2021
Mục vụ giới trẻ theo hướng dẫn của Đức Thánh Cha Phanxicô
“Giới trẻ ngày nay”. Đó là những lời vừa tích cực, vừa tiêu cực người lớn dùng để đối chiếu giới trẻ hôm nay với họ thời còn trẻ. Nhiều người rất thích, rất kỳ vọng nơi giới trẻ. Nhưng không ít người vẫn nhìn giới trẻ bằng những thành kiến, cho rằng giới trẻ ngày nay không còn biết vâng lời, lao động, tôn giáo, luân lý là gì nữa[1].
Đức Thánh Cha Phanxicô gọi những người tuổi từ 16 đến 29 là người trẻ[2]. Đây là cả một thế giới vừa phong phú, vừa khác biệt. Thái độ của họ rất đa dạng trước đức tin, trước Hội Thánh và nhất là trước những vấn đề luân lý. Bản thân của mỗi người trong họ rất phức tạp, sáng khác, chiều khác, vừa lên tiếng chống đối hôn nhân thì đùng một cái lại thành anh si tình[3].
Người ta vẫn coi giới trẻ là tương lai của thế giới, nhưng Đức thánh cha Phanxicô lại coi họ là hiện tại của thế giới vì họ đang làm phong phú thế giới ấy[4]. Ngài còn khẳng định, không có giới trẻ mà chỉ có những người trẻ với những thực tại riêng của họ[5].
I. NHỮNG NGƯỜI TRẺ HÔM NAY
Người trẻ hôm nay rất đa dạng. Có những người, vì đức tin, đã phải đấu tranh giữ vững địa vị của mình, phải chịu nhiều bắt bớ, kể cả cái chết[6]. Một số bạn trẻ lại thấy người lớn không chuyển giao cho họ những giá trị căn bản về sự sống và gặp nhiều khó khăn trong việc truyền bá đức tin trong các quốc gia không tôn trọng tự do ngôn luận[7].
Có những người đang sống trong các vùng chiến tranh, đang có kinh nghiệm về bạo động dưới mọi hình thức: bắt cóc, tra tấn, tội phạm có tổ chức, buôn người, nô lệ, khai thác tình dục, bạo hành tình dục. Những người khác vì áp lực hay không còn chọn lựa nào khác phải sống bằng cách tham gia các băng nhóm tội phạm có vũ trang, buôn bán ma túy, khủng bố. Những tội phạm này cùng với đủ mọi thứ nghiện ngập đã khiến họ rơi vào vòng lao lý[8].
Những người khác do vướng vào các ý thức hệ, bị lạm dụng, khai thác trở thành bia đỡ đạn hay thành các lực lượng biểu tình tàn phá, khủng bố, chế nhạo, căm thù người khác, thành mục tiêu của các thế lực kinh tế, chính trị có tính hủy diệt[9].
Những người còn lại phải gánh chịu sự kỳ thị, bị loại trừ vì lý do chủng tộc và tôn giáo. Nhiều thiếu niên có thai, phá thai, những em khác lại nghiện ngập ma túy, bài bạc, các thứ dâm ô[10].
Một số bạn trẻ cảm thấy đau đớn vì thất bại, sai lầm, và mặc cảm tội lỗi trong quá khứ. Họ cảm thấy sự kỳ thị, bất công và không được yêu thương, chăm sóc[11].
Tuy nhiên, ta cũng thấy được những khía cạnh tích cực nơi người trẻ, đó là một khát vọng Thiên Chúa, tuy còn mờ nhạt và không phải là Thiên Chúa của mặc khải. Một số khác tha thiết với tình huynh đệ, khao khát phát huy tài năng. Những người khác lại có một sự bén nhạy đặc biệt về nghệ thuật hay khát mong sự hài hòa với thiên nhiên, và nhu cầu truyền thông. Nơi những người khác ta lại thấy sự khắc khoải muốn sống khác. Trong tất cả những thứ ấy, ta có thể tìm được những khởi điểm, các tài nguyên nội tâm mở ra cho sự khôn ngoan và khích lệ[12].
II. MÔI TRƯỜNG CỦA CÁC NGƯỜI TRẺ HÔM NAY
Thượng Hội đồng Giám mục đưa ra ba khía cạnh quan trọng nhất của xã hội hôm nay[13]:
1. Môi trường kỹ thuật số
Chúng ta đang sống trong một nền văn hóa kỹ thuật số cao, một nền văn hóa tác động sâu đậm trên ý thức về thời gian và không gian, về việc biết mình, biết người khác và thế giới chung quanh, về khả năng truyền thông, học hỏi và mối tương quan với tha nhân và thế giới. Khi tiếp cận thực tại, hình ảnh được ưa chuộng hơn việc lắng nghe đã khiến con người ngày nay khó phát huy được cảm thức phê phán[14].
Các phương tiện truyền thông hôm nay đem lại cho con người nhiều cơ hội đối thoại, gặp gỡ, trao đổi, giúp tiếp cận được các thông tin độc lập, tạo được những diễn đàn gặp gỡ người trẻ[15]. Thế nhưng môi trường kỹ thuật số cũng là môi trường của cô đơn, thao túng, bóc lột và bạo động, đó là chưa kể các trang đen, truyền bá dâm ô và nạn người khai thác người vì mục đích tình dục, đẩy người ta tới nguy cơ nghiện ngập, cô lập mất dần cảm thức về thực tại cụ thể, chặn đứng những mối tương quan liên vị[16].
Thế giới kỹ thuật số này cũng tạo ra các lợi nhuận khổng lồ về kinh tế, khiến người ta có thể điều khiển lương tâm con người và tiến trình dân chủ, Vì đánh mất sự thật, thế giới này quảng bá các thông tin giả và bóp méo sự thật để kiếm lời[17]. Thế giới ảo này cũng tạo nên “cuộc di dân kỹ thuật số”, kéo theo việc thoát ly gia đình và loại bỏ các giá trị tôn giáo và văn hóa[18].
2. Di dân
Di dân là một hiện tượng thuộc cơ chế chứ không phải là một hiện tượng nhất thời. Di dân có nhiều lý do, có thể do sự hấp dẫn của xã hội phương Tây[19], có thể vì muốn thoát khỏi chiến tranh, bạo động và những cuộc bắt bớ về văn hóa và tôn giáo. Di dân làm ta nhớ mình chỉ là người xa lạ, người lưu đày nơi dương thế (Hr 11, 13). Những người di dân có thể làm phong phú nền văn hóa và kinh tế tại những nơi đón nhận họ, nhưng cũng có thể thành nạn nhân khốn khổ của xã hội ấy[20]). Để tránh tình trạng bị lạm dụng, Đức thánh cha Phanxicô khuyến dụ các bạn trẻ, không nên để người ta sử dụng mình chống lại những người trẻ mới tới đất nước mình, coi họ là một mối đe dọa và không bình đẳng về phẩm giá với những người khác[21].
3. Các hình thức lạm dụng
Có nhiều thứ lạm dụng như lạm dụng quyền bính, lạm dụng lương tâm, lạm dụng tình dục và tài chính. Chủ nghĩa giáo sĩ là một cám dỗ thường xuyên đối với những linh mục nào coi thừa tác vụ của mình là việc thực thi quyền bính chứ không phải là một sự phục vụ tự do và quảng đại[22]. Nhưng có lẽ lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên là quái đản nhất, đáng phải chịu cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, của Hội thánh và con người[23].
Người trẻ hôm nay đang sống trong một xã hội như thế, Hội thánh phải đến với họ và cho họ những gì để sự hiện diện và hoạt động của họ thật sự làm phong phú Hội thánh và xã hội về mọi mặt, nhất là mặt tâm linh.
III. MỤC VỤ GIỚI TRẺ
Đức thánh cha, trong Tông huấn Christus Vivit, nhấn mạnh:
Mục vụ giới trẻ, như vẫn được thực hiện cách truyền thống, đã và vẫn đang chịu tác động lớn bởi những thay đổi về văn hóa và xã hội, nên cả cộng đoàn phải tham gia vào việc tin mừng hóa giới trẻ[24].
1. Người trẻ là tác nhân chính của mục vụ giới trẻ
Người trẻ chính là tác nhân chính của mục vụ giới trẻ, nên cần giúp họ sử dụng nhận thức, hiểu biết, sự chân thành và ngôn ngữ của mình để diễn tả những vấn đề và quan tâm của những người trẻ khác[25].
Cần có những kiểu cách và chiến lược mới, chương trình cần uyển chuyển, mời họ đến với các sự kiện không chỉ để học mà còn để trao đổi, ăn mừng, ca hát, nghe các chuyện thật và kinh nghiệm về việc cùng gặp gỡ vị Thiên Chúa đang sống[26]
Cần để tâm tới mọi phương pháp, ngôn ngữ có thể đưa người trẻ tới với Đức Kitô và Hội thánh, tận dụng mọi sự có thể đem lại kết quả tốt đẹp để truyền bá niềm vui Tin mừng[27].
Cần đồng hành và tạo điều kiện cho người trẻ được đồng trách nhiệm, nghĩa là đón nhận với lòng biết ơn những đóng góp của người trẻ, cả giáo dân lẫn người thánh hiến[28].
Thượng Hội đồng yêu cầu dẹp bỏ những phương pháp nào không đem lại kết quả, không thể đối thoại với nền văn hóa của người trẻ hôm nay[29].
2. Tiến trình hành động chính
Sau khi đưa ra những đề nghị trên, Tông huấn đề cập tới hai tiến trình hành động chính: quá trình tiếp cận tức cách hấp dẫn những người trẻ mới đến với một kinh nghiệm nào đó về Chúa và phát triển, giúp những người đã có kinh nghiệm về Chúa trưởng thành trong kinh nghiệm ấy.
3. Ta sẽ chỉ dừng lại với tiến trình thứ hai: phát triển
Tông huấn nhìn nhận, tại một số nơi, Hội thánh đã giúp người trẻ có được một kinh nghiệm sâu sắc về Thiên Chúa, có được cuộc gặp gỡ Đức Kitô đánh động lòng họ. Nhưng sau đó là hàng loạt các buổi gặp gỡ nói về những vấn đề tín lý và luân lý, những sự xấu trong thế giới hôm nay, về Hội thánh, học thuyết xã hội của Hội thánh, khiết tịnh, hôn nhân, kế hoạch hóa gia dinh…, khiến nhiều người trẻ chán ngán, không còn tha thiết với việc gặp gỡ Đức Kitô và đánh mất niềm vui của việc đi theo Ngài, họ trở thành thất vọng hoặc tiêu cực. Vi thế, Tông huấn kêu gọi trước hết cần thức tỉnh và củng cố những kinh nghiệm lớn đang nuôi dưỡng đời sống Kitô hữu[30]. Đó là phát triển kinh nghiệm nền tảng của việc gặp gỡ Thiên Chúa nhờ sự chết và phục sinh của Đức Kitô và lớn lên trong tình huynh đệ, đời sống cộng đoàn và phục vụ[31].
4. Việc gặp gỡ Thiên Chúa
Việc gặp gỡ Thiên Chúa nhờ sự chết và phục sinh của Chúa Giêsu quan trọng đến độ Tông huấn quả quyết: “mọi nền đào tạo Kitô giáo đều phải bao hàm việc đi sâu hơn vào trong Kerygma”[32] và phải làm cho chúng nhập thể vào đời ta cách trọn vẹn hơn. Vì thế mục vụ giới trẻ phải bao hàm những cơ hội canh tân và đào sâu kinh nghiệm đích thân về tình yêu Thiên Chúa và về Đức Kitô đang sống[33].
Muốn thế, cần tạo cho người trẻ tinh thần cầu nguyện, chiêm ngắm và sống mầu nhiệm vượt qua của Đức Kitô.
5. Cầu nguyện
Không cầu nguyện thì không thể làm gì cho Thiên Chúa, cho Hội thánh, cho con người và cho chính mình. Các thánh luôn có tinh thần cầu nguyện và nhu cầu hiệp thông với Thiên Chúa, luôn khát mong Thiên Chúa, luôn quên mình để ca tụng và chiêm ngắm Chúa[34]. Nên:
– Cần giúp người trẻ biết khát vọng Thiên Chúa và diễn tả khát vọng ấy ra trong đời sống hằng ngày: ăn, uống, trò chuyện với người khác, hay làm bất cứ việc gì, giúp họ luôn đến với Thiên Chúa và hết lòng gắn bó với Ngài.[35]
– Giúp họ thiết lập sự thân tình với Chúa Giêsu, vì Ngài không bao giờ bỏ họ, tuy có lúc im lặng. Khi họ cần Ngài, Ngài liền có mặt (Gr 29, 14), họ đi bất cứ đâu, Ngài cũng vẫn đồng hành (Jos 1, 9). Ngài không bao giờ hủy bỏ giao ước nhưng luôn xin họ “ở lại trong Ngài” (Ga 15, 4). Và dẫu họ lầm đường lạc lối, Ngài vẫn cứ thủy chung (2 Tim 2, 13)[36]
– Giúp họ cầu nguyện luôn, vì cầu nguyện làm cho họ có thể chia sẻ với Chúa mọi khía cạnh của cuộc sống, có thể tin tưởng nghỉ ngơi trong vòng tay Ngài, có thể tham dự vào sự sống và tình yêu của Ngài. Khi cầu nguyện, họ làm tất cả mọi sự cho Ngài[37].
– Vì cầu nguyện “là giao tiếp thân mật và thường xuyên chuyện trò một mình với Đấng ta biết là luôn yêu thương ta”[38], nên cần giúp giới trẻ thường xuyên nói chuyện với Thiên Chúa như với người yêu mình về mọi sự xảy ra cho đời mình[39], giúp họ mở lòng ra cho sự gặp gỡ diện đối diện với Thiên Chúa, hầu có thể nghe được tiếng thì thầm của Chúa trong thinh lặng[40].
– Trong sự thinh lặng ấy và dưới ánh sáng của Thần Khí, giúp họ nhận ra Chúa đang mời gọi họ đi trên những con đường thánh thiện nào. Nếu không, các quyết định của họ có thể chỉ là vẻ lòe loẹt bên ngoài. Điều thiết yếu là dành thời gian ở với Chúa, lắng nghe lời Ngài, và luôn học với Ngài[41].
– Vì cầu nguyện xin ơn là cách diễn tả một tâm hồn phó thác cho Thiên Chúa, nên cần giúp người trẻ biết trân trọng việc cầu nguyện này, tâm hồn họ sẽ yên tĩnh và kiên trì trong hy vọng.
– Chuyển cầu có một giá trị đặc biệt, diễn tả mối tương quan huynh đệ của ta với tha nhân, nên cần giúp người trẻ biết cầu nguyện cho người khác, nhất là những người đau khổ, để họ xứng đáng với lời ca tụng: “Đây là người yêu thương anh em mình và cầu nguyện nhiều cho dân chúng” (2 Mcb 15, 14)[42].
– Vì “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (x. Tv 119, 105), nên cần giúp người trẻ đọc lời Chúa trong tinh thần cầu nguyện (Tv 119, 103) để Lời ấy biến đổi cuộc đời họ và giúp họ làm cho việc tôn sùng lời Chúa thành trọng tâm và căn tính của đời mình[43].
– Khi họ đón nhận Chúa Giêsu nhờ việc Hiệp lễ, cần giúp họ để Ngài thực hiện cách trọn vẹn hơn công trình biến đổi đời sống họ[44].
6. Kết hợp với Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn và phục sinh của Ngài
– Giúp họ chiêm ngắm dung nhan Chúa Giêsu, chết và phục sinh, vì việc chiêm ngắm ấy luôn phục hồi loài người, cả khi họ đang bị các rắc rối trong cuộc đời này tàn phá[45]. Khi nhìn vào dung nhan Đức Kitô, họ sẽ cảm thấy mình được chữa lành và biến đổi, sẽ thấy mình đang đi vào trong cõi lòng của Chúa, vào trong các thương tích của Ngài, vì đó là nơi ở của lòng thương xót của Thiên Chúa[46].
– Nhất là giúp họ kết hợp bản thân mình với sự chết và phục sinh của Chúa[47] qua việc mang lấy tâm tư của Chúa Giêsu khi Ngài chết trên thập giá. Khi chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã bình thản để cho Cha có toàn quyền trên mạng sống, danh dự và sự nghiệp của Ngài vì tin rằng Cha chỉ muốn điều tốt lành cho Ngài. Kitô hữu cũng phải thế. Khi chấp nhận chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã trút đổ mình cho tới cùng, nên Cha đã làm đầy Ngài bằng chính Cha, đến độ nghe Danh thánh Ngài, mọi gối phải quỳ xuống bái lạy và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng, Đức Giêsu Kitô là Chúa (Pl 2, 11). Kitô hữu cũng phải thế. Trên thập giá, Chúa Giêsu đã cầm lấy mọi sự Ngài lãnh nhận, đặt vào trong tay Cha thế nào, thì Kitô hữu cũng được mời gọi sống y như thế.
Sống trọn vẹn mầu nhiệm sự chết này của Chúa Giêsu, họ sẽ chói chang vinh quang phục sinh của Ngài. Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận[48] đã đích thân kết hợp với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu khi đón nhận kiếp tù tội mà không được xét xử, tức không có tội, cách phi thường, nên đã chinh phục được nhiều người về cho Chúa[49].
Giúp họ không ngừng chết và trỗi dậy cách mới mẻ với Đức Kitô, làm phát sinh trong cuộc sống họ các khía cạnh khác nhau của cuộc sống trần thế của Ngài, để cho các khía cạnh ấy nhập thể vào trong các chọn lựa và thái độ của họ[50]. Ai kết hợp với Chúa Giêsu thì cũng sẽ yêu thương, phục vụ và tha thứ như Ngài.
7. Lớn lên trong tình huynh đệ, đời sống cộng đoàn và phục vụ
Các giám mục New Zealand đã dạy ta cách chí lý rằng ta có thể yêu thương bằng tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa, vì Chúa phục sinh vẫn luôn chia sẻ cuộc sống đầy quyền năng của Ngài với cuộc đời mỏng giòn của ta. Tình yêu ấy vô điều kiện và luôn trung thành. Khi ta cố yêu như Đức Kitô đã yêu thương ta, chính là lúc Đức Kitô đang chia sẻ với ta sự sống phục sinh của Ngài[51], vì “Đức Kitô làm cho ta có thể sống trong Ngài tất cả những gì Ngài đã sống, và Ngài đang sống tất cả những cái ấy trong ta”[52].
8. Xây dựng tình huynh đệ và môi trường huynh đệ
Chính vì thế mà Đức thánh cha Phanxicô nhấn mạnh rằng mục vụ giới trẻ phải tận dụng các phương thế và tài nguyên, để giúp họ lớn lên trong tình huynh đệ, sống với nhau như anh chị em, giúp đỡ lẫn nhau, xây dựng cộng đoàn, phục vụ và gần gũi người nghèo. Ngài còn nhấn mạnh, nếu tình huynh đệ là “điều răn mới” (Ga 13, 34), và là cách tốt nhất để diễn tả lòng yêu mến ta dành cho Thiên Chúa, thì đây chắc chắn phải là ưu tiên số một trong chương trình mục vụ giới trẻ.
Vì con người nói chung và giới trẻ nói riêng đang cảm thấy bị mồ côi, bị mất gốc, nên cần tạo nên một môi trường cởi mở và yêu thương, hấp dẫn và đầy tình huynh đệ nơi người ta có thể sống có mục đích[53]. Như thế cũng là tạo nên một gia đình, nơi người ta cảm thấy được gắn kết với nhau không chỉ bằng các mối dây thực tiễn và thực dụng mà gắn kết với nhau theo cách có tính người hơn, bớt hờ hững lạnh lùng hơn, làm việc chung với nhau, không loại trừ ai, nhẫn nại, tha thứ cho nhau và bắt đầu lại mỗi ngày[54].
Tạo nên một gia đình như thế rất quan trọng vì khi ta sống tách biệt với tha nhân, ta khó có thể chống lại nhục dục, cạm bẫy, cám dỗ của ma quỷ và tính ích kỷ của thế gian này[55].
9. Xây dựng cộng đoàn
Việc lớn lên trong sự thánh thiện là một cuộc hành trình, sát cánh cùng tha nhân trong cộng đoàn. Sống và làm việc với người khác chắc chắn là một con đường phát triển thiêng liêng. Vì khi sống với những người khác ta sẽ được nắn đúc và tôi luyện[56].
Mỗi cộng đoàn đều được mời gọi tạo nên một “không gian được Thiên Chúa soi sáng để có thể kinh nghiệm được sự hiện diện kín ẩn của Chúa phục sinh”[57]. Chia sẻ Lời Chúa và cử hành Thánh Thể với nhau bao giờ cũng nuôi dưỡng tình huynh đệ và làm cho ta thành một cộng đoàn thừa sai thánh thiện[58].
Cuộc sống chung, bất kể trong gia đình, giáo xứ, cộng đoàn tu hay bất cứ cộng đoàn nào khác, bao giờ cũng được hình thành bởi những chuyện nho nhỏ hằng ngày. Điều này rất đúng với cộng đoàn thánh duy nhất do Chúa Giêsu, Đức Maria và Thánh Giuse tạo nên, một cộng đoàn phản ánh cách mẫu mực vẻ tuyệt mỹ của sự hiệp thông Ba Ngôi. Điều đó cũng đúng với cuộc sống mà Chúa Giêsu chia sẻ với các môn đệ và với những người bình thường[59].
Cộng đoàn nào ấp ủ các chi tiết nhỏ của tình yêu[60], các thành viên quan tâm, chăm sóc nhau và tạo được môi trường cởi mở và tin mừng hóa, bao giờ cũng là nơi Chúa phục sinh hiện diện, thánh hóa cộng đoàn ấy theo kế hoạch của Chúa Cha[61]. Trái với chủ nghĩa cá nhân của những người theo chủ nghĩa tiêu thụ, con đường tiến tới sự thánh thiện duy nhất của ta là làm cho ta đồng hóa hơn nữa với lời cầu nguyện của Chúa Giêsu : “để mọi người nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha” (Ga 17, 21)[62].
10. Biến người trẻ thành tông đồ
Ngoài việc xây dựng cộng đoàn, mục vụ giới trẻ cũng cần cung cấp cho người trẻ những nơi họ có thể biến thành của mình, nơi họ có thể tự do lui tới, thấy mình được đón tiếp và gặp gỡ những bạn trẻ khác lúc vui, lúc buồn, nơi họ có thể chia sẻ âm nhạc, chơi trò chơi, chơi thể thao nhưng cũng có thể suy tư, cầu nguyện. Tại những nơi ấy có thể cho nhiều mà không tốn kém bao nhiêu[63].
Kinh nghiệm nhóm cũng là những tài nguyên quan trọng để chia sẻ đức tin và giúp nhau làm chứng, người trẻ hướng dẫn người trẻ và làm việc tông đồ nơi những người trẻ khác[64]. Làm thế không tách họ ra khỏi các cộng đoàn và tổ chức hay phong trào của giáo xứ mà làm cho họ hội nhập cách tốt hơn vào trong các cộng đoàn cởi mở, sống đức tin, hân hoan làm cho Đức Kitô tỏa sáng, vui tươi, tự do, huynh đệ và dấn thân, Đó là những cộng đoàn người trẻ cảm thấy có thể vun xới các mối tương quan quý giá[65].
Như thế, điều quan trọng là giúp người trẻ thành tác nhân chính của mục vụ giới trẻ, để chính họ đến với những người trẻ khác, đưa những người ấy về với Chúa Giêsu và Hội thánh. Muốn thế, cần giúp người trẻ một kinh nghiệm đích thân sâu sắc về tình yêu Thiên Chúa và cảm nhận được ơn cứu chuộc của một Đức Kitô đang sống bằng cách kết hợp với cuộc khổ nạn và phục sinh của Ngài, chuyên cần cầu nguyện, suy gẫm Lời Chúa, kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu Thánh Thể. Khi đã kinh nghiệm được tình yêu Thiên Chúa cách cụ thể, chính họ sẽ xây dựng một cộng đoàn huynh đệ, sẽ tạo sân chơi cho các bạn trẻ khác, để những người này cũng sẽ kinh nghiệm được tình yêu ấy của Thiên Chúa và xây dựng một cộng đoàn thấm đẫm tình Chúa, tình người.
Hy vọng, bài viết này, dựa vào các Tông huấn của Đức thánh cha Phanxicô đem lại một cái nhìn mới và một đường lối mới cho mục vụ giới trẻ hôm nay.
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 124 (Tháng 5 & 6 năm 2021)
[1] Rey – Mermet, Một Lối Nhìn Mới về Luân lý, tr. 11
[2] Christus Vivit, 58.
[3] Rey – Mermet, Một Lối Nhìn Mới về Luân lý, tr. 11
[4]Christus Vivit, 64.
[5] Christus Vivit, 71.
[6] Christus Vivit, 72
[7] Christus Vivit, 80.
[8] Christus Vivit, 72.
[9] Christus Vivit, 73.
[10] Christus Vivit,74
[11] Christus Vivit, 83
[12] Christus Vivit, 84.
[13] Christus Vivit, 85
[14] Christus Vivit, 86.
[15] Christus Vivit, 87.
[16] Christus Vivit, 88
[17] Christus Vivit, 89
[18] Christus Vivit, 90.
[19] Christus Vivit, 92
[20] christus Vivit, 93
[21] Christus Vivit, 94
[22] Christus Vivit, 98.
[23] Christus Vivit, 96.
[24] Christus Vivit, 202
[25] Christus Vivit, 203
[26] Christus Vivit, 204
[27] Christus Vivit, 205
[28] Christus Vivit, 206
[29] Christus Vivit, 208.
[30] Christus Vivit, 212
[31] Christus Vivit, 213
[32] No, 165, AAS 105 (2013), 1089.
[33] Ibid., 214
[34] Gaudete et Exsultate, 147.
[35] ID., Counsels to a Religious on How to Attain Perfection, 9.
[36] Christus Vivit, 154.
[37] Christus Vivit 155.
[38] Tự thuật 8, 5.
[39] JOHN PAUL II, Apostolic Letter Orientale Lumen (2 May 1995), 16: AAS 87 (1995), 762.
[40] Gaudete et Exultate, 149.
[41] Gaudete et Exultate, 150
[42] Gaudete et Exsultate, 154.
[43] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC ẤN ĐỘ, Tuyên bố chung quyết của Hội nghị lần thứ 21, 18.2. 2009, 3.2.
[44] Gaudete et Exsultate, 156; xem Christus Vivit, 224.
[45] Gaudete et Exsultate, 151
[46] Cf. BERNARD OF CLAIRVAUX, Sermones in Canticum Canticorum, 61, 3-5: PL 183:1071-1073.
[47] Gaudete et Exsultate, 20
[48] Năm chiếc Bánh và hai con cá, Pauline Books and Media, 2003, pp. 9,
[49] Gaudete et Exsultate, 18
[50] Spiritual Exercises, 102-312.
[51] Gaudete et Exsultate, 18.
[52] Ibid., 521. Gaudete et Exsultate, 20
[53] Christus Vivit, 216.
[54] Christus Vivit, 217
[55] Gaudete et Exsultate, 140
[56] Precautions, 15.
[57] JOHN PAUL II, Tông huấn Vita Consecrata (25 March 1996), 42: AAS 88 (1996), 416.
[58] Gaudete et Exsultate, 142
[59] Gaudete et Exsultate
[60] Tôi nghĩ cách đặc biệt về ba từ khóa “làm ơn”, “cám ơn” và “xin lỗi”. “Những từ ngữ chính xác, được nói và thời điểm chính xác, bao giờ cũng bảo vệ và nuôi dưỡng tình yêu”: Tông huấn Hậu thượng Hội đồng,Exhortation Amoris Laetitia (19 March 2016), 133: AAS 108 (2016), 363.
[61] Gaudete et Exsultate, 145
[62] Gaudete et Exsultate 146.
[63] Christus Vivit, 218
[64] Christus Vivit, 219.
[65] Christus Vivit, 220.
2021
Lạm dụng tình dục trong Giáo hội: vì sao tôi lại là linh mục ngày nay fr.aleteia.org, linh mục Pierre Alain Lejeune, 2021-10-09 Bị đè nặng trước bản báo cáo của Ủy ban Độc lập về các vụ Lạm dụng tình dục trong Giáo hội Pháp (Ciase) công bố ngày thứ ba 5 tháng 10, linh mục Pierre Alain Lejeune thuộc giáo phận Bordeaux, nước Pháp, với khuôn mặt xấu hổ và trái tim tan nát, đã viết lý do vì sao cha vẫn sẽ tiếp tục là một linh mục. Linh mục ngày nay Vào ngày thứ ba 5 tháng 10 u ám, tôi tiếp tục công việc của mình như con ngựa lao tâm lao lực cày bừa dưới cơn mưa lạnh giá. Tôi cố gắng tiếp tục không quay đầu lui quá nhiều, không làm mất nhịp của con ngựa, biết rằng mình không được ngừng giữa luống cày. Và chỉ có Chúa biết liệu tôi có muốn buông cày hay không, khi tôi bị bản báo cáo Ciase vừa được công bố sáng nay đè nặng. Chỉ có Chúa biết đã bao nhiêu lần tôi đã nghĩ đến việc bỏ hết công việc để đến nương náu ở nhà thờ bên cạnh, đóng cửa lại và khóc trước mặt Chúa vì quá đau khổ. Hôm nay tôi tiếp tục công việc, xấu hổ lên mặt, tâm hồn tan nát; tôi tiếp tục vì tôi không thể để ông cụ nằm một mình chờ xức dầu, cũng như không đành bỏ việc đi thăm tang quyến, bỏ việc chuẩn bị hôn lễ cho anh chị đang đính hôn. Tôi tiếp tục với tất cả những câu hỏi bủa vây trong đầu: Vì sao tôi còn muốn là linh mục? Vì sao tôi phục vụ cho một Giáo hội mà tôi không biết gì về bộ mặt gớm ghiếc đang lộ ra giữa ban ngày này? Hồi đó, tôi có trả lời tôi sẽ phục vụ nếu tôi biết những chuyện này không? Hôm nay tôi tiếp tục làm công việc mục vụ như thử chẳng có gì xảy ra chờ cho mọi sự đi qua, mang trong mình lời cầu nguyện đau đớn của hàng ngàn cuộc đời tan nát và sự im lặng đồng lõa: những nạn nhân và những kẻ tra tấn. Hôm nay tôi tiếp tục làm công việc mục vụ như thử chẳng có gì xảy ra chờ cho mọi sự đi qua, mang trong mình lời cầu nguyện đau đớn của hàng ngàn cuộc đời tan nát và sự im lặng đồng lõa: những nạn nhân và những kẻ tra tấn. Tôi quay lưng lại, cảm thấy xung quanh tôi là sự nghi ngờ về chiếc áo linh mục của tôi và về bậc sống tôi chọn: độc thân. Tôi phải nói, cuộc sống độc thân suốt 25 năm nay đã mang lại cho tôi nhiều niềm vui hơn là nỗi buồn. Hôm nay tôi cố gắng để gần với những người đang chờ một lời nói, một cử chỉ, tôi tiếp tục làm công việc của tôi trong tư cách là một linh mục. Và nếu đó chỉ là một nghề, thì ít nhất tôi cũng có thể nghỉ làm và tìm một nghề khác để kiếm sống. Nhưng đây là… tôi là linh mục vì tôi yêu Chúa Kitô và Giáo hội của Ngài. Và mình không bỏ người yêu chỉ vì sáng nay trời u ám, trông xấu xí với mình. Chúng ta không bỏ người yêu, dù bỗng dưng mình thấy cái xấu của họ văng tung tóe. Có lẽ nỗi đau này làm chúng ta gần với Chúa Giêsu Kitô hơn một chút, Đấng, theo một cách duy nhất, đã trả cho những tội mà Ngài không bao giờ phạm. Hôm nay tôi tiếp tục trả lời điện thoại và nhiều tin nhắn hàng ngày của những người tìm một chút ánh sáng trong đời sống bình thường của họ hoặc trong những thảm kịch sâu lắng họ phải đi qua; tôi tiếp tục tự hỏi vì sao tôi lại phải mang gánh nặng tội lỗi của người khác làm, nhục nhã vì những tội tôi không phạm. Chắc chắn nỗi đau này đưa chúng ta đến gần hơn một chút với nỗi đau của những nạn nhân bị lạm dụng tình dục, những người hơn bất kỳ ai khác, phải trả giá cho tội ác mà họ không phạm. Có thể nó làm cho chúng ta gần Chúa Giêsu Kitô, Chúa của chúng ta hơn một chút, Đấng, theo một cách duy nhất, đã trả cho những tội mà Ngài không bao giờ phạm. Tôi tiếp tục làm việc, bằng cách cầu nguyện với hết cả tấm lòng cho vô số nạn nhân của những linh mục săn mồi này, những người đã dùng thiên chức cao đẹp như tấm lưới thợ săn để bắt mồi tốt hơn. Tôi tiếp tục làm việc, bằng cách cầu nguyện cho tất cả những ai muốn rời khỏi con tàu Giáo hội. Lớn tiếng hay rụt rè. Tôi tiếp tục cự lại với ảo tưởng đạo đức giả pharisêu; ảo tưởng nghĩ rằng nếu mình tránh xa những kẻ tấn công, mình sẽ được xóa sạch khỏi tất cả sự dữ. Tôi tiếp tục cố gắng để không bỏ chiến trường. Nhưng chiến trường không chỉ có Giáo hội bị bôi bẩn vì lỗi của chiến binh nhà; chiến trường nằm trong trái tim mỗi chúng ta. Điều ác không chỉ ở người khác hay nơi những người khác; cái ác ở trong mỗi chúng ta, tất nhiên là ở dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng nó ở đó, rình rập như con thú hoang mà chúng ta phải thuần hóa nó. Tôi tiếp tục cố gắng để không buông bỏ trái tim bầm tím của tôi. Hôm nay tôi tiếp tục đạp xe dưới cơn mưa trong gió lạnh mùa thu, để cử hành thánh lễ với một số ít giáo dân cũng đau đớn như tôi trước thực tế phũ phàng này. Tu sĩ Christian de Chergé, ở Tibhrine, Algeria, bị ám sát năm 1995, đã viết vài tháng trước khi chết: “Tôi đã sống đủ lâu để tôi biết, tôi cũng là đồng phạm của cái ác mà không may dường như đang lan tràn trên thế giới”. Ngài, vị thánh! Ngài, người của hòa bình, nhận mình là đồng phạm với cái ác đang thúc giục các đao phủ của chính mình giết mình. Và ngài đã cầu nguyện cho họ… Có lẽ đó là sự thánh thiện: không nghĩ mình vô tội trước một điều xấu xa được người khác công nhận, dù là điều tồi tệ nhất; biết rằng cuộc chiến thực sự diễn ra ở ngay cánh cửa tâm hồn mình. Hôm nay tôi tiếp tục đạp xe dưới cơn mưa trong gió lạnh mùa thu để cử hành thánh lễ với một số ít giáo dân cũng đau đớn như tôi trước thực tế phũ phàng này. Chúng ta cùng nhau cử hành mầu nhiệm Đấng Kitô chịu chết vì tội lỗi của chúng ta; Ngài vô tội, Ngài chết để cứu tên tội phạm. Và cùng nhau chúng ta kêu lên Chúa: “Xin cứu con khỏi mọi sự dữ!” Hôm nay, ngày thứ ba u tối của tháng 10, tôi tiếp tục là linh mục vì tôi biết sứ mệnh này lớn hơn tôi. Hôm nay, ngày thứ ba u tối của tháng 10, tôi tiếp tục là linh mục vì tôi biết sứ mệnh này lớn hơn tôi và tôi sẽ không bao giờ xứng đáng với sứ mệnh này; tôi tiếp tục trao Mình Thánh Chúa cho những người tôi gặp, Đấng, tôi không nắm giữ trong tay, nhưng một ngày, Ngài đã nắm bàn tay nghèo hèn của tôi để hiến cho thế giới. Hôm nay tôi tiếp tục là linh mục vì tình yêu với Đấng Kitô và những người Ngài yêu thương. Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Lạm dụng tình dục trong Giáo hội: vì sao tôi lại là linh mục ngày nay
Bị đè nặng trước bản báo cáo của Ủy ban Độc lập về các vụ Lạm dụng tình dục trong Giáo hội Pháp (Ciase) công bố ngày thứ ba 5 tháng 10, linh mục Pierre Alain Lejeune thuộc giáo phận Bordeaux, nước Pháp, với khuôn mặt xấu hổ và trái tim tan nát, đã viết lý do vì sao cha vẫn sẽ tiếp tục là một linh mục.
Linh mục ngày nay
Vào ngày thứ ba 5 tháng 10 u ám, tôi tiếp tục công việc của mình như con ngựa lao tâm lao lực cày bừa dưới cơn mưa lạnh giá. Tôi cố gắng tiếp tục không quay đầu lui quá nhiều, không làm mất nhịp của con ngựa, biết rằng mình không được ngừng giữa luống cày. Và chỉ có Chúa biết liệu tôi có muốn buông cày hay không, khi tôi bị bản báo cáo Ciase vừa được công bố sáng nay đè nặng. Chỉ có Chúa biết đã bao nhiêu lần tôi đã nghĩ đến việc bỏ hết công việc để đến nương náu ở nhà thờ bên cạnh, đóng cửa lại và khóc trước mặt Chúa vì quá đau khổ.
Hôm nay tôi tiếp tục công việc, xấu hổ lên mặt, tâm hồn tan nát; tôi tiếp tục vì tôi không thể để ông cụ nằm một mình chờ xức dầu, cũng như không đành bỏ việc đi thăm tang quyến, bỏ việc chuẩn bị hôn lễ cho anh chị đang đính hôn. Tôi tiếp tục với tất cả những câu hỏi bủa vây trong đầu: Vì sao tôi còn muốn là linh mục? Vì sao tôi phục vụ cho một Giáo hội mà tôi không biết gì về bộ mặt gớm ghiếc đang lộ ra giữa ban ngày này? Hồi đó, tôi có trả lời tôi sẽ phục vụ nếu tôi biết những chuyện này không?
Hôm nay tôi tiếp tục làm công việc mục vụ như thử chẳng có gì xảy ra chờ cho mọi sự đi qua, mang trong mình lời cầu nguyện đau đớn của hàng ngàn cuộc đời tan nát và sự im lặng đồng lõa: những nạn nhân và những kẻ tra tấn.
Hôm nay tôi tiếp tục làm công việc mục vụ như thử chẳng có gì xảy ra chờ cho mọi sự đi qua, mang trong mình lời cầu nguyện đau đớn của hàng ngàn cuộc đời tan nát và sự im lặng đồng lõa: những nạn nhân và những kẻ tra tấn. Tôi quay lưng lại, cảm thấy xung quanh tôi là sự nghi ngờ về chiếc áo linh mục của tôi và về bậc sống tôi chọn: độc thân. Tôi phải nói, cuộc sống độc thân suốt 25 năm nay đã mang lại cho tôi nhiều niềm vui hơn là nỗi buồn.
Hôm nay tôi cố gắng để gần với những người đang chờ một lời nói, một cử chỉ, tôi tiếp tục làm công việc của tôi trong tư cách là một linh mục. Và nếu đó chỉ là một nghề, thì ít nhất tôi cũng có thể nghỉ làm và tìm một nghề khác để kiếm sống. Nhưng đây là… tôi là linh mục vì tôi yêu Chúa Kitô và Giáo hội của Ngài. Và mình không bỏ người yêu chỉ vì sáng nay trời u ám, trông xấu xí với mình. Chúng ta không bỏ người yêu, dù bỗng dưng mình thấy cái xấu của họ văng tung tóe.
Có lẽ nỗi đau này làm chúng ta gần với Chúa Giêsu Kitô hơn một chút, Đấng, theo một cách duy nhất, đã trả cho những tội mà Ngài không bao giờ phạm.
Hôm nay tôi tiếp tục trả lời điện thoại và nhiều tin nhắn hàng ngày của những người tìm một chút ánh sáng trong đời sống bình thường của họ hoặc trong những thảm kịch sâu lắng họ phải đi qua; tôi tiếp tục tự hỏi vì sao tôi lại phải mang gánh nặng tội lỗi của người khác làm, nhục nhã vì những tội tôi không phạm. Chắc chắn nỗi đau này đưa chúng ta đến gần hơn một chút với nỗi đau của những nạn nhân bị lạm dụng tình dục, những người hơn bất kỳ ai khác, phải trả giá cho tội ác mà họ không phạm. Có thể nó làm cho chúng ta gần Chúa Giêsu Kitô, Chúa của chúng ta hơn một chút, Đấng, theo một cách duy nhất, đã trả cho những tội mà Ngài không bao giờ phạm.
Tôi tiếp tục làm việc, bằng cách cầu nguyện với hết cả tấm lòng cho vô số nạn nhân của những linh mục săn mồi này, những người đã dùng thiên chức cao đẹp như tấm lưới thợ săn để bắt mồi tốt hơn. Tôi tiếp tục làm việc, bằng cách cầu nguyện cho tất cả những ai muốn rời khỏi con tàu Giáo hội. Lớn tiếng hay rụt rè. Tôi tiếp tục cự lại với ảo tưởng đạo đức giả pharisêu; ảo tưởng nghĩ rằng nếu mình tránh xa những kẻ tấn công, mình sẽ được xóa sạch khỏi tất cả sự dữ. Tôi tiếp tục cố gắng để không bỏ chiến trường. Nhưng chiến trường không chỉ có Giáo hội bị bôi bẩn vì lỗi của chiến binh nhà; chiến trường nằm trong trái tim mỗi chúng ta. Điều ác không chỉ ở người khác hay nơi những người khác; cái ác ở trong mỗi chúng ta, tất nhiên là ở dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng nó ở đó, rình rập như con thú hoang mà chúng ta phải thuần hóa nó. Tôi tiếp tục cố gắng để không buông bỏ trái tim bầm tím của tôi.
Hôm nay tôi tiếp tục đạp xe dưới cơn mưa trong gió lạnh mùa thu, để cử hành thánh lễ với một số ít giáo dân cũng đau đớn như tôi trước thực tế phũ phàng này.
Tu sĩ Christian de Chergé, ở Tibhrine, Algeria, bị ám sát năm 1995, đã viết vài tháng trước khi chết: “Tôi đã sống đủ lâu để tôi biết, tôi cũng là đồng phạm của cái ác mà không may dường như đang lan tràn trên thế giới”. Ngài, vị thánh! Ngài, người của hòa bình, nhận mình là đồng phạm với cái ác đang thúc giục các đao phủ của chính mình giết mình. Và ngài đã cầu nguyện cho họ… Có lẽ đó là sự thánh thiện: không nghĩ mình vô tội trước một điều xấu xa được người khác công nhận, dù là điều tồi tệ nhất; biết rằng cuộc chiến thực sự diễn ra ở ngay cánh cửa tâm hồn mình.
Hôm nay tôi tiếp tục đạp xe dưới cơn mưa trong gió lạnh mùa thu để cử hành thánh lễ với một số ít giáo dân cũng đau đớn như tôi trước thực tế phũ phàng này. Chúng ta cùng nhau cử hành mầu nhiệm Đấng Kitô chịu chết vì tội lỗi của chúng ta; Ngài vô tội, Ngài chết để cứu tên tội phạm. Và cùng nhau chúng ta kêu lên Chúa: “Xin cứu con khỏi mọi sự dữ!”
Hôm nay, ngày thứ ba u tối của tháng 10, tôi tiếp tục là linh mục vì tôi biết sứ mệnh này lớn hơn tôi.
Hôm nay, ngày thứ ba u tối của tháng 10, tôi tiếp tục là linh mục vì tôi biết sứ mệnh này lớn hơn tôi và tôi sẽ không bao giờ xứng đáng với sứ mệnh này; tôi tiếp tục trao Mình Thánh Chúa cho những người tôi gặp, Đấng, tôi không nắm giữ trong tay, nhưng một ngày, Ngài đã nắm bàn tay nghèo hèn của tôi để hiến cho thế giới. Hôm nay tôi tiếp tục là linh mục vì tình yêu với Đấng Kitô và những người Ngài yêu thương.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
2021
Thường huấn về căn tính linh mục
“THƯỜNG HUẤN VỀ CĂN TÍNH LINH MỤC” –
MỘT ĐIỂM NHẤN QUAN TRỌNG TRONG CÔNG CUỘC ĐÀO TẠO LINH MỤC TRƯỚC THỰC TRẠNG LẠM DỤNG TÍNH DỤC
Tác giả: Lm. Giuse Đỗ Mạnh Thịnh
Đại Chủng Viện Thánh Giuse Xuân Lộc, tháng 10 năm 2021
WHĐ (25.10.2021) – Trong vài năm qua, truyền thông xã hội tại nhiều quốc gia đồng loạt “phơi bày” thực trạng giáo sĩ lạm dụng tính dục. Thêm vào đó, kết quả điều tra tại nhiều nơi về những vụ lạm dụng tính dục trẻ em xảy ra trong nhiều thập niên trước đã được trưng ra cách công khai. Ngày 5-10-2021 vừa qua, báo chí thế giới lại bùng lên liên quan đến một kết quả điều tra được thực hiện trong hai năm qua tại Pháp theo đó, “trong khoảng thời gian 70 năm [từ năm 1950 – 2020], có tổng cộng khoảng 216.000 (với sai số 50 ngàn) người ở Pháp là nạn nhân vị thành niên bị lạm dụng tính dục trong Giáo hội Pháp, bởi khoảng từ 2.900 đến 3.200 linh mục và tu sĩ”[1]. Những tin tức như vậy dễ thu hút sự chú ý, tạo ra một làn sóng phẫn nộ từ nhiều người trong và ngoài Giáo Hội. Đối với Nhiệm Thể Giáo Hội, những thông tin đó trở nên như một cơn “địa chấn” mạnh mẽ gây khủng hoảng niềm tin, tổn thương tinh thần cho nhiều người, và cũng là “cớ vấp phạm” cho những người vốn thiếu thiện cảm với Giáo Hội. Điều này dẫn đến hậu quả tiêu cực đó là, một đàng người ta nghi ngờ Giáo Hội, mất niềm tin vào sự lãnh đạo của các mục tử; đàng khác, tại nhiều giáo hội địa phương, các linh mục phải sống trong sự nghi kỵ, bị giám sát hoặc tự hạn chế hoạt động mục vụ đến mức gây nên mặc cảm bị xa tránh hoặc sợ hãi, dẫn đến thái độ sống khép kín.
Khi nghe thông tin về một “scandal” lạm dụng tính dục xảy ra ở đâu đó, có thể người ta có nhiều phản ứng khác nhau. Ví dụ, có người ngay lập tức cho rằng truyền thông ngày nay dễ bị lèo lái theo những mưu đồ cá nhân hay chính trị đảng phái; cũng có người nghĩ rằng đó là sản phẩm của thái độ chống đối Giáo Hội được thực hiện bởi một nhóm nào đó; hoặc những người khác coi những sự việc lạm dụng tính dục là chuyện chỉ xảy ra ở Phương Tây xa xôi, nơi “thừa bứa” tự do, không liên quan lắm đến “tôi”. Đàng khác, có người nghi ngờ tính nghiêm túc và chân thật của những bản điều tra đó; hoặc biện minh rằng có phải chỉ giáo sĩ lạm dụng tính dục đâu, các đối tượng khác lạm dụng tính dục nhiều hơn, ví dụ phụ huynh, giáo viên, huấn luyện viên thể thao!
Khi xem xét về phương diện đào tạo linh mục, có không ít tác giả nỗ lực phân tích, nghiên cứu để tìm ra nguyên nhân được cho là có nhiều khả năng đã dẫn đến thực trạng lạm dụng tính dục, ví dụ như nghiên cứu của George Weigel[2], Gerald D. Coleman[3]. Những nghiên cứu này mang lại rất nhiều thông tin, cũng như những phân tích chuyên môn, giải pháp hữu ích cho công cuộc đào tạo linh mục.
Bài viết này không lạm bàn những tranh luận trên, cũng như không có ý đọc lại những “giả thuyết” về nguyên nhân của lạm dụng tính dục mà nhiều tác giả đã trình bày; đúng hơn, nó muốn gợi lên một cách tiếp cận vấn đề lạm dụng tính dục trong mối liên hệ đến lĩnh vực đào tạo linh mục. Một cách cụ thể, mỗi chủng sinh, linh mục có thể tự vấn: làm thế nào để chính mình có thể bảo vệ bản thân trong sứ vụ và bảo vệ các “chi thể” khác trong nhiệm thể Giáo Hội? Nói cách khác, “lỗ hổng” nào trong quá trình đào tạo có thể dẫn linh mục đến những thực hành đáng buồn đó?
Bằng cách tiếp cận như thế, bài viết nhấn mạnh đến một yếu tố nền tảng trong công cuộc đào tạo và trong đời sống cũng như sứ vụ linh mục. Yếu tố đó chính là “thường huấn về căn tính linh mục”. Trong thực tế, đây là yếu tố nòng cốt không thể thiếu, xong nó cũng dễ dàng, một cách vô tình hay hữu ý, bị xem nhẹ hoặc không thể duy trì trong một giai đoạn nào đó của đời sống linh mục.
“Thường huấn về căn tính linh mục” giúp cho người môn đệ có thể giữ “lửa” trong ơn gọi và trong khi thực thi sứ vụ. Căn tính linh mục được thể hiện một cách cụ thể và sống động trong hai chiều kích chính yếu: (1) “cảm thức yêu mến Giáo Hội”, (2) trở nên “đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô.”[4] Chính hai chiều kích này gợi đến một nhu cầu, một đòi hỏi và như một thách đố triền miên cho tiến trình đào tạo, đó là: (3) “tự giáo dục” trường kỳ hay “thường huấn”.[5] Chúng ta đi sâu vào từng lĩnh vực.
- Cảm thức yêu mến Giáo Hội, Mẹ và Hiền Thê của Đức Kitô
Thực sự, không phải đợi đến những năm gần đây, khi mà truyền thông phơi bày ra ánh sáng nhiều vụ việc lạm dụng tính dục, thì Giáo Hội mới quan tâm, mới cảm thấy lo âu và nỗ lực tìm phương “giải quyết”. Đúng hơn, đọc lại lịch sử Giáo Hội, chúng ta sẽ thấy rằng vấn đề lạm dụng tính dục, một cách nào đó, đã tồn tại trong hàng ngũ những môn đệ của Đức Kitô như một “vết nhăn nheo” không đáng có trên khuôn mặt Giáo Hội. Từ thời các thánh giáo phụ, ví dụ thánh Ba-si-li-ô Cả[6], thánh Gio-an Kim Khẩu[7], thánh Au-gút-ti-nô[8] đến thánh Phê-rô Đa-mi-an-nô[9]…, vấn đề lạm dụng tính dục của hàng ngũ tu sĩ và giáo sĩ cách riêng luôn làm dấy lên những lo âu, trăn trở cho các mục tử thánh thiện này. Tùy hoàn cảnh và thời đại, các ngài luôn mạnh mẽ lên tiếng chống lại những thực hành tính dục sai trái đó, đàng khác không ngừng dạy dỗ, trong tư cách cá nhân hay tập thể, bằng lời giáo huấn, những chỉ dẫn và cả những hình thức “kỷ luật” mạnh mẽ.
Cũng vậy, trong những năm qua, Giáo Hội đã có những hành động cụ thể để đương đầu với vấn đề này. Ví dụ, ngày 4/6/2016, Đức Thánh Cha Phanxicô đã ban hành sắc lệnh Như Người Mẹ Yêu Thương. Đây là những hướng dẫn cụ thể liên quan đến vấn đề giáo sĩ lạm dụng tính dục. Thêm vào đó, Đức Thánh Cha đã thành lập một Uỷ ban Giáo hoàng về Bảo vệ Trẻ vị thành niên. Uỷ ban này có trách nhiệm nghiên cứu các biện pháp bảo vệ, đề phòng và giải quyết các trường hợp lạm dụng tính dục trên phạm vi Giáo Hội hoàn vũ… Dựa vào những định hướng đó, nhiều Hội đồng Giám mục đã đề ra những hành động cụ thể để giúp các nạn nhân, các linh mục, đồng thời ngăn ngừa “sự lây lan” của thực trạng lạm dụng tính dục.
Nhắc lại những điều đó, chúng ta không có ý biện minh cho vấn đề lạm dụng tính dục như một thứ bệnh “mãn tính” (không thể chữa khỏi). Trái lại, qua đó chúng ta một đàng xác tín rằng Giáo Hội không bao giờ im tiếng, thỏa hiệp, hoặc làm ngơ trước sự lộng hành của điều dữ gây nên bởi chính các chi thể của mình; đàng khác, quan trọng hơn, khi nhắc lại những lo âu, quan tâm và nỗ lực đương đầu với thực trạng lạm dụng tính dục của hàng giáo sĩ, chúng ta được mời gọi làm sống lại “cảm thức yêu mến Giáo Hội”, Hiền Thê của Đức Ki-tô và là Mẹ của chúng ta.
Thiết tưởng chúng ta không cần nhắc lại những vụ án lạm dụng tính dục đã xảy ra tại nhiều nơi trên thế giới được truyền thông đề cập trong những năm qua. Điều cần thiết hơn đó là: chúng ta cần có trăn trở, ý thức rằng lạm dụng tính dục đang là một trong những quan tâm hàng đầu của Giáo Hội, nó là một thách đố lớn lao cho Giáo Hội trong vai trò là “Mẹ và Thầy”, nó đang gây nên nghi kỵ, chia rẽ, và làm cho nhiều “chi thể” trong Nhiệm Thể Giáo Hội phải đau đớn. Nói cách khác, đối mặt với thực trạng lạm dụng tính dục, trước hết, chúng ta được mời gọi củng cố lại cảm thức yêu mến Giáo Hội nơi mỗi người bằng một thái độ đồng cảm, ưu tư, lo lắng và hành động trong sự hiệp nhất của toàn Nhiệm Thể Giáo Hội.
Thực sự, cảm thức yêu mến Giáo Hội không phải là một hạn từ trừu tượng được nghe nói đến hay đọc thấy ở đâu đó. Nhưng, đó là một tâm thức thường hằng, được diễn tả qua một lối sống cụ thể gồm hai yếu tố chính yếu: vâng phục và hiệp thông.
Sự vâng phục và hiệp thông có thể được diễn giải theo ngôn từ của thánh Phao-lô: Nhìn Giáo Hội như một thân thể có Đức Ki-tô là Đầu, chúng ta thấy mình như một chi thể cần phải gắn kết với Đầu trong sự vâng phục vì đó là “sự sống còn” của chúng ta. Nhìn Giáo Hội như một thân thể gồm nhiều chi thể, chúng ta thầy mình có trách nhiệm với chính mình trong tư cách là một chi thể, đồng thời có trách nhiệm liên đới với các chi thể khác để làm nên sự sống hài hòa cho toàn thân thể (x. 1 Cr 12,12–26). Như vậy, chủng sinh, linh mục cần xác tín rằng, mình thuộc về một Nhiệm Thể, và mình chỉ có sự sống trong sự tương quan mật thiết với Đầu và các chi thể khác. Đó đích thực là cách thể hiện cụ thể một cảm thức yêu mến Giáo Hội!
Chỉ khi nào chúng ta thực lòng yêu mến Giáo Hội bằng những thực hành cụ thể như vậy, chúng ta mới cảm nhận sâu xa tính nghiêm trọng của nạn lạm dụng tính dục, nó đã gieo đau khổ lâu dài cho nhiều tâm hồn, những chi thể yếu đau của Giáo Hội mà lẽ ra phải được bảo vệ và chăm sóc, cũng như gây nên những “vết thương” đau đớn cho Nhiệm Thể Giáo Hội có Đức Ki-tô là Đầu. Cảm thức yêu mến Giáo Hội – “vâng phục và hiệp thông” – sẽ thúc đẩy chúng ta nỗ lực tìm kiếm sự hoán cải, chữa lành, chăm sóc và bảo vệ các chi thể khác, nhất là những chi thể “đau yếu”.
Như vậy, trước thực trạng lạm dụng tính dục, thiết tưởng mỗi chủng sinh, linh mục, bị đặt trước một “đòi hỏi” quan trọng trong tiến trình đào tạo về đời sống và sứ vụ linh mục, đó là: người môn đệ biết tự huấn luyện và hoán cải thường xuyên về cảm thức yêu mến giáo hội, thể hiện một cách sống động qua tâm tình cũng như thái độ “vâng phục và hiệp thông”. Chúng ta nghe lại lời của Bộ Giáo Sĩ như một nhắc nhở và định hướng quan trọng mang tính tiên tri trong bối cảnh mà chúng ta đang phải đối diện: “Bản chất và sứ vụ của linh mục phải được hiểu trong lòng Giáo Hội, là Dân Chúa, là Thân Thể Chúa Ki-tô và là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần. Chính là để phục vụ Giáo Hội mà linh mục tận hiến cuộc đời mình.”[10]
Thực sự, thường khi trái tim một linh mục không còn chung nhịp đập với Giáo Hội, không còn cảm thức yêu mến Giáo Hội – đoạn tuyệt với tinh thần vâng phục và hiệp thông – hoạt động mục vụ và cả các cử hành thánh thiêng của linh mục sẽ mất “hồn sống”. Ân sủng và sự đỡ nâng siêu nhiên sẽ dần mất theo.
- Trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô
Đối với vấn đề lạm dục tính dục, chúng ta có thể lựa chọn nhiều cách tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, có một điều không thể chối cãi, đó là: chính thực trạng lạm dụng tính dục như đang “chất vấn” trực tiếp mỗi người, chủng sinh, linh mục, trước công cuộc đào tạo chính mình như là một môn đệ của Đức Ki-tô: “bạn trở nên mẫu linh mục nào?”
Thực sự, theo Bộ Giáo Sĩ, đào tạo linh mục không phải như việc trưng ra cho thấy “lớp sơn” bề ngoài về đức hạnh, sự lịch thiệp hoặc khả năng tuân thủ những nguyên tắc trừu tượng cũng như kỷ luật bề ngoài đối với một con người. Nhưng, đó là việc đào tạo một con người để được biến đổi nên giống Chúa Giê-su. Nghĩa là, “biết nội tâm hóa tinh thần Tin Mừng, nhờ vào tương quan bằng hữu và cá vị với Chúa Ki-tô, đến độ chia sẻ những tình cảm và thái độ của Người.”[11] Nói một cách vắn gọn, đào tạo linh mục là tiến trình biến đổi một con người, cả con tim và trí óc, trở nên “đồng hình đồng dạng trong hữu thể với Chúa Ki-tô, là Thủ Lãnh, Mục Tử, Tôi Tớ và Phu Quân”[12] hoặc, nói theo thánh Phao-lô, trở nên như “người của Thiên Chúa” (x. 1 Tm 6,11).[13]
Trong tinh thần đó, một đàng theo Đức Thánh Cha Bê-nê-đic-tô XVI, được hiến thánh để “đứng trước tôn nhan và phụng sự Chúa”, linh mục được biến đổi tận căn. Điều này đòi hỏi linh mục hiến mình, gắn bó “trọn vẹn” với Thiên Chúa, và tác vụ thánh. Như một hệ quả, linh mục phải đoạn tuyệt với những mối ràng buộc luyến ái khác, để có thể “hiến lễ” con người mình một cách hoàn toàn và tự do cho việc phục vụ Thiên Chúa và tha nhân. Bên cạnh đó, cũng như các tư tế thuộc dòng Lê-vi, các tư tế Tân Ước cũng có thể nói về “mối bận tâm” và “gia tài” duy nhất của mình chính là Thiên Chúa: “Lạy Chúa, Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số mạng con, chính Ngài nắm giữ. Phần tuyệt hảo may mắn đã về con, vâng, gia nghiệp ấy làm con thỏa mãn” (Tv 16,5–6).[14]
Đàng khác, như Đức Thánh Cha Phan-xi-cô ngỏ lời với các bạn trẻ trong ngày Đại hội Giới trẻ ở Bra-sil (28/7/2013): “Các bạn hãy để cho cuộc sống của mình được đồng nhất với cuộc sống của Chúa Giê-su, để có cảm xúc, suy nghĩ, hành động như Chúa Giê-su.” Thực ra, đó chính là lời mời gọi phổ quát đầy thách thức cho những ai muốn trở nên môn đệ của Đức Ki-tô, một thách thức “có trái tim mục tử” theo gương người Mục Tử Nhân Lành, đấng luôn biết chạnh lòng thương những người nhỏ bé, yếu đuối, và sẵn sàng hiến mình vì tha nhân. Như vậy, hơn ai hết, chủng sinh, linh mục, phải nhận lấy như của riêng mình về một lời mời gọi, một lòng khát khao trở nên “đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô” – Thượng Tế, Mục Tử Nhân Lành và Người Tôi Tớ[15].
Sống và duy trì “cảm thức yêu mến giáo Hội”, và lòng khát khao trở nên “đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô”, là những yếu tố quan trọng thuộc về căn tính linh mục. Đây không phải là điều mà người ta có thể thủ đắc ngay sau một khóa học; cũng không phải là một thành quả có thể đo đếm bằng các tiêu chuẩn vật chất; cũng không phải là một thành quả người ta đạt được một lần và nó tồn tại mãi. Thực sự, “căn tính linh mục” là một giá trị mà từng ngày chủng sinh, linh mục, phải nỗ lực khám phá, thăng tiến và bảo vệ. Như vậy, sống căn tính linh mục gợi đến một đòi hỏi cấp thiết khác, đó là: “tự giáo dục” thường xuyên hay “thường huấn”.
- Tự giáo dục thường xuyên hay thường huấn
Theo tác giả Amadeo Cencini, ngoài tác nhân thần linh, tiến trình đào tạo một linh mục gồm hai nhịp – huấn luyện và giáo dục. Xét về phương diện người thụ huấn, “huấn luyện” mang ý nghĩa thụ động, ví dụ sự dạy bảo, chỉ dẫn, truyền thụ kiến thức, kỷ luật giờ giấc và quy luật cho những thực hành tâm linh, tri thức, mục vụ và nhân bản. Theo đó, người thụ huấn là người “được hay bị” đón nhận sự đào tạo, uốn nắn (formation) từ một cơ chế hay từ những nhà đào tạo. Trong khi “giáo dục” (education) thiên về hành vi và ý thức chủ động, nghĩa là người thụ huấn tìm hiểu để nhận ra con người thật của mình, khám phá mình về phương diện tâm sinh lý, và những ý hướng ẩn sâu trong mỗi hành vi và trong ơn gọi của mình, qua đó thăng tiến những ưu điểm hay hoán cải các khiếm khuyết liên quan đến hiện sinh và ơn gọi mình. Yếu tố giáo dục chủ động này là rất quan trọng trong suốt hành trình ơn gọi của một linh mục[16]. Đó cũng là điều mà Bộ Giáo Sĩ định nghĩa như là một phần quan trọng của việc “thường huấn” (ongoing formation): “[…] Đừng quên rằng chính [chủng sinh,] linh mục là người đầu tiên và là người chính yếu phải chịu trách nhiệm về sự thường huấn mình.”[17]
Việc huấn luyện (thụ động) tại chủng viện là quan trọng và cần thiết, nhưng nhất thiết không thể thiếu việc “tự giáo dục” trường kỳ hay “thường huấn” (giáo dục chủ động). “Thường huấn”, bắt đầu nơi chủng viện, và được tiếp tục sau chủng viện, trải dài suốt hành trình đời linh mục, là rất quan trọng và không thể thiếu. Điều này có nghĩa là: “Thường huấn diễn tả rằng người được gọi vào chức linh mục không bao giờ được thôi trải nghiệm mình là người môn đệ.”[18] Nói cách khác, chương trình đào tạo không thể nào hoàn thành nếu thiếu việc “thường huấn” của mỗi chủng sinh, linh mục, hoặc nếu chấm dứt việc đó ở một giai đoạn nhất định trong hành trình ơn gọi.
Trong thực tế, một đàng, theo A. Cencini, “[n]nhiều khi chúng ta làm ầm lên, gieo lộn xộn bằng cách bắt đầu trực tiếp việc huấn luyện (formation)”: chúng ta dạy dỗ, huấn luyện, truyền thụ kiến thức triết học, thần học, nhân văn và tâm linh qua những giờ lớp hoặc những thời khóa biểu dày đặc, mà lại bỏ qua hoặc xem nhẹ tư duy “tự giáo dục” trường kỳ hay “thường huấn”. Tác giả nhận định, như thế việc huấn luyện liệu có ích gì nếu ta không bắt đầu trước hết bằng việc gây nên nơi ứng sinh một tâm thức “tự giáo dục” trường kỳ.[19] Điều này làm cho chúng ta liên tưởng đến một bức tường được trát vữa một cách vội vã, sau đó quét vôi; càng quét, lớp vôi càng dày thêm và nhờ đó cũng xoá đi được những sần sùi thô lỗ của bức tường, nhưng khi lớp vôi càng dày thì cũng là lúc nó dễ dàng bị bong tróc khỏi bức tường.[20] Thực tế, theo nhiều nghiên cứu ở các nước phương tây, những trường hợp lạm dụng tính dục xảy ra tại nhiều nơi phần lớn do chính người chủng sinh, linh mục không ý thức tầm quan trọng của việc “tự giáo dục” hoặc chấm dứt việc “tự giáo dục” chính mình sau khi trở thành linh mục[21]. Vì vậy, có thể nói rằng, cuộc “khủng hoảng lạm dụng tính dục” thực chất là “khủng hoảng căn tính linh mục”[22].
Thực sự, muốn khởi sự và duy trì tâm thức “thường huấn”, chúng ta cần tìm kiếm và xác tín vào một động lực. Theo Bộ Giáo Sĩ, “Đức ái mục tử là linh hồn và là mô thể của việc thường huấn linh mục.” Như vậy, trở nên “đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô” vừa là lý tưởng và cũng là động lực trong đời sống và sứ vụ của linh mục. Đó chính là “ngọn lửa” nhờ đó, linh mục có thể chiếu sáng và sưởi ấm sứ vụ. Do đó, Bộ Giáo Sĩ nhắn nhủ: các linh mục “phải thường xuyên nuôi dưỡng ‘ngọn lửa’ mang lại ánh sáng và nhiệt huyết để thi hành thừa tác vụ.”[23]
Tóm lại, trước thực trạng lạm dụng tính dục, mỗi chủng sinh, linh mục, dường như bị chất vấn “tìm ra một chân giá trị” có tính xuyên suốt trong tiến trình đào tạo ơn gọi của mình. Giá trị nền tảng đó chính là: “hành trình trường kỳ khám phá, duy trì và thăng tiến căn tính linh mục”, được gọi là “thường huấn về căn tính linh mục”. Chính công việc này (thường huấn) “nâng đỡ linh mục để luôn trung thành với thừa tác vụ linh mục theo một hành trình hoán cải liên tục, ngõ hầu làm sống lại ơn ban đã lãnh nhận vào lúc [được] truyền chức.”[24] Hy vọng rằng: việc tìm lại, sống và thăng tiến căn tính linh mục trong một tâm thức thường huấn sẽ giúp cho mỗi chủng sinh, linh mục hôm nay có thể đương đầu trước những “sóng gió” của thời đại, cách riêng trước thực trạng lạm dụng tính dục.
[1] Hồng Thủy – Vatican News, Đức Thánh Cha cầu nguyện cho các nạn nhân của nạn lạm dụng tính dục trong Giáo hội Pháp, tại https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2021-10/dtc-phanxico-cau-nguyen-nan-nhan-lam-dung-tinh-duc-giao-hoi-phap.html
[2] Xem G. WEIGEL, The Courage To Be Catholic, Crisis, Reform, and the Future of the Church, Basics Books, USA 2002.
[3] Xem G. D. COLEMAN, Catholic Priesthood, Formation and Human Development, Ligouri, Missouri 2006.
[4] Xem BỘ GIÁO SĨ, Đào Tạo Linh Mục: Hồng Ân Ơn Gọi Linh Mục (Ratio Fundamentalis Institutionis Sacerdotalis 2016 [= Ratio 2016]), s. 30–40.
[5] Ibid., s. 80–88.
[6] Xem T. P. Halton et al. (eds.), The Fathers of the Church: Medieval Continuation, vol. II, Catholic University of America Press, Washington, D.C. 1990, 29.
[7] Xem St. JOHN CHRYSOSTOM, Homilies on Titus V (P. Schaff {ed.}, A Select Library of Nicene and Post-Nicene Fathers of the Christian Church, vol. XIII, WM. B. Eerdmans Publishing Company, Michigan 1979, 535–540).
[8] Xem J. J. O’DONNELL, Augustine Confessions II: Commentary on Books 1–7, Clarendon Press, Oxford 1992, 189–191
[9] Xem St. PETER DAMIAN, Book of Gomorrah: An Eleven-Century Treatise against clerical Homosexual Practices, Wilfrid Laurier University Press, Canada 1982.
[10] BỘ GIÁO SĨ, Đào Tạo Linh Mục: Hồng Ân Ơn Gọi Linh Mục (Ratio Fundamentalis Institutionis Sacerdotalis 2016 [= Ratio 2016]), s. 30.
[11] Ibid., s. 41.
[12] Ibid., s. 35.
[13] Xem ĐGM. GIO-AN ĐỖ VĂN NGÂN, “Hỡi người của Thiên Chúa (1 Tm 6,11)”, Lời Chủ Chăn cho giáo phận Xuân Lộc, trong trang web http://giaophanxuanloc.net/loi-chu-chan/loi-chu-chan-thang-102021–hoi-nguoi-cua-thien-chua-1tm-6-11-17844.html.
[14] Xem BENEDICT XVI – ROBERT CARDINAL SARAH, From the Depths of Our Hearts, Ignatius Press, San Francisco 2020, 48–57.
[15] Xem Ratio 2016, s. 35–40.
[16] A. CENCINI, Giáo Dục, Huấn Luyện và Đồng Hành: Một Sư Phạm Giúp Một Người Thể Hiện Ơn Gọi Mình, NXB. Đồng Nai, Đồng Nai 11–46.
[17] Ratio 2016, s. 82.
[18] Xem Ibid., s. 80–88.
[19] A. CENCINI, Giáo Dục, Huấn Luyện và Đồng Hành…, 15.
[20] Xem Ratio 2016, s. 41.
[21] Xem G. D. COLEMAN, Catholic Priesthood…, 149–164.
[22] Xem G. WEIGEL, The Courage To Be Catholic…, 93–95.
[23] Ratio 2016, s. 80.
[24] Ibid., s. 81.
2021
Đồng hành với tuổi vị thành niên
Trong nhiều dịp gặp gỡ cha mẹ hay Giáo lý viên tại các buổi học chuyên đề hay thảo luận, cũng có khi trao đổi trong các giờ tham vấn, tôi lắng nghe được những ưu tư, trăn trở và cả buồn bã, đôi khi thất vọng bế tắc trong việc đồng hành đức tin với các em tuổi vị thành niên. Nhiều cha mẹ từ yêu thương quay sang trút hết những cơn tức giận lên con mình. Nhiều anh chị Giáo lý viên cảm thấy chán nản trong các giờ lớp giáo lý. Bên cạnh đó, một số em tuổi vị thành niên đang khủng hoảng vì sự thay đổi bản thân lại thêm hoảng loạn vì hành vi và cách đối xử của cha mẹ; anh chị Giáo lý viên với mình trở nên gắt gỏng, lạnh lẽo, và coi thường. Đâu là nguyên nhân của vấn đề và cách thức nào để có thể đồng hành với các em cho hiệu quả?
Trong bài viết này, tôi muốn trình bày hai điểm giúp người đồng hành đạt hiệu quả.
– Hiểu một số điểm tâm lý căn bản của giai đoạn phát triển tuổi vị thành niên.
– Những bước đồng hành cho tuổi vị thành niên.
- Hiểu biết một số điểm tâm lý căn bản của giai đoạn phát triển tuổi vị thành niên
Theo tâm lý học phát triển[1], tuổi vị thành niên là thời kỳ chuyển tiếp cả về phương diện sinh lý, tâm lý và xã hội của một con người. Giai đoạn này rất quan trọng vì có nhiệm vụ làm nền tảng cơ bản cho những bước phát triển nhân cách, căn tính và tình cảm người trưởng thành sau này.
Một số thay đổi về tâm sinh lý của tuổi vị thành niên trong giai đoạn này:
– Sự biến đổi nhanh về thể lý và tâm sinh lý. Đây là giai đoạn cuối cùng cho sự hoàn thiện các bộ phận của cơ thể. Điểm đặc biệt của bước chuyển đổi từ trạng thái thiếu niên sang ‘người lớn’ là hiện tượng sinh lý sinh dục: nam xảy ra hiện tượng mộng tinh hay còn gọi là giấc mơ ướt; và nữ xảy ra hiện tượng kinh nguyệt. Yếu tố thay đổi này dễ gây ra khủng hoảng tâm lý nếu các em không nhận được sự hướng dẫn, giải thích cho biết đó là điều bình thường và cần thiết của sự phát triển của mỗi người.
– Các em quan tâm nhiều đến sự thay đổi của cơ thể, hay nghĩ về hình ảnh cơ thể, dễ băn khoăn, buồn rầu về những nhược điểm của cơ thể. Các em nữ để ý hơn đến hình dáng, trang điểm và ăn mặc.
– Cái tôi của cá nhân được xác định và cần được công nhận. Nghĩa là khả năng biết mình là ai và mình sẽ hội nhập vào môi trường đời sống gia đình, bạn bè và xã hội như thế nào? Các em bắt đầu thể hiện bản thân bằng việc tạo ra những hành vi và lối ứng xử riêng của mình hoặc pha trộn từ những gì các em học được. Tuy nhiên, các em cũng dễ rơi vào nhầm lẫn về vai trò của mình: vừa muốn làm người lớn lại vừa thấy mình như trẻ con.
– Các em tuổi vị thành niên muốn được người lớn tôn trọng, muốn được đối xử công bằng, muốn khám phá cái mới nhưng vẫn phụ thuộc nhiều vào gia đình.
– Các em bắt đầu quan tâm đến bạn bè, muốn tách rời khỏi sự quản lý và kiểm soát của cha mẹ. Nhu cầu tình bạn của các em trở thành cấp thiết và quan trọng nhất, đặc biệt là nhu cầu về bạn khác giới. Tuy nhiên, giai đoạn này các em cũng dễ nhầm lẫn giữa tình bạn và tình yêu. Các em cũng bắt đầu muốn khám phá năng lực về tình dục nhưng thiếu khả năng làm chủ cảm xúc tính dục.[2]
– Tuổi này có xu hướng hay căng thẳng, hay thay đổi tình cảm, muốn được thỏa mãn nhu cầu ngay, dễ có những hành động bất chấp hậu quả.
– Các em cố gắng phấn đấu và khám phá xem mình là ai. Các em có khuynh hướng trung thành với những giá trị nhân cách mà các em có ấn tượng. Nếu không phát triển bình thường, các em dễ rơi vào khó khăn, lúng túng, rối loạn hành vi, tâm lý và mất phương hướng.
Những đặc điểm căn bản nêu trên của tuổi vị thành niên cho thấy các em rất cần sự đồng hành để đối diện và vượt qua giai đoạn khủng hoảng cho quá trình trưởng thành. Sự quan tâm của gia đình, nhà trường và toàn xã hội là hết sức cần thiết để các em vượt qua khủng hoảng, hoàn thành nhân cách, và vững tin bước vào đời.
- Những bước chân đồng hành đức tin cho tuổi vị thành niên.
2.1. Bốn “đừng” mong người đồng hành áp dụng triệt để nhằm tránh tổn thương và lòng tự trọng của các em.
– Đừng bao giờ sửa dạy các em trước mặt người khác khi bản thân đang tức giận. Lúc đó, chúng ta không thực hiện nhiệm vụ dạy và dỗ các em nhưng là đang đổ cơn tức giận lên các em. Nếu làm điều này sẽ để lại một hậu quả tai hại cho tâm hồn các em.
– Đừng bao giờ áp đặt suy nghĩ của mình lên các em (người lớn nói, các em phải nghe). Như đã nói ở trên, các em tuổi vị thành niên đã hình thành lòng tự trọng rất cao. Các em mong chờ người lớn lắng nghe các em chứ không mong đợi người lớn chỉ dùng quyền để áp đặt và khống chế. Hơn nữa, suy nghĩ của người lớn không phải lúc nào cũng đúng.
– Đừng bao giờ mất bình tĩnh khi các em có những thái độ và hành vi trái với ý muốn. Các em bị cảm xúc chi phối nên đôi lúc tỏ ra bốc đồng, đặc biệt với điều trái ý các em và với những người không cùng sở thích với các em. Thái độ tốt nhất của người đồng hành trong hoàn cảnh này là lắng nghe và nhẫn nại.
– Đừng bao giờ dạy các em điều mà chúng ta không hề làm. Các em tuổi vị thành niên rất nhạy cảm với gương sáng. Các em không thích nghe nhiều, nhất là nghe những lời lên lớp, khuyên răn không hợp với tâm lý các em. Đặc biệt, tránh nói đến những điều mà các em biết rõ chúng ta chẳng bao giờ thực hành, vì như thế các em sẽ coi thường những gì chúng ta nói và cả khinh thường cách sống của chúng ta thêm thôi.
2.2. Những bước cần thiết để đồng hành có hiệu quả.
Tôi xin gợi lên một số điểm cản bản cả về đời sống nhân bản lẫn hành trình giáo dục đức tin để giúp các bậc cha mẹ, thầy cô giáo và anh chị em GLV có thể đồng hành với các em tuổi vị thành niên.
– Dành thời gian cho các em và học để hiểu về các em bằng ngôn ngữ các em. Đây là điều quan trọng cho những ai đồng hành đời sống và đức tin với các em tuổi vị thành niên. Dẫu chúng ta hiểu những đặc điểm tâm lý chung, nhưng mỗi em lại có những điểm đặc biệt, không giống ai. Nếu ở trên, chúng ta biết nói với chính mình ‘đừng áp đặt suy nghĩ của mình lên các em’ thì thật quan trọng để hiểu tính tình, sở thích, dự tính, khả năng… và môi trường sống của các em. Trong những buổi tham vấn tâm lý, tôi nghe rất nhiều các em phàn nàn: cha mẹ hoặc người lớn chẳng hiểu các em và cũng chẳng chịu lắng nghe các em. Đó là lý do các em không muốn nói chuyện. Các em cho rằng có nói cũng chẳng thèm nghe và người lớn chỉ đưa ra những lời khuyên sáo rỗng.
– Nhận ra điểm tốt và dùng điểm tốt để khuyến khích, động viên các em. Đây là điểm tâm lý chung và rất cần để giúp các em tuổi vị thành niên vượt qua khủng hoảng. Các em mong được thông cảm hơn bỏ rơi; các em cần được động viên hơn là mắng nhiếc… Cha mẹ Việt Nam rất tiết kiệm lời khen mà lại hào phóng chê bai. Khi con cái hay các em mình có điều gì sai lầm, chúng ta cứ lấy điều đó mà nói đi nói lại làm tổn thương thêm các em mà thôi. Hãy cố gắng học biết những điểm tốt của các em và khen các em cũng như khích lệ các em mạnh mẽ tự tin hơn.
– Sử dụng ‘lời cám ơn’ và cả ‘lời xin lỗi’ với các em. Đây không chỉ là thái độ tôn trọng các em mà còn là mẫu gương sáng dạy các em thực hành. Người đồng hành cần tập cho mình một thói quen nói lời “cám ơn” và “xin lỗi” với các em bằng sự khiêm tốn thật của mình.
– Trao nhiệm vụ và quyền lợi cho các em trong gia đình hay đoàn thể với sự tin tưởng. Huấn luyện cho các em tính tự lập và biết chịu trách nhiệm về việc mình đã làm. Đừng coi các em là trẻ con nữa. Các em đang tập làm ‘người lớn’. Hãy cho các em cơ hội thực hành làm người lớn. Người đồng hành cần đi bên cạnh để động viên, đi phía trước đôi khi để nắm tay các em kéo lên; và có lúc đi phía sau để đẩy các em tới.
– Khuyến khích các em chia sẻ những khó khăn đang gặp, đặc biệt, tình cảm với người khác phái/cùng phái đang lẫn lộn trong tâm trí các em. Muốn đạt được điểm này, người đồng hành cần tạo được sự tin tưởng, thân thiện, không kết án để các em có thể mạnh dạn chia sẻ.
– Trở thành người bạn của các em. Người đồng hành trước tiên phải là người bạn của các em, mà phải là người bạn thân và tin tưởng. Khi các em coi cha mẹ/ thầy cô/ hay anh chị GLV là người bạn thân, các em mới cởi mở tâm hồn và bộc bạch cuộc sống, chia sẻ cảm xúc và ước mơ thầm kín của các em.
– Biết những gì đang nói với các em. Nếu người đồng hành muốn chia sẻ điều gì với các em, họ cần biết nội dung và mục đích của việc chia sẻ này. Đừng nói theo cảm tính và thích gì nói đó. Điều này sẽ phản tác dụng đồng hành và càng làm các em coi người đồng hành như ‘kẻ thù’.
2.3. Cha mẹ – Người đồng hành đức tin cho các em tuổi vị thành niên.
Tôi muốn góp một vài điểm nhấn cho các bậc cha mẹ trong việc đồng hành đức tin cho con cái giai đoạn tuổi vị thành niên. Ngoài những bước đồng hành chung trên, cha mẹ-nhà giáo dục đức tin cho con cái từ những năm đầu đến hôm nay cần thêm một số điểm sau:
– Xây dựng ‘nhà thờ tại gia’. Chúng ta vẫn được nhắc nhở rằng gia đình là mái trường giáo dục đức tin đầu tiên[3]. Đặc biệt, thời gian dịch bệnh vẫn còn nguy cơ cao, các nhà thờ chưa thể mở lại các sinh hoạt đức tin, các lớp giáo lý thì cha mẹ cần xây dựng gia đình thành nơi đời sống đức tin được nuôi dưỡng và thực hành là một phần cần thiết và quan trọng. Một số việc cần thực hành:
– Cầu nguyện chung trong bữa ăn. Đây là một việc làm đơn giản nhưng hiệu quả cao và lâu dài. Một lời nguyện ngắn trước và sau bữa ăn tạo một thói quen cầu nguyện. Cha mẹ hãy làm và hướng dẫn các con làm cách ý thức.
– Duy trì giờ kinh gia đình: Dù cuộc sống bận rộn và nhiều nhu cầu, cha mẹ đừng bao giờ bỏ qua nhu cầu thiêng liêng – cùng nhau trước bàn thờ Chúa để cầu nguyện. Hãy chọn những lời kinh, lời cầu nguyện phù hợp với hoàn cảnh gia đình, với tâm lý tuổi các con.
– Kể cho nhau nghe câu chuyện Giêsu. Nhiều cha mẹ dành thời gian cho con cái vì hiểu tầm quan trọng của việc gần gũi con cái. Cũng vậy, càng dành nhiều thời gian kể cho con cái nghe câu chuyện Giêsu, tâm hồn các em càng được nuôi dưỡng của Chúa Giêsu. Trên các kênh YouTube có rất nhiều câu chuyện ngắn về Chúa Giêsu. Cha mẹ hãy dành thời gian trong ngày mở và cùng con cái lắng nghe. Sau khi nghe, cha mẹ hãy khéo léo hỏi con kể lại những gì các em đã nghe. Hãy tạo thói quen chia sẻ câu chuyện Giêsu thay vì các câu chuyện nhảm nhí và gây hại cho đức tin của con.
– Mở các bài nhạc thánh ca ngày cuối tuần: Đây cũng là cách thức mưa dầm thấm đất. Ngày trong tuần, con cái phải học online nên không tiện mở nhạc. Ngày cuối tuần, cha mẹ thảo luận với con để cùng nhau đồng ý mở nhạc thánh ca cho cả nhà nghe. Cha mẹ hãy chọn các bài thánh ca phù hợp với đời sống đức tin của con để tâm hồn chúng cảm nhận được những lời bài hát.
Ngoài ra, cha mẹ cần cho mình thêm những điểm sau:
Đừng bao giờ bỏ cầu nguyện. Có những ngày con cái tỏ thái độ chống đối và không muốn cầu nguyện chung trong gia đình. Đừng cố ép buộc các em. Cha mẹ hãy bình tĩnh vì có thể các em mệt, tâm trạng rối bời. Chỉ cần cho các em biết, “cha mẹ sẽ cầu nguyện cho con” và cho các em thấy gương sáng và sự trung thành cầu nguyện.
Đủ mạnh mẽ thừa nhận cha mẹ cũng là người tội lỗi. Mang thân phận con người, cha mẹ cũng có những yếu đuối riêng, đôi lúc làm sai. Cha mẹ cũng cần sự cảm thông và nâng đỡ của con cái khi thừa nhận sự mỏng giòn của mình. Đó cũng là bài học giúp con biết khiêm tốn chấp nhận bản thân và yêu thương cha mẹ.
Đừng hoảng loạn khi con không muốn đến nhà thờ. Các em tuổi vị thành niên bắt đầu thể hiện bản thân và muốn có những cách riêng của mình ngay trong đời sống đức tin. Khi các em tỏ thái độ này, cha mẹ cần bình tĩnh tìm xem điều gì đang xảy ra với các em? Ai đang ảnh hưởng đến suy nghĩ và chọn lựa các em? Hoặc các em cảm thấy việc đến nhà thờ trước đây quá xáo rỗng và nhàm chán… Cần tìm hiểu những hành vi hiện tại của các em và bình tĩnh xử lý tình huống.
Đừng ngại tìm kiếm sự giúp đỡ của người ngoài khi gặp khó khăn. Tâm lý tốt khoe xấu che đôi lúc vẫn làm cho cha mẹ lúng túng khi đối diện với khủng hoảng của con. Phần vì không muốn cho người khác biết nên cứ cố che giấu. Cha mẹ cần thừa nhận giới hạn của chính mình mà tìm kiếm sự giúp đỡ của người khác (một linh mục, một chuyên viên tham vấn, một người đã kinh nghiệm…). Đó cũng là cách thức Chúa đang đồng hành và ban ơn trợ giúp cho cha mẹ.
Cuối cùng, đối thoại và lắng nghe con chia sẻ về suy nghĩ và cảm nhận đời sống. Như đã nói ở trên, các em tuổi vị thành niên mong được người lớn hiểu, tôn trọng và cảm thông. Cha mẹ cần dành thời gian để nói chuyện với con, nhất là lắng nghe con chia sẻ về đời sống, cảm nhận, đức tin… Nếu con không xin thì đừng đưa ra lời khuyên. Cũng đừng bao giờ xét đoán nếu chia sẻ của con có điều tiêu cực. Hãy lắng nghe với tâm hồn thấu cảm. Hãy tỏ cho con biết là cha mẹ cảm thông và cầu nguyện nhiều cho con. Tốt nhất, cha mẹ nên kết thúc cuộc trò chuyện bằng cách mời con tự phát một lời cầu nguyện ngắn.
Đồng hành với con cái/các em tuổi vị thành niên thật cần thiết và quan trọng để giúp các em đủ sức vượt qua giai đoạn khủng hoảng hướng đến tuổi trưởng thành. Đây là một nhiệm vụ thiêng liêng và cao quý bởi người đồng hành góp phần làm thành toàn đời sống các em, góp công vào chương trình của Thiên Chúa là giáo dục con người theo đúng mục đích và kế hoạch của Chúa; và góp tâm hồn chia sẻ sứ mạng của Đức Kitô, “Ta đến cho họ được sống và sống dồi dào” (Ga 10, 10). Tuy nhiên, đây cũng là giai đoạn khó khăn của các bậc cha mẹ, thầy cô giáo và anh chị Giáo lý viên trong các lớp giáo lý. Người đồng hành dễ thất bại, buồn bã và mất kiên nhẫn vì thái độ thờ ơ, thiếu cộng tác và đôi khi tỏ ra chống đối của các em. Người đồng hành trong những tình huống như thế hãy bình tâm và đừng mất niềm hy vọng. Giây phút ấy, hãy dành khoảng thời gian và không gian thinh lặng để đọc đi đọc lại định nghĩa về “Tình yêu-đức mến” của thánh Phaolô trong thư thứ nhất Côrintô như sau, “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. Đức mến không bao giờ mất được” (1Cr 13, 4-8).
Tài liệu tham khảo
– Philomena Agudo (2010). I chose you, Ta đã chọn con, Nguyễn Ngọc Kính chuyển ngữ, NXB Phương Đông.
– Breig James (1992). Finding God in your house, Chicago, Illinois.
– Sprinthall & Collins (1995). Adolescent psychology: A developmental view, McGraw-Hill, New York.
– Michel Quoist (2000). Xây dựng con người nhân bản, Nguyễn Thị Chung dịch, NXB Tôn Giáo.
Nguồn: giaophanxuanloc.net
[1] x. Sprinthall & Collins (1995). Adolescent psychology: A developmental view, McGraw-Hill, New York.
[2] Philomena Agudo, I chose you, Ta đã chọn con, Nguyễn Ngọc Kính chuyển ngữ, NXB Phương Đông, 2010
[3] GLHTCG số 2682