa và với tha nhân. Đồng cảm với thử thách mà nhiều cặp vợ chồng phải đối phó, Giáo Hội thừa nhận đôi khi phải cần nhân đức “anh hùng” để tuân giữ các chân lý luân lý vốn gắn liền với đức tin về phẩm giá nội tại con người. Điều đáng lo ngại hơn ở đây, ngày nay vấn đề vượt ra khuôn khổ các hoàn cảnh riêng tư, mà tồn tại ở tầm mức văn hóa, xã hội, chính trị, và ở triết lý sống nền tảng, quan niệm về tự do. Thái độ chọn lựa chống lại sự sống ngày càng được chấp nhận rộng rãi, được xem như biểu hiện hợp pháp của tự do cá nhân (x. EV 18). Hệ thống giá trị luân lý bị đảo lộn, giá trị vật chất được đặt lên trên giá trị tinh thần, giá trị thiêng liêng.
Về trách nhiệm của các người liên quan đến tội ác phá thai, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II nhận định:
“Bên cạnh người mẹ, thường có nhiều người khác cũng tham gia quyết định về cái chết của đứa trẻ trong tử cung. Trước hết, cha của đứa trẻ có thể đáng bị quở trách, không chỉ khi ông ta trực tiếp gây áp lực buộc người phụ nữ phá thai, nhưng cả khi ông ấy gián tiếp thúc đẩy quyết định như thế bằng cách bỏ mặc người phụ nữ một mình đối phó với các vấn đề của sự mang thai: theo cách này, gia đình bị tổn thương nặng nề và bị xúc phạm trong bản chất của nó như là cộng đoàn yêu thương, và trong ơn gọi là “cung thánh sự sống”. Người ta cũng không lẽ ra để thăng tiến sự sống, lại gây ra cái chết.
Nhưng trách nhiệm tương tự cũng thuộc những nhà lập pháp đã xúc tiến và phê chuẩn luật phá thai, và trong chừng mực tùy thuộc vào vai trò của họ, cả những người quản lý các trung tâm y tế nơi thực hiện phá thai. Trách nhiệm chung nhưng không kém nghiêm trọng thuộc về những ai khuyến khích phổ biến thái độ buông thả tình dục và khinh thường việc làm mẹ, và những ai đáng ra phải bảo đảm, nhưng đã không làm, những chính sách gia đình và xã hội hiệu quả trong việc nâng đỡ các gia đình, đặc biệt những gia đình đông đúc, và những gia đình có nhu cầu về thể bỏ qua những áp lực đôi khi đến từ phạm vi gia đình rộng lớn hơn và từ bạn bè. Đôi khi người phụ nữ phải chịu áp lực mạnh đến nỗi về mặt tâm lý họ cảm thấy bị bắt buộc phá thai: chắc chắn trong trường hợp này trách nhiệm luân lý cách riêng thuộc về những người đã trực tiếp hay gián tiếp buộc người phụ nữ phá thai. Các bác sĩ và y tá đều có trách nhiệm khi họ dùng những khả năng chuyên môn, kinh tế và giáo dục. Sau hết, người ta không thể coi nhẹ mạng lưới tòng phạm liên quan đến cả những cơ quan, cơ sở hay hiệp hội quốc tế, vận động một cách hệ thống cho việc hợp pháp hóa và phổ biến phá thai trên thế giới. Về mặt này, phá thai vượt khỏi trách nhiệm của cá nhân và vượt quá sự thiệt hại gây ra cho họ, và mang chiều kích xã hội đáng kể. Đó là một vết thương trầm trọng nhất gây ra cho xã hội và nền văn hóa bởi chính những người lẽ ra là những người thăng tiến và bảo vệ xã hội. Như tôi đã viết trong Thư gửi các Gia Đình, “ chúng ta đang đứng trước đe dọa khổng lồ chống lại sự sống: không chỉ sự sống của cá nhân mà còn của chính nền văn minh”Chúng ta đang đứng trước những điều có thể gọi là “cơ cấu của tội lỗi” chống lại sự sống con người chưa sinh ra.” (EV s. 59)
Cần nhắc lại, với hiểu biết về phôi thai như đã nói ở trên, một số biện pháp ngừa thai nhân tạo, thực chất là hủy sự sống con người trong giai đoạn khởi đầu, như vòng tránh thai trong tử cung . Cơ chế tác dụng chính của dụng cụ tử cung là gây ra phản ứng viêm tại niêm mạc tử cung, làm thay đổi về sinh hóa tế bào nội mạc và không tạo điều kiện thuận lợi để trứng thụ tinh làm tổ. Ngoài ra, cũng cần chú ý phân biệt với loại thuốc phá thai chứ không phải là ngừa thai như quen gọi sau đây: Postinor, RU-486 (MIFESTAD 5mg). Cái gọi là “điều hòa kinh nguyệt” khi người phụ nữ trễ kinh vài ngày, thực chất là phá thai sớm (nạo hút thai).
Giáo Hội ủng hộ các tiến bộ y khoa phục vụ sự sống. Tuy nhiên lịch sử y khoa cho thấy nhiều lần, các tiến bộ y sinh học thay vì phục vụ sự sống, lại quay ra hủy hoại sự sống, nhân danh vì một cuộc sống hạnh phúc hơn. Vì thế, Huấn Quyền thận trọng đối với vấn đề khám tiền sản: “Chẩn đoán tiền sản, vốn không trái luân lý nếu được thực hiện để xác định trị liệu y khoa có thể cần thiết cho thai nhi, rất thường trở thành cơ hội để đề nghị và gây ra phá thai. Đây là phá thai ưu sinh, được biện minh trong công luận dựa trên não trạng- nhận thức một cách sai lầm rằng đó là phù hợp với đòi hỏi của ‘các can thiệp chữa trị’- chỉ chấp nhận sự sống dưới một số điều kiện nhất định và chối bỏ sự sống khi bị khiếm khuyết, tật nguyền, hay bệnh tật nào đó.” (EV 14)
4. Trường hợp thai ngoài tử cung
Hội Đồng Giám Mục Hoa kỳ tóm tắt nguyên tắc về xử trí GEU như sau: “Trong trường hợp mang thai ngoài tử cung, không can thiệp nào được coi là hợp luân lý nếu như gây ra việc phá thai trực tiếp.”[12]
Lý thú là bước tiến triển của lý luận Giáo Hội Công Giáo về điều trị GEU. Về mặt y-khoa,một khi thai ngoài tử cung đã được chẩn đoán thì phẫu thuật lấy thai ra càng sớm càng tốt cho bệnh nhân về mặt tiên lượng. Nếu sau khi GEU vỡ, bác sĩ mới tiến hành phẫu thuật thì tỉ lệ tử vong và biến chứng cho bệnh nhân cao hơn nhiều. Cho đến khoảng 20 năm gần đây, phương pháp điều trị GEU ở vị trí vòi trứng có hai cách, hoặc là xẻ phần vòi trứng chứa thai và lấy thai ra (salpingotomy), phần vòi trứng được bảo tồn, như vậy chức năng sinh sản được bảo tồn; hoặc là cắt bỏ luôn phần vòi trứng chứa thai (salpingectomy). Thuần lý y-khoa, phương pháp salpingotomy thường được chọn vì nó bảo tồn được chức năng truyền sinh của người phụ nữ.
Giáo Hội Công Giáo, cho đến trước năm 1933, chỉ cho phép phẫu thuật GEU khi phần thai ngoài tử cung đã bị vỡ. Lý luận nền tảng giải thích cho lối xử trí này là vào thời đó, thai nhi bị coi như là nguyên nhân trực tiếp gây nguy hiểm cho tính mạng của thai phụ. Nếu GEU chưa vỡ, thai nhi còn sống thì phẫu thuật coi như giết thai nhi để cứu mẹ: phá thai trực tiếp. Đến năm 1933, một luật gia về giáo luật, Lincoln Bouscaren, Dòng Tên, hoàn thành luận án tiến sĩ thần học tại Đại Học Gregorian, Rôma. Ông là người đầu tiên lý luận rằng thủ thuật salpingectomy là phá thai gián tiếp nên được phép về mặt luân lý. Vì vậy bác sĩ công giáo không phải chờ đến lúc GEU bị vỡ mới phẫu thuật cho bệnh nhân. Ông đã cứu được nhiều người nhờ bảo vệ thành công phương pháp salpingectomy trên phương diện thần học luân lý của Giáo Hội Công Giáo. Để đi đến được kết luận đó, Bouscaren lý luận rằng khoa học hiện đại chứng minh trong GEU, lớp mạch máu của đoạn vòi trứng chứa thai nhi trở thành bệnh lý, tăng sinh, và dãn phù nề, là nguyên nhân chính đe dọa vỡ gây xuất huyết nơi người mẹ. Động tác mổ cắt đoạn vòi trứng chứa thai nhi có hai tác dụng đồng thời: lấy đi đoạn vòi trứng bệnh lý (tác dụng tốt), và cái chết của thai nhi (tác dụng xấu). Ý định của thầy thuốc là lấy đi phần vòi trứng bệnh lý để cứu thai phụ chứ không phải giết thai nhi. Lý luận của Bouscaren đáp ứng được nguyên tắc “hiệu quả kép,” và do đó, từ 1933, salpingectomy được Giáo Hội Công Giáo cho phép.[13]
Việc tiêm methotrexate trực tiếp gây chết thai nhi, không hợp với nguyên tắc luân lý Công Giáo.
III. LỜI KHUYÊN
Biện pháp đúng đắn, hợp luân lý Công Giáo trong trường hợp sức khỏe thai phụ bị nguy hiểm do mang thai là nhập viện theo dõi sát sức khỏe thai và mẹ; phải cố gắng dùng mọi tiến bộ y khoa để điều trị bệnh cho mẹ, cứu sống cả mẹ lẫn con, cố gắng duy trì thai đến tháng thứ bảy, thứ tám,…lúc này nếu thấy nguy cơ tính mạng của mẹ, có thể mổ lấy thai, với mục đích cứu cả mẹ lẫn con. Ngày nay với tiến bộ y khoa, thì có thể cứu sống thai từ bảy, tám tháng tuổi. Thậm chí có trẻ sinh non hơn, vẫn hy vọng nào đó cứu mẹ và bé. Khi thầy thuốc đã cố gắng hết sức mà không thể cứu cả mẹ lẫn con, thì đành chấp nhận như là một điều vượt quá khả năng con người.
Trường hợp khó khăn hơn là mang thai trong ổ bụng. Biện pháp hợp luân lý là chờ thai phát triển đến mức độ có thể sống ngoài cơ thể mẹ thì tiến hành phẫu thuật lấy thai mong muốn rằng mẹ tròn con vuông. Trường hợp khó khăn hơn nữa và tiến thoái lưỡng nan là mang thai trong gan, vì cả hai biện pháp mà y khoa dùng hiện nay là tiêm methotrexate hay phẫu thuật lấy bỏ thai nhi đều gây phá thai trực tiếp. Theo ý kiến cá nhân tôi, nếu phát hiện sớm thai trong gan, thì lý luận tương tự như trường hợp mang thai ở ống dẫn trứng, xem phân thùy gan có chứa thai là phần bệnh lý, có thể cắt bỏ phân thùy gan có chứa thai. Như thế có thể đáp ứng yêu cầu là không phá thai trực tiếp. Tuy nhiên, các thầy thuốc y khoa có lẽ rất khó chấp nhận biện pháp này, vì cắt phân thùy gan là cuộc đại phẫu. Rất may là thai trong gan rất hiếm. Cần nhắc lại rằng y văn thế giới đã ghi nhận có trường hợp thai trong ổ bụng và thai trong gan diễn tiến đến kỳ tự nhiên và cả mẹ và con đều may mắn sống còn.
Thật thử thách cho người mẹ trước nguy cơ mất đi mang sống để duy trì sự sống cho đứa con còn trong bụng. Đúng là đòi hỏi đức dũng cảm đến mức tử đạo. Tôi nhớ lại câu chuyện gương hy sinh của cô Caroline Aigle đã làm xúc động lòng người. Cô Caroline Aigle, nữ phi công lái máy bay chiến đấu đầu tiên trong không lực Pháp, đang được huấn luyện để trở thành phi hành gia vũ trụ, đã qua đời ở tuổi 33 còn nhiều hoài bão. Cô đang mang thai năm tháng khi cô được biết mình mắc phải bệnh ung thư. Là một người Công Giáo sống nghiêm túc niềm tin, cô đã cầu nguyện cùng với chồng, anh Christophe Deketelaere, và Caroline đã gạt bỏ lời khuyên phá thai của các bác sĩ. Hơn nữa, Caroline chọn hoãn việc trị liệu bệnh ung thư để cho đứa con trong bụng có con đường sống. Vào đầu tháng 8/2010, Caroline đã cho đứa bé chào đời sớm ba tháng rưỡi. Tuy nhiên, đứa bé vẫn tiến triển rất tốt. Người chồng cho biết: “Caroline không thể ngưng một sự sống mà nàng đã cưu mang năm tháng. Nàng nói với tôi rằng: ‘Đứa bé phải có được cơ may mà em đã có’”. Anh Christophe mô tả việc mang thai của Caroline như là trận chiến sau cùng của cô và cô đã chiến thắng. Cha Pierre, người đã làm lễ cưới cho cô Caroline nói: “Bài học lớn nhất mà Caroline để lại cho chúng ta là tính chất cấp bách của tình yêu. Không phải sự cấp bách của nỗi sợ, nhưng là sự cấp bách cần thiết phải hiểu rằng chỉ có tình yêu mới trao ban sự sống. Con người được sinh ra cho cuộc sống. Sự cấp bách này có thể làm cho tình yêu mạnh hơn và trao ban cho cuộc sống một kho tàng quý giá giữa ngay cả những nghịch cảnh trái ngang nhất”.[14]
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 84 (Tháng 9 & 10 năm 2014)
[1] Có nghĩa là 300.000 ca phá thai sớm, chiếm 20% tổng số phá thai, 80% còn lại là phá thai muộn, thai đã lớn.
[2] Hoàng Mai, “Tỉ lệ phá thai Việt-Nam cao nhất Đông Nam Á”, (11/7/2013), http://tuoitre.vn/Chinh-tri-xa-hoi/Song-khoe/558619/300-000-ca-nam-ti-le-pha-thai-cua-vn-cao-nhat-dong-nam-a.html
[3] Vũ Thị Nhung, Chủ tịch Hội phụ sản Tp. HCM, “Cách tránh thai hiệu quả cho cả nam và nữ”, (10/6/2013), buổi nói chuyện chuyên đề Nụ hoa tính dục do Hội quán các bà mẹ tổ chức tại Tp. HCM.
http://suckhoegioitinh.edu.vn/cach-tranh-thai-hieu-qua-cho-ca-nam-va-nu/
[4] X. Bộ Môn Phụ Sản, Đại Học Y Dược Tp. HCM, Sản Phụ Khoa, Tập 1, (Nhà xuất bản Y học, chi nhánh Tp. HCM, 2011), tr. 331, 339,354, 469, 503,511
[5] Sản Phụ Khoa, Tập 2, tr. 1013-23.
[6] Sản Phụ Khoa, Tập 2, tr. 1013-23.
[7] “Full-term extrauterine abdominal pregnancy: a case report”
<http://www.jmedicalcasereports.com/content/5/1/531>
“Người phụ nữ mang thai ngoài tử cung vẫn sinh con khỏe mạnh”
[8]Thiên Chương, “Một sản phụ có thai nhi trong gan”,<https://vnexpress.net/mot-san-phu-co-thai-nhi-trong-gan-2266549.html>
[9]Bộ Giáo lý Đức Tin, “Instruction on Respect for Human Life in Its Origin and on the Dignity of Procreation,” (Rome, 22/2/1987), Donum Vitae, Origins (Vol.16, n.40, 3/ 1987) 701.
[10]Gioan Phaolô II, “Address to the Fourth General Assembly of the Pontifical Academy for Life (24/2/1998) L’Observatore Romano, 25/2/1998, 5
[11] Sách Giáo Khoa Bộ Môn Phụ Sản, Đại Học Y Dược dành riêng một bài về “Các biện pháp phá thai kế hoạch”, x. Sản Phụ Khoa, Tập 2, tr. 1013-1019.
[12] Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, Ethical and Religious Directives for Catholic Health Care Services
Fifth Edition, tháng 11/ 2009, n. 48
[13]Xem Lincoln Bouscaren, Ethics of Ectopic Operations (Chicago: Loyola University Press, 1933).
[14]Thúy Dung, “Phi công lái máy bay chiến đấu Pháp Caroline Aigle là một người mẹ Công Giáo phi thường”, Vietcatholic News, 1/10/2007.
2021
Bảo vệ ngôi nhà chung: Từ Công đồng Vatican II đến Laudato Si’
Từ công đồng Vatican II, ngang qua lời kêu gọi của Đức Phaolô VI đối với hội nghị Stockholm vào năm 1972, cho đến khi công bố thông điệp Laudato Si’, Tòa Thánh, bằng một lôgíc về sự phát triển toàn diện, đã là người tiên phong trong việc bảo vệ môi trường.
Một học thuyết lần này được mang đến hội nghị COP26 ở Glasgow bởi ĐHY Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh. Cuộc đấu tranh chống lại việc hâm nóng toàn cầu “là một thách đố của nền văn minh vì công ích và là một sự thay đổi viễn cảnh, tâm trí và tầm nhìn, vốn phải đặt phẩm giá của con người hôm nay và ngày mai ở trung tâm của hoạt động của chúng ta”, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tuyên bố trên làn sóng radio BBB như thế, hôm 29/10, hai ngày trước khi khai mạc hội nghị lần thứ 26 của LHQ về biến đổi khí hậu, diễn ra ở Glasgow, Scotland.
Vào đầu tháng Mười này, Đức Thánh Cha Phanxicô, cùng với các vị hữu trách tôn giáo trên toàn thế giới, đã kêu gọi các nhà lãnh đạo chính trị tham dự COP26 về một bổn phận thiết yếu: bảo vệ ngôi nhà chung, và để làm điều này, tôn trọng Hiệp định Paris được ký dịp hội nghị COP21 vào năm 2015, vốn cam kết 195 quốc gia ký kết hạn chế phát thải khí hiệu ứng nhà kính, để hạn chế sự hâm nóng khí hậu toàn cầu ở mức tối đa là hai độ trên nhiệt độ trung bình của thời kỳ tiền công nghiệp (1850-1900).
Từ khi được bầu làm Giáo hoàng, Đức Phanxicô đã nhấn mạnh đến việc gìn giữ hành tinh và bảo vệ những người yếu đuối nhất: các bài diễn văn của ngài ở Liên Hiệp Quốc, ở Nairobi hay ở New York, rất nhiều lần kêu gọi của ngài cũng như việc công bố thông điệp Laudato Si’ (năm 2015) là lời minh họa cho điều đó. Laudato Si’ là một bản văn dành cho các vấn đề môi trường và xã hội, nhắc lại một trong những sợi chỉ đỏ của triều đại Giáo hoàng của ngài: “Mọi sự đều liên kết với nhau”, “tiếng kêu của trái đất và tiếng kêu của người nghèo không thể chờ đợi thêm nữa”.
Nhưng học thuyết về sinh thái của Tòa Thánh đã có rất sớm từ trước và bắt nguồn từ công đồng Vatican II. Như cha Thomas Michelet nhấn mạnh trong tác phẩm “Các Giáo hoàng và nền sinh thái”, thông điệp xanh của Đức Phanxicô khai triển một huấn quyền đã được trình bày từ nhiều thập niên.
Trong bối cảnh của công đồng Vatican II, Hiến chế Gaudium et spes đã ngầm giải quyết những vấn đề sinh thái trong một thế giới thoát thân từ Thế Chiến II, Tebaldo Vinciguerra, phụ trách các hồ sơ về môi trường của Bộ Phục vụ sự phát triển con người toàn diện, giải thích: “Chính vì được tạo dựng mà mọi vật đều có sự vững chãi, chân thực và tốt lành, cùng những định luật và trật tự riêng. Con người phải tôn trọng tất cả những điều ấy và phải nhìn nhận các phương pháp riêng biệt của mỗi khoa học và kỹ thuật” (GS 36, 2). Đức Gioan XXIII kêu gọi việc giáo dục Công giáo, “tức là chuẩn bị cho người Kitô hữu đối với bất kỳ loại trách nhiệm nào trong xã hội”, Tebaldo lưu ý.
Ý thức của Đức Phaolô VI
Theo cha Mechelet, đề cập đầu tiên trong các văn kiện Giáo hoàng về một ”thảm họa sinh thái” xuất hiện dưới ngòi bút của Đức Phaolô VI trong diễn văn của ngài ở Tổ chức Lương Nông của LHQ (FAO) năm 1970: “Chúng ta đang chứng kiến không khí chúng ta hít thở trở nên ô nhiễm, nước chúng ta uống trở nên tồi đi, sông, hồ, thậm chí là đại dương bị ô nhiễm, đến mức làm dấy lên nỗi lo sợ về một ‘cái chết sinh học’ trong tương lai gần, nếu các biện pháp năng lượng không được can đảm áp dụng mà không chậm trễ và được thực hiện cách nghiêm túc. Viễn cảnh đáng sợ mà tùy thuộc vào các bạn khai thác cách cẩn thận, để tránh sự chìm nghỉm của kết quả của hàng triệu năm chọn lọc của tự nhiên và của con người” (Cfr. Cérès, Revue FAO, vol. 3, n. 3, Rome, mai-juin 1970: Environnement: les raisons de l’alarme).
Đức Giáo hoàng Phaolô VI cũng nói với các luật gia, để lĩnh vực pháp lý mang lại sự đóng góp của nó vào việc bảo vệ môi trường. Trong suốt 15 năm triều đại giáo hoàng của mình, Đức Phaolô VI đã khai triển một “cái nhìn toàn diện đáng chú ý, trong đó nhắc lại rằng sự phát triển đích thực là sự phát triển toàn thể nhân vị, về mọi mặt của nó, toàn thể nhân loại, và không chỉ là vấn đề kinh tế”, chuyên viên về môi trường của Bộ Phục vụ sự phát triển con người toàn diện cho biết.
Một trong những diễn văn nổi bật nhất của Đức Phaolô VI là diễn văn nói với các tham dự viên của hội nghị LHQ về môi trường, ở Stockholm vào năm 1972, trong đó ngài sử dụng, như cha Michelet phân tích trong cuốn sách của mình, những khái niệm đặc trưng sinh thái và hiện đại thời đó, như tính bất khả tách rời giữa con người và môi trường của nó: “Quả thế, ngày nay đang xuất hiện ý thức rằng con người và môi trường của nó hơn bao giờ hết là không thể tách rời: môi trường trước hết tạo điều kiện cho sự sống và sự phát triển của con người ; đến lượt mình, con người hoàn thiện và nâng cao giá trị môi trường của mình bằng sự hiện diện, lao động và chiêm ngưỡng của mình. Nhưng khả năng sáng tạo của con người chỉ sẽ trổ sinh hoa trái đích thực và bền vững trong chừng mực con người sẽ tôn trọng các quy luật chi phối đà sống và khả năng tái tạo của thiên nhiên: do đó, cả hai đều liên đới và chia sẻ một tương lai chung trong thời gian. Vì thế, nhân loại được cảnh báo phải thay thế sự thúc đẩy, quá thường xuyên mù quáng và tàn bạo, về một sự tiến bộ vật chất để mặc cho động lực duy nhất của nó, bằng sự tôn trọng đối với sinh quyển trong một tầm nhìn toàn cầu về lĩnh vực của nó, vốn đã trở thành “một Trái Đất duy nhất”, để lấy lại khẩu hiệu đẹp đẽ của Hội nghị”.
20 năm tiếp theo là dịp giải ước tương đối của Tòa Thánh về các vấn đề sinh thái. “Khi nghiên cứu các bài viết của báo chí Công giáo thời đó, điều này có thể được giải thích bởi sự thất vọng được gây ra do những đề xuất theo phong cách tân-Malthusien, những đề xuất nhân khẩu học không phù hợp với học thuyết Công giáo”, Tebaldo Vinciguerra giải thích.
Sứ điệp Ngày Thế giới hòa bình năm 1990
Sự trở lại của hệ sinh thái ở trung tâm của huấn quyền Giáo hoàng chắc chắn là do sứ điệp của Đức Gioan-Phaolô II nhân Ngày Thế giới hòa bình 1/1/1990. Một bản văn ngày nay được coi như là bản văn đầu tiên của một vị Giáo hoàng bàn về sinh thái học cách toàn cầu. Ngài tuyên bố: “Xã hội hiện nay sẽ không tìm ra giải pháp cho vấn đề sinh thái nếu nó không nghiêm túc sửa đổi phong cách sống của mình. Ở nhiều nơi trên thế giới, nó có xu hướng chủ nghĩa khoái lạc và tiêu thụ, và nó vẫn dửng dưng với những thiệt hại phát xuất từ đó. Như tôi đã từng nhận xét, tính nghiêm trọng của hoàn cảnh sinh thái cho thấy chiều sâu của cuộc khủng hoảng luân lý của con người”. Nhiều tuyên bố về môi trường đã được ký kết theo chiều hướng đó và chiều kích đại kết nằm trên vùng đất sinh thái này.
Vì thế, từ những năm 1990, việc bảo vệ công trình tạo dựng trở thành một chủ đề quan trọng đối với Tòa Thánh, và Đức Bênêđíctô XVI đã đóng góp vào công trình này. Suốt triều đại Giáo hoàng của mình, ngài sẽ nói về “giao ước giữa con người và môi trường, vốn phải là tấm gương phản chiếu tình yêu sáng tạo của Thiên Chúa”, và sự quan tâm của ngài đối với sinh thái được chứng thực trong thông điệp Caritas in veritate, năm 2009. Ngài nói: “Ngày nay, những vấn đề liên quan đến việc bảo vệ và gìn giữ môi trường phải tính đến các vấn đề năng lượng. Quả thế, việc chiếm đoạt các nguồn năng lượng không thể tái tạo bởi một số Nhà nước, các nhóm quyền lực hay công ty, tạo nên một trở ngại nghiêm trọng đối với sự phát triển của các nước nghèo. Các nước này không có nguồn lực kinh tế cần thiết để tiếp cận các nguồn năng lượng không tái tạo hiện có hay để tài trợ cho việc tìm kiếm các nguồn thay thế mới.”
Tebaldo Vinciguerra cho biết, chính Đức Bênêđíctô XVI là nguồn gốc của việc lắp đặt các tấm pin quang điện trên nóc khán phòng của Vatican.
Một đường hướng được Đức Phanxicô đào sâu, ngài sẽ ghi dấu các lương tâm với việc công bố Laudato Si’. Theo chuyên gia về các vấn đề môi trường ở Bộ Phục vụ sự phát triển con người toàn diện, từ rất sớm, “Huấn quyền của Đức Phanxicô đã nhấn mạnh đến việc gìn giữ môi trường và bảo vệ những người yếu đuối nhất chống lại nền văn hóa chất thải và vứt bỏ, những bài diễn văn của ngài ở Liên Hiệp Quốc, ở Nairobi hay ở New York, rất nhiều lần kêu gọi của ngài, những cử chỉ hùng hồn của ngài, thực sự đã nhấn mạnh đến các vấn đề sinh thái trên bình diện quốc tế”.
Các hoạt động đang mang lại kết quả của chúng: trước COP26, 72 tổ chức tôn giáo trên 6 châu lục, đại diện hơn 4 tỷ tài sản đang được quản lý, đã tuyên bố thoái vốn khỏi năng lượng hóa thách.
Tý Linh (theo Marine Henriot, Vatican News)
2021
Đôi nét về Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ XVI
Ngày 17/10/2021, các Giáo hội địa phương trên toàn thế giới tổ chức khai mạc Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ XVI cấp giáo phận. Thượng Hội đồng này đã được Đức Giáo hoàng Phanxicô khai mạc tại Vatican ngày 9-10/10 vừa qua ở mức độ toàn cầu với sự tham dự của các Giám mục đại biểu. Thánh lễ long trọng khai mạc tại Vương cung thánh đường thánh Phê-rô với sự tham dự của đông đảo mọi thành phần dân Chúa. Tại Việt Nam, các Đức Giám mục đã thống nhất sẽ khai mạc vào Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng tới đây.
Để cùng thực hiện bổn phận của mỗi tín hữu là tham gia vào Thượng Hội đồng, cách đặc biệt ở giai đoạn cử hành tại Giáo hội địa phương, chúng ta cùng tìm hiểu đôi nét về Thượng Hội đồng này trong 3 phần: Hình thức của Thượng Hội đồng, Nội dung và diễn tiến của Thượng Hội đồng, Cách thức tham gia vào Thượng Hội đồng.
1. Hình thức của Thượng Hội đồng (Synodus Episcoporum)
2. Nội dung của Thượng Hội đồng |
1. Hình thức của Thượng Hội đồng (Synodus Episcoporum)
Gọi một cách đầy đủ thì đây là: Thượng Hội đồng Giám mục thông thường lần thứ XVI.
Cụm từ “Thượng Hội đồng Giám mục” được dịch từ nguyên ngữ “Synodus Episcoporum” tiếng Anh là Synod of Bishops. Trong lịch sử của Giáo hội chữ Synodus và chữ Concilium được dùng gần như đồng nghĩa để chỉ về việc các Đức Giám mục trên toàn thế giới hay tại một vùng nào đó họp nhau lại để bàn thảo và đưa ra những quyết định quan trọng cho Giáo hội. Thường thì cả hai chữ này đều được dịch là “Công đồng”. Chẳng hạn: Concilium Vaticanum II – Cồng đồng Vatican II; Synodus Tunquinensis – Công đồng Miền Bắc Kỳ.
Kể từ sau Công đồng Vatican II, hai chữ này được phân định rõ ràng hơn và mang 2 hình thức khác nhau. Ngày 15 tháng 9 năm 1965 trong khi Công đồng Vatican II còn đang diễn tiến thì Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã công bố thành lập một thể loại mới mang tên “Synodus Episcoporum” qua tự sắc Apostolica Sollicitudo.
Thể loại mới này nhằm đưa ra giải pháp mà các nghị phụ trong Công đồng thao thức: Xã hội thì biến chuyển mau lẹ, việc triệu tập Công đồng rất khó khăn và lâu, làm sao để các Giám mục có thể thường xuyên hội lại cùng Đức Giáo hoàng để xử lý công việc của Giáo hội kịp thời.
Khi có thể loại mới này thì hai chữ Concilium và Synodus mang 2 nội dung khác nhau. Chữ “Concilium” được dịch ra tiếng Việt là “Công đồng” và chữ “Synodus” ở đây được dịch là “Thượng Hội đồng”. Tuy nhiên, cùng một chữ Synodus này nhưng trong mức giáo phận thì lại được dịch là “Công nghị”. Trong Giáo luật các điều 460 – 468 nói về “Synodus Dioecesana – Công nghị giáo phận”[1]. Cho nên dịch là “Công nghị các Giám mục thế giới” thì thuận hơn là “Thượng Hội đồng Giám mục”. Tuy nhiên, ngôn ngữ chỉ là quy ước chung của xã hội.
Theo Giáo luật, thể loại Concilium (các điều 336 – 341) và Synodus (các điều 342 – 348) khác nhau căn bản ở hình thức tổ chức và tính pháp lý trong quyết định sau cùng. Về hình thức tổ chức, Công đồng bao gồm tất cả các Giám mục trên thế giới có bổn phận tham dự với quyền biểu quyết; còn Thượng Hội đồng chỉ bao gồm một số Giám mục đại diện cho các Giám mục trên toàn thế giới được tham dự với quyền biểu quyết. Về tính pháp lý, văn kiện cuối cùng của Công đồng được các Nghị phụ biểu quyết mang tính chung kết và Đức Giáo hoàng quyết định trong tư cách hiệp đoàn với các Giám mục nghị phụ (đ. 341); còn Văn kiện cuối cùng của Công nghị (Thượng Hội đồng) thì cũng được các Đức Giám mục biểu quyết nhưng kết quả biểu quyết chỉ có tính tham vấn cho Đức Giáo hoàng mà thôi và chính Đức Giáo hoàng mới là người đưa ra quyết định cuối cùng cũng như ký ban hành văn kiện với tư cách Giáo hoàng.
Ngày 18 tháng 9 năm 2018, Đức Giáo hoàng Phanxicô ban hành Tông hiến “Episcopalis comminio” nói về cơ cấu của Thượng Hội đồng Giám mục. Khoản 17 và 18 trong Tông hiến này có quy định mới về văn kiện chung kết của Thượng Hội đồng.
Trước đây thì văn kiện chung kết được gửi tới Đức Giáo hoàng rồi tùy ngài quyết định và thông thường các Đức Giáo hoàng dựa vào bản văn này để soạn ra một Tông huấn hậu Thượng Hội đồng. Nhưng theo Tông hiến mới này, văn kiện chung kết được soạn thảo kỹ lưỡng và được các Đức Giám mục bỏ phiếu, cố gắng có sự đồng thuận cao trước khi trình lên Đức Giáo hoàng.
Tới đây có hai khả thể xảy ra: thứ nhất, Đức Giáo hoàng phê chuẩn văn kiện này và như vậy nó trở thành giáo huấn thông thường của Đấng kế vị Thánh Phê-rô; thứ hai, nếu Đức Giáo hoàng trao quyền cho khóa họp Thượng Hội đồng quyết định, theo như quy định trong Giáo luật điều 343, thì khi Đức Giáo hoàng phê chuẩn và công bố văn kiện chung kết, văn kiện này trở thành giáo huấn thông thường của Đấng kế vị thánh Phê-rô. Nhưng trong trường hợp này, văn kiện chung kết được ký bởi Đức Giáo hoàng và các Giám mục tham dự Thượng Hội đồng. Điều này có nghĩa, văn kiện chung kết của Thượng Hội đồng ở khả thể thứ hai này có giá trị như một văn kiện của Công đồng chung.
Việc triệu tập Công đồng là rất khó khăn nên trong lịch sử Giáo hội hơn 2000 năm qua mới có 21 Công đồng chung. Nhưng việc triệu tập Thượng Hội đồng các Giám mục thì đơn giản hơn nên tính từ năm 1965 đến nay đã có 30 Thượng Hội đồng các thể loại.
Thượng Hội đồng Giám mục có 3 loại Đại hội chung: thông thường, ngoại thường và đặc biệt (đ. 345):
Đại hội chung đặc biệt nhằm thảo luận về những vấn đề liên quan trực tiếp đến một hoặc nhiều miền nhất định. Đã có 11 Thượng Hội đồng loại này, lần gần nhất là năm 2019 bàn về vùng Amazon.
Đại hội chung ngoại thường bàn về những vấn đề liên quan đến lợi ích của toàn Giáo hội có tính cấp bách cần có giải pháp ngay. Đức Giáo hoàng sẽ triệu tập tùy theo hoàn cảnh đòi hỏi. Đã có 3 Thượng Hội đồng loại này, lần gần nhất là năm 2014 bàn về gia đình.
Đại hội chung thông thường bàn về những vấn đề liên quan đến lợi ích của toàn Giáo hội và được cử hành 3 năm 1 lần. Trên thực tế thì khoảng 3 hoặc 4 năm cử hành 1 lần. Đã có 15 Thượng Hội đồng thuộc loại này và lần thứ 16 đang diễn ra bàn về “Vì một Giáo hội hiệp hành: Hiệp thông, tham gia, sứ vụ”. Tính từ năm 1965 đến nay thì trung bình cứ 3,5 năm có một Thượng Hội đồng Giám mục thông thường.
2. Nội dung của Thượng Hội đồng
Đức Giáo hoàng Phanxicô đã chọn chủ đề cho Thượng Hội đồng lần này là “Vì một Giáo hội hiệp hành: hiệp thông, tham gia, sứ vụ – For a Synodal Church: Communion, Participation, Mission”. Chủ đề chính yếu là tính “hiệp hành” trong Giáo hội. Chủ đề này được đào sâu dưới 3 khía cạnh là “hiệp thông”, “tham gia” và “sứ vụ”.
Chủ đề này có thể được diễn tả một cách nôm na: Tất cả mọi người cùng nắm tay nhau, dìu dắt nâng đỡ nhau tiến thẳng về Trời.
Những giáo huấn về tính hiệp hành đã được bàn giải từ lâu trong Giáo hội và Thượng Hội đồng lần này không muốn đi vào luận bàn những tư tưởng thần học liên quan đến chủ đề. Đức Giáo hoàng Phanxicô muốn đề ra những phương thế cụ thể để sống tính hiệp hành này trong Giáo hội. Đoạn văn cuối cùng của Tài liệu chuẩn bị cho Thượng Hội đồng này đã khẳng định: Thượng Hội đồng không nhằm mục đích tạo ra những tài liệu nhưng là để băng bó vết thương, khơi lên niềm tin và hy vọng cho con người[2].
Hiệp hành, hay cùng đồng hành với nhau trên con đường theo Chúa Giêsu tiến về trời mới đất mới, là đặc tính cốt yếu của Giáo hội. Đức Giáo hoàng Phanxicô khẳng định con đường hiệp hành đã được khởi xướng từ Công đồng Vatican II và được xác định là “Con đường mà Thiên Chúa mong đợi Giáo hội trong thiên niên kỷ thứ ba này”[3].
Giáo hội đã trải qua hơn 2000 năm lịch sử phát triển. Một giáo hội học theo mô hình kim tự tháp đã bị bãi bỏ và một mô hình mới được triển khai trong Công đồng Vatican II, mô hình giáo hội đồng tâm. Giáo hội được diễn tả là Dân Thiên Chúa. Trong Giáo hội, mọi tín hữu đều bình đẳng với nhau về phẩm giá nhưng mỗi người có bổn phận khác nhau tùy theo bậc sống của mình[4].
Một số tác giả đã nói về một mô hình giáo hội kim tự tháp ngược của Đức Giáo hoàng Phanxicô. Tài liệu chuẩn bị cho Thượng hội đồng này, từ số 17 đến 20, đề cập đến một Giáo hội mà trong đó có 3 tuyến nhân vật: Chúa Giêsu, đám đông dân chúng, các tông đồ. Tài liệu khẳng định “đây là hình ảnh và là mầu nhiệm của Giáo hội”[5].
Điều đặc biệt ở đây là Tài liệu triển khai mối tương quan hỗ tương giữa 3 tuyến nhân vật này: Không một ai trong 3 tuyến nhân vật này có thể bị tách bỏ. Nếu Chúa Giêsu vắng mặt thì Giáo hội thành một thứ giao kèo giữa các tông đồ với đám đông dân chúng và nó sẽ kết thúc như một trò chơi chính trị; Nếu không có các tông đồ thì mối tương quan với chân lý Tin Mừng bị phá vỡ và Chúa Giêsu chỉ còn là một huyền thoại hay một ý thức hệ; Nếu không có đám đông dân chúng thì tương quan giữa Chúa Giêsu và các tông đồ sẽ bị suy thoái và trở thành một giáo phái dần sụp đổ.[6]
Tương quan hỗ tương của ba tuyến nhân vật này được trình bày ở các số 13 – 15. Tài liệu trích dẫn Công đồng Vatican II trong Hiến chế Lumen Gentium số 9 và số 12 để cho thấy Chúa Giêsu ngỏ lời với các tông đồ và Ngài cũng ngỏ lời trực tiếp với đám đông dân chúng. Từ đó Tài liệu mời gọi các giám mục lắng nghe tiếng Chúa đồng thời cũng phải lắng nghe tiếng dân để phân định Thánh Ý Chúa. “Việc thỉnh ý dân Chúa không hàm ý là Giáo hội tiếp thu những trào lưu dân chủ dựa trên nguyên tắc đa số.” “Các giám mục được mời gọi phân định những gì Chúa Thánh Linh nói với Giáo hội, không phải chỉ có các ngài đơn độc, nhưng bằng cách lắng nghe dân Chúa vốn ‘cũng tham dự vào chức vụ ngôn sứ của Đức Kitô’”[7].
Tuy nhiên, ở số 21 của Tài liệu nhắc đến một tuyến nhân vật thứ tư xen vào với vai trò phản diện và âm mưu chia rẽ ba tuyến nhân vật trên: “Những hình thức nghiêm ngặt của tôn giáo, bó buộc của luân lý còn gắt gao hơn cả lệnh truyền của Chúa Giêsu, hoặc những hình thức quyến rũ của một thứ khôn ngoan chính trị thế gian”. Để không bị ảnh hưởng bởi tuyến nhân vật thứ tư này, Tài liệu nói đến việc phải hoán cải thường xuyên.
Đoạn trích Kinh Thánh trong sách Công Vụ Tông Đồ (CV 10) được trình bày như là mô hình cho việc hoán cải thường xuyên trong Giáo hội. Thánh Phêrô Tông đồ đã lắng nghe tiếng Chúa và ngài đã rất khó khăn để chấp nhận và làm theo Ý Chúa. Nhưng rồi ngài đã đón nhận, đã hoán cải trước khi ngài cất bước tới gặp người ngoại giáo Cornelio. Ông Cornelio cũng đã nghe thấy tiếng Chúa và ông đã kể lại tất cả kinh nghiệm của mình về Chúa cho ông Phêrô nghe. Thánh Tông đồ Phêrô, sau khi đã lắng nghe, ngài cũng trình bày chính kinh nghiệm hoán cải của mình cho ông Cornelio nghe. Cả hai cùng phân định ý Chúa và sau cùng ông Cornelio và đám đông đã lãnh nhận Phép Rửa. Như vậy người tông đồ đã lắng nghe Chúa và hoán cải chính mình trước rồi mới đến với người ngoại, cả hai cùng chia sẻ kinh nghiệm về Chúa và lắng nghe nhau, sau cùng là bước hoán cải của người ngoại trở về với Chúa.
Từ những cái nhìn trên, Thượng Hội đồng này đặt nặng tính “lắng nghe”. Giai đoạn đầu của tiến trình Thượng Hội đồng lần thứ XVI được cử hành tại các Giáo hội địa phương mang tên “Giai đoạn lắng nghe”. Trong giai đoạn này mọi thành phần dân Chúa được mời gọi lắng nghe Chúa nói và lắng nghe nhau nói. Cách đặc biệt là hàng giáo phẩm lắng nghe tiếng nói của giáo dân và giáo dân can đảm lên tiếng nói về hoàn cảnh của mình.
a. Tính Hiệp thông
Thần học về tính hiệp thông trong Giáo hội được phát triển dần sau Công đồng Vatican II. Giáo hội tiếp tục đào sâu nghiên cứu vì việc triển khai mục vụ sau Công đồng Vatican II có những đổ vỡ nhất định do không hiểu đúng hay chưa đủ về các văn kiện của Công đồng. Thượng Hội đồng Giám mục năm 1985 đã khẳng định “Cốt lõi của cuộc khủng hoảng nằm trong lãnh vực giáo hội học”. Các Đức Giám mục cũng nhận định “Ý tưởng về Giáo Hội – Hiệp thông chưa thấm vào lòng dân kitô giáo.”[8]
Những suy tư làm sáng tỏ về tính hiệp thông trong cuộc sống thực tế của Giáo hội vẫn tiếp tục được suy tư. Khái niệm Giáo hội Chúa Kitô, một Giáo hội tồn tại trong Giáo hội Công giáo được đào sâu và mở ra mối tương quan rộng khắp trong tình hiệp thông.[9] Tự sắc “Omnium in mentem” (26/10/2009) đã thay đổi ít nhiều thực tiễn áp dụng tính hiệp thông trong Giáo hội. Tính đoạn tuyệt trong tình hiệp thông không còn trong Giáo hội mà chỉ còn là hiệp thông nhiều hay ít, hiệp thông trọn vẹn hay chỉ là một phần.
Khi chủ nghĩa cá nhân lên ngôi và ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội lẫn Giáo hội, đời sống Đức tin cũng bị giản lược vào mối tương quan cá vị với Chúa. Việc tin hay không tin là chuyện của mỗi người tự do quyết định cho chính mình, nó không liên quan gì đến người khác. Các Đức Giáo hoàng đã lên tiếng cảnh báo về một đời sống Đức tin khập khiễng như thế, đồng thời các ngài tìm mọi cách để trình bày về khía cạnh cộng đoàn trong đời sống Đức tin. Năm Đức tin được mở năm 1967 do Đức Giáo hoàng Phaolô VI; Sách Giáo lý năm 1992 với trục chính là Đức tin trong đời sống cá nhân và cộng đoàn, cùng với thông điệp “Đức tin và lý trí” năm 1998 của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II; Năm Đức tin được khai mở bởi Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI với Tông thư “Porta Fidei – Cánh cửa Đức Tin” và được đóng lại bởi Đức Giáo hoàng Phanxicô ngày 24/12/2013 với Thông điệp “Lumen Fidei – Ánh sáng Đức Tin”.
Thông điệp “Laudato Si – Hãy chúc tụng Ngài” được Đức Giáo hoàng Phanxicô ban hành năm 2015 là tiếng kêu thống thiết mời gọi con người tìm lại mối hiệp thông nguyên tuyền thuở ban đầu của tạo dựng. Thông điệp không chỉ dừng lại ở vấn đề môi sinh của trái đất, nhưng đưa ra giải pháp tận căn là tìm lại mối hiệp thông tốt lành thuở ban đầu giữa con người với Thiên Chúa, con người với tạo vật, con người với thiên nhiên và con người với con người.
Trong khi trải nghiệm Đại dịch COVID-19, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nói về viễn cảnh của cuộc sống hậu COVID-19 cần phải có là tình hiệp thông huynh đệ. Thông điệp “Fratelli Tutti – Tất cả anh em” về tình huynh đệ và tình bằng hữu xã hội được Đức Giáo hoàng Phanxicô ban hành ngày 03/10/2020 là tiếng kêu mời gọi mọi người đi vào sống tình hiệp thông huynh đệ.
Tất cả cho thấy Giáo hội đang nỗ lực kéo con người đi vào trong quỹ đạo hiệp thông với Chúa và với nhau. Một cuộc hành trình sẽ dở dang nếu như các thành viên không đồng tâm hiệp lực, hay thiếu đi tính hiệp thông với nhau. Đó là khía cạnh trước hết của một Giáo hội hiệp hành.
b. Tính Tham gia
Khi Công đồng Vatican II trình bày về Giáo hội như là một Dân Thiên Chúa quy tụ quanh Chúa Kitô thì vấn đề phẩm giá và vai trò của mỗi thành phần trong Giáo hội cũng được nhìn nhận khác đi. Nếu như trước đó phẩm giá của hàng giáo sỹ được nhìn nhận cao hơn giáo dân bởi chức thánh thì giờ đây mọi thành phần trong Dân Thiên Chúa, những người đã chịu phép Rửa tội, đều có phẩm giá và hành động ngang bằng nhau.[10]
Cái nhìn thần học là thế, nhưng thực hành trong mục vụ vẫn còn nhiều vấn đề nan giải. Việc giáo dân được mời gọi tham gia vào các công việc văn hóa, chính trị, xã hội, những việc không phù hợp với đời sống giáo sỹ và tu sỹ, là điều dễ dàng; Những việc liên quan đến các bí tích, đến việc ban phát ơn thánh thuộc về những người đã lãnh nhận chức thánh là điều hiển nhiên. Nhưng vấn đề giáo dân tham gia vào những công việc quản trị của Giáo hội lại là điều còn cân nhắc. Quyền cai quản có buộc phải có thánh chức hay không?
Đón nhận sự tham gia của mọi thành phần cũng đồng nghĩa với việc hạn chế tính tập trung quyền lực. Khi Đức Giáo hoàng Phanxicô bắt đầu điều hành Giáo hội thì công việc ưu tiên đầu tiên của ngài là cải tổ Giáo triều Roma. Lúc đó người ta tưởng công việc sửa đổi bộ máy Giáo triều sẽ sớm hoàn thành trong vài tháng. Thế nhưng công việc đã không đơn giản, với nhóm 8 Hồng Y cố vấn, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã quyết định không sửa Tông hiến hiện hành nữa mà bỏ hẳn Tông hiến này để xây dựng một Tông hiến mới về Giáo triều. Đã hơn 8 năm trôi qua, công việc soạn thảo vẫn đang tiếp tục.[11] Tuy nhiên, những thay đổi cụ thể từng mảng đã được triển khai.
Một quyết định rõ nhất liên quan đến việc nhìn nhận phẩm giá sự tham gia của giáo dân là ngày 17/8/2016, với Tự sắc “Sedula Mater – Người Mẹ ân cần”, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã chính thức thành lập Bộ Giáo dân, Gia đình và Sự sống. Trước đó trong Giáo triều đã có Bộ Giám mục, Bộ Giáo sỹ, Bộ Tu sỹ, còn Giáo dân chỉ là một Hội đồng Giáo hoàng.
Gần đây Đức Giáo hoàng Phanxicô đã ban hành tự sắc “Spiritus Domini – Thần khí Chúa” thay đổi Giáo luật điều 230 §1 để phụ nữ có thể chính thức lãnh nhận thừa tác vụ đọc sách và giúp lễ ngày 11/01/2021; và ban hành Tông thư dưới dạng Tự sắc “Antiquum ministerium – Thừa tác vụ cổ kính”thiết lập thừa tác vụ Giáo lý viên ngày 11/5/2021.
Đứng trước những vấn nạn thời đại và sự thay đổi mạnh mẽ trong đời sống giáo dân tại các giáo xứ, Hội đồng Giám mục Đức và Úc đã quyết định mở “Con đường Công nghị” để thảo luận nhằm tiến tới những quyết định liên quan đến vai trò của giáo dân trong việc tham gia vào công việc quản trị của Giáo hội. Đặc biệt là “Con đường Công nghị giáo hội Đức” đưa ra thảo luận 4 vấn đề: thực thi quyền bính trong Giáo Hội theo hướng dân chủ hóa; vai trò của phụ nữ trong Giáo Hội, đặc biệt là việc phụ nữ chịu chức thánh; cải tổ luân lý tính dục của Giáo; và sau cùng là luật độc thân giáo sĩ. Với những đề tài này, nó đã làm dấy lên những mối lo ngại trong toàn Giáo hội về một cuộc cách mạng có tính ly khai.
Để đáp lại thực trạng của các giáo xứ tại các nước đang khan hiếm linh mục, ngày 20/07/2020, Bộ Giáo sĩ đã ban hành Huấn thị về việc “Hoán cải mục vụ của cộng đồng giáo xứ để phục vụ cho sứ vụ loan báo Tin Mừng của Giáo hội”. Huấn thị nhấn mạnh đến sự đồng trách nhiệm của những người đã lãnh nhận Bí tích rửa tội.
Những động thái sửa đổi và thêm vào liên quan đến sự tham gia của giáo dân vào công việc chung của Giáo hội gần đây dường như chỉ là những phương thuốc chữa trị cấp thời. Để có một giải pháp tổng thể thì cần phải được suy tư, lắng nghe, chia sẻ kinh nghiệm từ mọi thành phần dân Chúa khắp Giáo hội hoàn vũ. Vấn đề tham gia trên con đường hiệp hành là vấn đề cấp bách và là yếu tố thứ hai mà Thượng Hội đồng này nhắm tới.
c. Tính Sứ vụ
Số đầu tiên của Văn kiện chuẩn bị Thượng Hội đồng lần thứ XVI này đã xác định sứ vụ được nói đến ở đây là sứ vụ truyền giáo. Giáo hội đã xác tín việc truyền giáo là bản chất của Giáo hội.
Công đồng Vatican II đã đề cập đến bản chất truyền giáo của Giáo hội trong Hiến chế “Lumen Gentium – Ánh sáng muôn dân” và dành riêng một Sắc lệnh để nói về chính việc Truyền giáo “Ad Gentes – Đến với muôn dân”. Tuy nhiên Công đồng gần như không đề cập đến việc truyền giáo cho những cộng đoàn đã và đang bị mai một đời sống Đức tin.
Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ XIII tổ chức năm 2012 đã bàn về việc Tân Phúc âm hóa. Hoa trái của Thượng Hội này là Tông huấn “Evangelii Gaudium – Niềm vui Tin Mừng”. Vấn đề truyền giáo không được bàn tới dưới khía cạnh là bổn phận hay nghĩa vụ của người đã lãnh nhận Phép Rửa. Ở đây Tông huấn nói đến việc truyền giáo là lẽ tất yếu của một đời sống Đức tin sống động, gắn bó mật thiết với Chúa và cảm nếm được tình yêu và lòng tha thứ của Chúa. Việc truyền giáo đơn giản là việc chia sẻ chính kinh nghiệm của mình, chia sẻ chính niềm vui của mình khi được gặp gỡ Chúa. Xuất phát từ chính niềm vui của Tin Mừng mà tôi có được và lòng khao khát giúp người khác được hạnh phúc mà tôi lên đường rao giảng Tin Mừng.
Trong chiều hướng ấy, Sứ điệp ngày thế giới truyền giáo năm 2021 này của Đức Giáo hoàng Phanxicô mang một thông điệp rất rõ ràng và mạnh mẽ: “Những gì tai đã nghe, mắt đã thấy, chúng tôi không thể không nói ra” (Cv 4,20). Ngay câu đầu tiên của Sứ điệp, ngài đã tóm kết nguyên nhân và nội dung của việc loan báo Tin Mừng: “Một khi cảm nghiệm được sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa, một khi nhận ra sự hiện diện hiền phụ của Người trong đời sống cá nhân và cộng đoàn của chúng ta, chúng ta không thể không loan báo và chia sẻ những gì chúng ta đã thấy và đã nghe”[12].
Loan báo Tin Mừng là sự sống còn của Giáo hội, đồng thời cũng là thước đo cho một đời sống Đức tin sống động đến mức nào. Sứ vụ này gắn chặt với những người lữ hành trên dương thế, những người đang tiến bước trong một Giáo hội hiệp hành.
Như vậy, cả ba khía cạnh then chốt của Giáo hội hiệp hành là hiệp thông, tham gia và sứ vụ đều là những điều đã được bàn đến từ lâu và đang được đào sâu ý hướng mà các Nghị phụ của Công đồng Vatican II đã đặt để. Với Đức Giáo hoàng Phanxicô, một vị Giáo hoàng không bàn nhiều về lý thuyết nhưng đi vào thực hành mục vụ nhiều hơn, dường như muốn đặt tất cả lên bàn để nhìn lại một cách tổng thể, để từ đó cùng với toàn thể Giáo hội tiến bước với những hành động cụ thể của từng tín hữu trong cuộc sống thường ngày.
Những giải pháp được đưa ra trong những năm qua chỉ để đáp lại phần nào hoàn cảnh thực tiễn. Thượng Hội đồng lần này dường như là một giải pháp tổng thể cho tất cả. Và nếu Văn kiện đúc kết Thượng Hội đồng được Đức Giáo hoàng quyết định trao quyền cho các Nghị phụ như quy định trong khả thể thứ 2 của khoản 18 trong Tông hiến “Episcopalis comminio” thì Văn kiện có giá trị như một văn kiện của Công đồng.
3. Diễn tiến và Tham gia vào Thượng Hội đồng
a. Diễn tiến
Thượng Hội đồng được chính thức khai mạc tại Roma ngày 9-10/10/2021 và sẽ kết thúc vào tháng 10/2023. Toàn bộ Thượng Hội đồng được chia thành 3 giai đoạn: giai đoạn I được tổ chức ở cấp giáo hội địa phương cũng như các tổ chức tương đương, giai đoạn II được tổ chức ở cấp Châu Lục; giai đoạn III được tổ chức ở cấp Giáo hội hoàn vũ.
Tuy nhiên còn có 1 giai đoạn không chính thức nữa, theo nghĩa là nó có trước khi khai mạc Thượng Hội đồng, đó là giai đoạn tiền chuẩn bị. Đức Giáo hoàng bổ nhiệm một Ban Thư ký và Ban này soạn thảo Tài liệu hướng dẫn chuẩn bị cho Thượng Hội đồng. Trong Thượng Hội đồng lần này, có 2 tài liệu được gửi tới mọi thành phần dân Chúa trên toàn thế giới: Tài liệu chuẩn bị và Cẩm nang Thượng Hội đồng.
Giai đoạn I bắt đầu từ ngày 17/10/2021 và kết thúc vào ngày 15/8/2022[13]. Đây được gọi là giai đoạn lắng nghe. Tại mỗi giáo phận hay các đơn vị tương đương, Đức Giám mục triển khai công tác tổ chức để có các buổi cử hành việc lắng nghe trong giáo phận của mình. Trong những lần hội thảo này, mọi thành phần dân Chúa từ giáo dân, tu sỹ, đến giáo sỹ cùng lắng nghe tiếng Chúa và cùng lắng nghe nhau để nhận ra những chỉ dấu mà Chúa Thánh Thần đang dẫn dắt. Đặc biệt, Tài liệu chuẩn bị của Thượng Hội đồng mời gọi Đức Giám mục và hàng giáo sỹ trong giáo phận lắng nghe tiếng nói của những người nghèo, những người yếu đuối, những người dường như bị gạt ra bên lề của cộng đoàn, đồng thời các ngài tìm cách khuyến khích họ để họ can đảm lên tiếng giãi bày về những thực trạng và khát vọng của họ. Giai đoạn này là nền tảng cho các giai đoạn tiếp theo.
Mỗi giáo phận sẽ đúc kết các kinh nghiệm lắng nghe cũng như những ước vọng của mọi thành phần dân Chúa trong giáo phận thành một bản văn và gửi về Hội đồng Giám mục địa phương. Bản đúc kết “không chỉ nhấn mạnh những trải nghiệm tích cực mà còn cho thấy những trải nghiệm mang tính thách thức và tiêu cực”[14].
Sau khi nhận được các bản văn đúc kết từ các giáo phận, Hội đồng Giám mục sẽ nhóm họp các giám mục để bàn thảo, phân định ý Chúa để đúc kết thành một bản văn tổng hợp và gửi về Ban Thư ký của Thượng Hội đồng.
Tại Roma, Ban Thư ký tiếp nhận các bản tổng hợp từ các Hội đồng Giám mục, các Công nghị Giáo hội Công giáo Đông phương làm cơ sở để viết ra Tài liệu làm việc số 1 (Instrumentum laboris 1). Tài liệu này phải hoàn thành vào tháng 9/2022 và được gửi đến các giám mục trên toàn thế giới.
Giai đoạn II bắt đầu từ tháng 9/2022 (sau khi có Tài liệu làm việc số 1) và kết thúc vào trước tháng 3/2023. Đây là giai đoạn thảo luận dựa trên Tài liệu làm việc 1 và thực trạng của mỗi Châu lục để đi đến một bản văn đúc kết gửi về cho Ban Thư ký. Trong giai đoạn này, những cuộc họp quốc tế được tổ chức tại 7 vùng trên toàn thế giới: Châu Á, Châu Âu, Châu Đại Dương, Châu Phi, Châu Mỹ Latinh, Bắc Mỹ, và Trung Đông. Đại diện các Hội đồng Giám mục và những cơ cấu tương đương thuộc mỗi vùng sẽ nhóm họp tại vùng của mình để cùng nhau làm việc dựa trên Tài liệu làm việc 1.
Tại Roma, Ban Thư ký tiếp nhận các bản tổng hợp từ 7 vùng kể trên làm cơ sở để soạn thảo Tài liệu làm việc 2. Tài liệu này phải hoàn thành trong tháng 6/2023. Đây sẽ là Tài liệu làm việc chính thức của Thượng Hội đồng.
Giai đoạn III là những Cuộc họp toàn thể chính thức của Thượng Hội đồng. Trong tháng 10/2023 Đức Giáo hoàng sẽ công bố ngày triệu tập và quyết định ngày kết thúc. Các giám mục đại diện từ khắp thế giới sẽ nhóm họp tại Roma và bàn thảo dựa trên Tài liệu làm việc 2. Bản văn đúc kết sau cùng của Thượng Hội đồng sẽ được chuyển tới Đức Giáo hoàng để làm tài liệu tham khảo cho ngài viết ra Tông huấn hậu Thượng Hội đồng lần này, hoặc, nếu Đức Giáo hoàng ủy quyền, các nghị phụ tham dự Thượng Hội đồng cùng Đức Giáo hoàng đồng ký và Bản văn đúc kết trở thành Văn kiện chính thức mang tính giáo huấn của Đức Giáo hoàng.
b. Tham gia vào Thượng Hội đồng lần này
Là một mô hình mới xuất hiện sau Công đồng Vatican II, Thượng Hội đồng Giám mục được tổ chức theo những quy định được nói đến trong Tông thư dưới dạng Tự sắc “Apostolica Sollicitudo” của Đức Giáo hoàng Phaolô VI. Theo đó, những thành viên chính thức tham dự Thượng Hội đồng thường kỳ gồm: Các thành viên theo chức vụ: Các Thượng phụ, Tổng Giám mục trưởng và Tổng Giám mục thuộc Giáo hội Công giáo Đông phương; Các Hồng y trong Giáo triều Roma; Các thành viên do chọn lựa: Các Giám mục được chọn bởi Hội đồng Giám mục. Số Giám mục được chọn tùy theo số lượng Giám mục thành viên của mỗi Hội đồng Giám mục: chọn 1 nếu có dưới 25 thành viên, chọn 2 nếu không quá 50 thành viên, chọn 3 nếu có trên 100 thành viên; 10 tu sỹ được chọn từ Liên hiệp các Bề trên Thượng cấp để đại diện cho các dòng tu giáo sỹ; Các thành viên do Đức Giáo hoàng tự do chọn lựa: có thể là Giám mục, Linh mục, Tu sỹ, Chuyên viên, Quan sát viên.[15]
Ngày 15/9/2018 Đức Giáo hoàng Phanxicô đã ra Tông hiến “Episcopalis Communio”, thay thế Thông thư dưới dạng Tự sắc “Apostolica Sollicitudo”, mở rộng những quy định về Thượng Hội đồng Giám mục ngay trước thềm Thượng Hội đồng Giám mục về giới trẻ được tổ chức từ 03-28/10/2018.
Nếu Thượng Hội đồng về gia đình năm 2015 chỉ có 270 vị tham dự thì Thượng Hội đồng về giới trẻ năm 2018 có tới 410 tham dự viên.
Trước Tông hiến “Episcopalis Communio” thì Thượng Hội đồng chủ yếu diễn ra trong những ngày họp Đại hội toàn thể. Mặc dù trước đó, Ban Thư ký có gửi bản dự thảo tới các giám mục trên toàn thế giới để xin ý kiến giúp cho việc soạn thảo Tài liệu làm việc chính thức của Thượng Hội đồng, nhưng đó là giai đoạn chuẩn bị cho việc soạn thảo Tài liệu làm việc.
Với Tông hiến “Episcopalis Communio”, Thượng Hội đồng đã được mở rộng tới mọi thành phần ở mọi miền trên thế giới. Giai đoạn I và II là phần được mở rộng do sáng kiến của Đức Giáo hoàng Phanxicô.
Trong Tài liệu chuẩn bị cho Thượng Hội đồng lần thứ XVI này cho biết mục đích của việc mở rộng này: “Trước hết và trên hết, tiến trình hiệp hành là một tiến trình thiêng liêng. Đây không phải là chuyện cứ máy móc thu thập dữ liệu hay tổ chức hàng loạt những cuộc hội họp và thảo luận. Mục đích của việc lắng nghe mang tính chất hiệp hành là biện phân, vì thế đòi hỏi chúng ta phải học biết và sử dụng nghệ thuật biện phân cá nhân và cộng đoàn. Chúng ta lắng nghe lẫn nhau, lắng nghe truyền thống đức tin của chúng ta và lắng nghe các dấu chỉ thời đại để nhận biết những gì Chúa đang nói với chúng ta.”[16]
Việc tham gia vào Thượng Hội đồng không đơn thuần nhằm đóng góp ý kiến để Giáo hội có được những quy định tốt nhất. Nhưng trước hết, mọi thành phần dân Chúa được mời gọi sống chính những suy tư, nhìn nhận mà mình có được trong khi lắng nghe và phân định ý Chúa.
Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ XVI, đặc biệt trong giai đoạn I này, mời gọi mọi thành phần dân Chúa cùng ngồi xuống với nhau, cùng cầu nguyện, cùng chia sẻ kinh nghiệm thiêng liêng, cùng lắng nghe Chúa, cùng lắng nghe nhau để cùng xác quyết về một Giáo hội hiệp hành: cùng hiệp thông với nhau, cùng tham gia với tinh thần trách nhiệm, cùng thực thi sứ mệnh loan truyền Tin Mừng. Mọi thành phần dân Chúa trong Giáo hội và ngoài Giáo hội cùng nắm tay nhau, nâng đỡ dắt dìu nhau tiến về Nước Trời.
Nguồn: tonggiaophanhanoi.org
[1] Chữ “Công nghị” trong các Tu Hội lại được dịch từ một chữ khác: “Capitulum”. “Capitulum Generale” là Tổng Công nghị trong các Tu Hội. (Giáo luật các điều 631 – 633)
[2] Tài liệu chuẩn bị Thượng Hội đồng số 32
[3] Tài liệu chuẩn bị Thượng Hội đồng số 1
[4] Hiến chế Tín lý về Giáo hội – Lumen Gentium, số 32
[5] Tài liệu chuẩn bị Thượng Hội đồng số 20
[6] Tài liệu chuẩn bị Thượng Hội đồng số 20
[7] Tài liệu chuẩn bị Thượng Hội đồng số 14
[8] Lm. Phêrô Trần Văn Hội, Giáo hội, Mầu nhiệm hiệp thông theo Công đồng Vatican II, tham luận tại Đại hội Dân Chúa Việt Nam 2010
[9] Hiến chế Tín lý về Giáo hội – Lumen Gentium, số 8
[10] Hiến chế Tín lý về Giáo hội – Lumen Gentium, số 31 – 32
[11] https://www.vaticannews.va/vi/vatican-city/news/2021-03/tong-hien-giao-trieu-roma-dtc-phanxico.html
[12] Sứ điệp ngày thế giới truyền giáo năm 2021 của Đức Giáo hoàng Phanxicô
[13] Ngày 29/10/2021 Tổng Thư ký của Thượng Hội đồng đã ra thông báo quyết định rời thời hạn cuối cùng của việc nộp bản tổng kết từ các Hội đồng Giám mục và các Công nghị Giáo hội Công giáo Đông phương đến ngày 15/8/2022, tức là gia hạn thêm 4 tháng so với thời hạn ban đầu đưa ra là tháng 4/2022.
[14] Vademecum của Thượng Hội đồng lần thứ XVI phần 4.1
[15] Đức Giáo hoàng Phaolô VI, Tông thư dưới dạng Tự sắc Apostolica Sollicitudo, V, VIII, X.
[16] Vademecum của Thượng Hội đồng lần thứ XVI phần 2.2Lm. Giuse Lê Danh Tường