2021
Bí quyết tìm được hạnh phúc giữa những khổ đau?
Bí quyết tìm được hạnh phúc giữa những khổ đau?
Thiên Chúa không bao giờ muốn đau khổ, Ngài không muốn chúng ta đau khổ.
Chắc chắn có rất nhiều người đã tự hỏi mình câu hỏi này, và câu hỏi này dường như chứa đựng những mâu thuẫn. Đau khổ và sống hạnh phúc? Những thứ điên rồ.
Rõ ràng để có hạnh phúc không có nghĩa là chúng ta phải đau khổ, mà chúng ta phải học cách đau khổ để sống hạnh phúc, bởi vì đau khổ gắn liền với cuộc sống không thể thay đổi.
Đau khổ là hậu quả của tội lỗi, bởi vì Thiên Chúa, với lòng nhân từ và sáng tạo đầy yêu thương của mình, chưa bao giờ nghĩ đến điều gì tương tự vậy cho chúng ta.
Thiên Chúa không bao giờ muốn đau khổ, Ngài không muốn chúng ta đau khổ. Bởi vì, đối với tội lỗi, chúng ta không có lựa chọn nào khác, tuy nhiên, chúng ta phải đối mặt với cuộc sống cách chín chắn và đấu tranh cho hạnh phúc của mình.
Một số đau khổ là đáng giá, một số khác thì không …
Đây là điều mà tôi muốn làm rõ. Một số đau khổ xuất hiện và gắn liền với cuộc sống – chúng ta không yêu cầu, không muốn nó, nhưng chúng là một phần của thực tại đầy phức tạp mà chúng ta đang sống.
Chẳng hạn, một người mẹ hy sinh giấc ngủ của mình vì phải cho con bú, chăm sóc con, ngay cả khi người mẹ đó đã trải qua một ngày dài làm việc vất vả. Có những bậc cha mẹ đã phải hy sinh bản thân để nuôi dạy con cái và cho chúng được học hành đến nơi đến chốn, điều mà họ không thể có được. Lại có người mà trong khoảnh khắc nào đó của cuộc đời phải học cách sống chung với một số bệnh tật mà họ không có trách nhiệm nào với nó ngoài một thực tế là do đã thừa hưởng sự di truyền từ tổ tiên.
Tuy nhiên có một loại đau khổ khác phát xuất từ những quyết định sai lầm, trong bối cảnh này thì cách giải thích đơn giản hơn, và chúng ta cũng có thể nói rằng người ta đã tìm đến nó.
Ví dụ, tôi đang nghĩ đến đau khổ của một gia đình có đứa con sống hư đốn do chứng nghiện ma túy; nghĩ đến những tổn thương của bao đứa trẻ đang vượt qua những thung lũng khô khan vì cha mẹ chúng ly dị; nghĩ đến những bạn trẻ, những người cảm thấy rất khó khăn khi phải sống trách nhiệm và bổn phận; nghĩ đến nhiều hình thức bạo lực gia đình, đến tình trạng tham nhũng mà chúng ta thấy khắp mọi nơi, gây ra nghèo đói và bất bình đẳng xã hội, tạo ra ngày càng nhiều rạn nứt xã hội. Và danh sách cứ tiếp tục dài.
Cuộc sống chỉ có ý nghĩa nhờ tình yêu
Ai trong chúng ta không muốn được yêu thương, ôm ấp và che chở? Cũng như muốn yêu thương, vun đắp tình thân, giúp đỡ và chăm sóc những người đang cần giúp đỡ.
Khi hoàn cảnh cho phép và động cơ hợp lý, tôi phải nói rằng điều đó không khiến cho chúng ta phải trả giá đắt. Chẳng hạn, nếu đó là một việc cần phải hy sinh bản thân vì lợi ích của một đứa trẻ, thì không quá khó để tìm thấy sức mạnh để làm việc đó. Cuối cùng, cha mẹ nào lại không muốn điều tốt cho con cái của họ chứ?
Nhưng đâu là phản ứng của chúng ta, chống lại chính Thiên Chúa, khi cái chết của người thân trong gia đình gõ cửa chúng ta? Đâu là mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa khi có đứa con đang trải qua căn bệnh nan y?
Chúng ta không có những suy nghĩ báo thù nào, cũng như chống lại Thiên Chúa, khi chúng ta phải chịu bất công mà không có bất cứ tội lỗi nào? Biết bao lần chúng ta lao vào chống lại Thiên Chúa?
Tình yêu và lòng nhân hậu của Thiên Chúa ở đâu khi chúng ta chịu đau khổ mà không hề có lý do? Chúa ở đâu khi chúng ta cảm thấy cô đơn trong đau khổ?
Chính trong những giây phút này, chúng ta cần phải vượt thắng những cảm xúc như vậy và yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Cũng như khi chúng ta đau khổ, Ngài không phải là thủ phạm.
Tuy nhiên, bằng mọi giá chúng ta cứ phải tìm cho ra thủ phạm, bởi vì chúng ta không thể chấp nhận cuộc sống đối xử với chúng ta như vậy được. Ngay cả khi chúng ta đau khổ, Thiên Chúa cũng không phải là thủ phạm.
Chúng ta nỗ lực hết sức và nhận ra “vị thần” nào chúng ta đang hướng đến. Một vị thần không hề quan tâm đến chúng ta và bỏ rơi chúng ta? Vị thần đó không phải Thiên Chúa của chúng ta.
Thiên Chúa của niềm tin Kitô giáo là một người Cha, đã ban người Con duy nhất của mình, chịu chết trên thập giá và hiến dâng mạng sống mình vì yêu thương chúng ta. Là Người Con, Ngài đã mang trên thân thể mình các vết thương và đau đớn, đã tự hiến để đem lại cho cuộc sống này một ý nghĩa mới, vốn đã bị tội lỗi và các hậu quả của nó làm hư hỏng.
Thiên Chúa của chúng ta đã tạo dựng chúng ta vì tình yêu, và vì một hành động nhân từ đáng kính nể, đó là đã yêu cầu Con của mình một sự hy sinh không thể nghĩ tưởng được.
Chỉ có như vậy thì việc mang lấy những đau khổ của chúng ta và đưa chúng ta đến gần thập giá của Chúa Kitô mới có nghĩa, bởi vì theo cách đó, mọi thập giá của chúng ta mới trở thành cơ hội để yêu thương.
Sự đau khổ của tôi, không có ý nghĩa gì, thông phần vào công trình cứu chuộc của Chúa Kitô và hoàn tất nó. Và nếu tôi chia sẻ với Ngài trong sự hy sinh của Ngài, tôi cũng chia sẻ niềm vui Phục sinh của Ngài (1Pr 4,13).
Thái độ này rõ ràng đòi hỏi từ nơi tôi một thực tế là yêu mến Chúa Giêsu, dâng cho Ngài gánh nặng của đời tôi và không bỏ mặc Ngài vì hận thù hoặc cay đắng.
Đau khổ có thể là một cách để yêu thương
Nhiều lần Chúa Kitô đã nói với chúng ta rằng những ai muốn theo Ngài thì phải vác thập giá mình để trở thành môn đệ của Ngài? (Mt 16, 24). Điều này liên quan đến việc chấp nhận cuộc sống như nó là, bằng cách mang lấy những điều tốt hoặc xấu, vui hay buồn. Chúa Kitô yêu thương chúng ta cách trọn vẹn, không phải nửa vời. Dù chúng ta có đang ở với Ngài hay không, thì Thiên Chúa cũng không có một nửa điều khoản nào.
Bạn đang lạnh hay nóng (Kh 3, 14). Phong ngôn của chúng ta phải là “có thì nói có, không thì nói không” (Mt 5, 37). Khi chọn lối đi của đời sống Kitô giáo, chúng ta biết rất rõ đâu là chân trời của mình: là thập giá. Tuy nhiên, cây thập giá sau ba ngày sẽ biến thành Cây Sự Sống.
Chúa Giêsu dạy chúng ta bằng mẫu gương trao ban cuộc sống vì bạn hữu của mình. Và không chỉ vậy, Ngài còn dạy chúng ta biết quan tâm lo lắng cho những người xa lạ bị ngược đãi trên đường (Lc 10, 25-37). Hơn thế nữa, Ngài dạy chúng ta phải yêu thương kẻ thù của mình (Mt 5, 38-48). Không bao giờ báo ác khi ai đó làm hại chúng ta (Rm 12, 17-21) nhưng luôn yêu thương và làm việc thiện.
Ngay cả khi nói đến việc yêu thương người thân của mình, bổn phận thực sự đối với người khác bao hàm lòng quảng đại, từ bỏ tư quyền, hy sinh, cống hiến… và tất cả những điều trên, nếu chúng ta muốn sống điều đó như Chúa Kitô đã sống, không cân đo đong đếm, nghĩa là chia sẻ sự đau khổ. Tuy nhiên, chúng ta cần từ bỏ tính thất thường, thị hiếu, sở thích cá nhân, không gian và tiện nghi của mình, là điều không phải lúc nào cũng tiêu cực.
Tình yêu mà chúng ta học được từ nơi Chúa Kitô luôn đặt người khác trên bản thân, và đòi hỏi chúng ta từ bỏ bản thân vì ích lợi của người khác. Điều này liên quan một phần đến việc hãm mình. Trong nền văn hóa hiện nay, càng ngày chúng ta càng ít quen sống với những hành động quảng đại như vậy.
Đau khổ của tôi có thể là cách để hiện thực hóa
Sau khi kể ra hết tất cả những điều trên, chúng ta có thể hiểu thêm được một chút và tốt hơn cách trải nghiệm đau khổ với Chúa Kitô như một cách hiện thực hóa cá nhân. Nhờ đó chúng ta được lớn lên trong tình yêu và làm cho cuộc sống của chúng ta trở thành một hành vi vinh danh Thiên Chúa, bằng cách tìm kiếm thiện ích chung, hiển nhiên là ơn cứu rỗi của chúng ta.
Với Chúa Kitô chúng ta học được rằng chúng ta phải trở thành những nhân vật chính đối với đau khổ của mình, bằng cách làm cho nó trở thành một phương tiện để đến gần Chúa và trở nên giống như Chúa nhiều hơn.
Giống như tình yêu, đau khổ cũng là một cách để có được mối tương quan mật thiết với Thiên Chúa. Bởi vì đó là cách mà chúng ta thể hiện lòng thương xót đối với tha nhân theo cách độc đáo. Bằng cách này chúng ta có thể hiểu được lời xác quyết của thánh Augustinô, vào lễ Vượt Qua, ngài nói:
“Ôi tội hồng phúc, ngươi xứng đáng với Đấng cứu chuộc rất cao sang như vậy!”. Tội Ađam thật cần thiết vì nó đã được tẩy xóa nhờ cái chết của Chúa Kitô.
Võ Tá Hoàngchuyển ngữ
2021
Đức Tổng Giám Mục Roche: Việc cải cách Thánh Lễ của Công Đồng Vatican II là việc ‘không thể đảo ngược được’
Trong bài thuyết trình công khai đầu tiên, với tư cách là Bộ trưởng Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, Đức Tổng Giám mục Arthur Roche nói rõ về đường hướng mà Bộ sẽ thực hiện dưới sự lãnh đạo của ngài. Ngài đã thực hiện điều này bằng việc trích dẫn những lời của Đức Giáo hoàng Phanxicô, khi đề cập đến việc cải cách phụng vụ đã được Công đồng Vatican II chuẩn nhận: “Với thẩm quyền của Huấn quyền, chúng tôi có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng cải cách phụng vụ là việc không thể đảo ngược được.”
Vị tổng giám mục sinh ở Anh, người được Đức Giáo hoàng Phanxicô bổ nhiệm kế vị Hồng y Robert Sarah để làm bộ trưởng của bộ này vào ngày 27 tháng 5, đã được mời đến đọc diễn văn khai mạc cho nhân viên và sinh viên nhân dịp khai giảng năm học tại Giáo Hoàng Học Viện Thánh Anselm ở Rome. Trường đại học này được điều hành bởi các tu sĩ dòng Biển Đức, bao gồm một học viện phụng vụ nhằm huấn luyện về phụng vụ cho các thành viên của các dòng tu, cho giáo sĩ và giáo dân.
Ngài bắt đầu bài thuyết trình của mình bằng việc lưu ý nhân viên và sinh viên rằng ngài nói chuyện với họ không chỉ với tư cách là bộ trưởng Bộ Phụng tự ở Vatican, mà còn dựa vào kinh nghiệm 46 năm làm linh mục, 20 năm làm giám mục (10 năm với tư cách là giám mục giáo phận, gần 10 năm là thư ký của Bộ Phụng tự) và với tư cách là một người Công giáo đã “kinh qua thời trước và sau Công đồng Vatican II.”
Đức Tổng Giám mục nhắc nhở các sinh viên về “tầm quan trọng sống còn” của việc nghiên cứu có tính học thuật của họ “đối với sức sống và sức khỏe của Giáo hội.” Nhấn mạnh về “sức khỏe của Giáo hội,” ngài nói, bởi vì “chúng ta cần những người được chuẩn bị kỹ lưỡng và quân bình, những người yêu mến Giáo hội như Giáo hội đang là!”
Ngài kêu gọi họ “hãy trở thành những người nam và người nữ đích thực của Giáo hội, những người “có cùng cảm thức với Giáo hội” (“sentire cum ecclesia”) và không bị ảnh hưởng bởi các hệ tư tưởng mang tính giáo hội, bởi những sở thích cá nhân hay những ý tưởng mới lạ, hay bởi ước muốn nhào nặn Giáo hội theo hình dung của mình, nhưng bởi những gì Giáo hội đang mời gọi anh chị em hôm nay, đó là trở nên những nhà truyền giáo của Giáo hội trong một thời đại mới với một nhiệm vụ rõ ràng cụ thể.”
Khi nhấn mạnh đến nhu cầu Giáo hội cần có những người “được chuẩn bị tốt và quân bình,” những người có cùng cảm thức với Giáo hội, Đức Tổng Giám mục phản ánh mối quan tâm của nhiều giám mục, đó là các tân linh mục ngày nay thường thiếu “sự chuẩn bị và quân bình” trong các vấn đề phụng vụ. Họ rơi vào “các hệ tư tưởng mang tính giáo hội” hay đơn giản là tự tiện có cái nhìn về Giáo hội và thực hành phụng vụ. Những lo ngại như vậy cũng là một phần lý do dẫn đến sắc lệnh “Traditionis Custodes” ký ngày 16 tháng 07 của Đức Giáo hoàng Phanxicô, nhằm hạn chế việc cử hành Thánh lễ tiếng Latinh từ thời Công đồng Trentô, trước Vatican II.
Đức Tổng Giám mục Roche kêu gọi các sinh viên chú ý đến “lịch sử lâu dài và hấp dẫn của phong trào phụng vụ” trước Công đồng Vatican II và những lựa chọn của các nghị phụ liên quan đến phụng vụ cũng như lý do của những lựa chọn ấy.
Ngài nhắc nhở họ rằng Đức Giáo hoàng Phanxicô, trong bài phát biểu trước những người tham dự Tuần lễ Phụng vụ Quốc gia Ý lần thứ 68 vào tháng 08 năm 2017, đã nhắc lại rằng Thánh Phaolô VI đã nói với các hồng y trong một cuộc họp Cơ Mật Viện (consistory) một năm trước khi ngài qua đời: “Đã đến lúc phải dứt khoát loại bỏ các yếu tố gây chia rẽ, có hại như nhau theo cả hai nghĩa, để áp dụng trọn vẹn, theo các tiêu chuẩn đúng đắn đã gợi hứng cho cuộc cải cách được chúng tôi chấp thuận khi thể hiện những nguyện vọng của Công đồng.”
Sau đó, Đức Giáo hoàng Phanxicô nói thêm, “Vẫn còn nhiều việc phải làm theo đường hướng này, nhất là bằng cách tái khám phá những lý do đưa đến những quyết định liên quan đến việc cải cách phụng vụ, bằng cách loại bỏ những lối đọc vô căn cứ và hời hợt, lối đón nhận nửa vời và những lối thực hành làm nó bị méo mó.”
Đức Giáo hoàng kết luận: “Sau huấn quyền này, sau cuộc hành trình dài này, với thẩm quyền của Huấn quyền, chúng tôi có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng việc cải cách phụng vụ là việc không thể đảo ngược được.”
Trong bài thuyết trình của mình, Đức Tổng Giám mục Roche kêu gọi nhân viên và sinh viên tại Học Viện Thánh Anselm “hãy là những người nam và người nữ, những học giả và bậc thầy trong những nỗ lực khoa học khác nhau, đúng vậy, nhưng trên hết hãy là những môn đệ trung thành, những người xây dựng Giáo hội, chứ không phải là nguyên nhân gây ra sự phân mảnh trong Giáo hội.”
Ngài khuyến khích họ đào sâu đời sống thiêng liêng qua các nghiên cứu phụng vụ của họ, và ngài chia sẻ rằng đời sống đức tin của ngài đã trở nên phong phú hơn nhiều, nhờ 20 năm làm việc với những bản dịch của bộ Sách Lễ Rôma đã được Đức Giáo Hoàng Phaolô VI phê chuẩn. Ngài tiết lộ, qua công việc này, ngài mới nhận ra rằng “những lời cầu nguyện, những bản văn này, không chỉ là sự sáng tạo của một bộ óc tinh tế hay một ngòi bút đơn lẻ, nhưng đến từ chính bàn tay Thiên Chúa, qua di sản phong phú của Kinh Thánh và các giáo phụ mà ta gặp thấy ở đó, cùng với lời dạy sâu xa về bản chất của Giáo hội như được thấy trong Hiến Chế ‘Lumen Gentium.’”
Đức Tổng Giám mục phát biểu: “Di sản này kết nối chúng ta với đức tin của Giáo hội như được diễn tả qua các thời đại và phù hợp với thời đại lẫn sứ mạng của chúng ta.”
“Sách Lễ Rôma do Đức Giáo hoàng Phaolô VI phê chuẩn là Sách Lễ phong phú nhất mà Giáo hội từng soạn ra cùng với Bộ sách Bài Đọc (Missale Romanum Lectionarium),” Đức Tổng Giám Mục Roche đã nói với cử tọa của ngài như thế. Hơn nữa, theo ngài, “có thể nói một cách đúng đắn rằng tầm nhìn trong Hiến chế về Phụng vụ Thánh (‘Sacrosanctum Concilium,’) và trong Hiến Chế Tín lý về Mặc Khải Thánh (‘Dei Verbum’), giờ đây đã trở nên rõ ràng hơn trong lời cầu nguyện và trong ý thức của Giáo hội, nhờ sự thức tỉnh mới về Kinh Thánh trong Nghi Lễ Rôma.”
“Biết những lời cầu nguyện trong Sách Lễ là khởi đầu cho việc học cách cầu nguyện theo Kinh Thánh. Đây là một món quà quý giá dành cho Dân trung tín của Thiên Chúa, điều đó sẽ đem lại những hạt giống của canh tân,” Đức Tổng Giám mục Roche nói.
Trước Công đồng Vatican II, hầu hết tất cả các bản văn phụng vụ đều bằng tiếng Latinh. Nhưng Hiến chế phụng vụ — văn kiện công đồng đầu tiên được các nghị phụ phê chuẩn vào ngày 4 tháng 12 năm 1963 — đã thay đổi tất cả điều đó bằng cách cho phép sử dụng tiếng bản địa. Trong bài giảng của mình, từ kinh nghiệm cá nhân, Đức Tổng Giám mục Roche nhắc lại rằng tuy công việc phiên dịch có “tầm quan trọng to lớn,” nhưng nhiệm vụ này chẳng hề dễ dàng bởi vì “có nhiều lý thuyết và tranh luận” có thể dẫn đến “một cuộc bút chiến giữa những quan điểm đối nghịch và tương phản.”
“Ngay cả những người ủng hộ kém cỏi nhất cũng có ý kiến riêng, cũng có thể to tiếng và cố chấp.” Ngài hóm hỉnh gợi lại câu ngạn ngữ về việc “có thể thương lượng với những kẻ khủng bố, nhưng không thể thương lượng với những chuyên gia phụng vụ.” Ngài nói rằng bất kể những hạn chế của các bản dịch trước đây là gì, ngài cảm thấy các bản dịch mới đã được cải thiện.
Đức Tổng Giám mục Roche nhớ lại rằng khi các hội đồng giám mục của các nước Anh và Wales, Scotland và Ireland ban hành một tuyên bố về Bí tích Thánh Thể vào năm 1998, Đức Hồng Y Basil Hume, lúc đó là Tổng Giám mục của Westminster cũng là một tu sĩ dòng Biển Đức, đã viết:
“Người Công giáo tin gì về Bí tích Thánh Thể? Khi cho rước lễ, vị linh mục nói với tôi “Mình Thánh Chúa Kitô,” tôi đáp “Amen.” … Lời thưa “Amen” của tôi không chỉ bày tỏ đức tin của tôi vào thân mình Chúa Kitô là Bí tích Thánh Thể, mà còn bày tỏ đức tin của tôi vào thân mình Chúa Kitô là Hội thánh. Bí tích Thánh Thể và Giáo hội gắn bó với nhau không thể tách rời.”
Bình giải về điều này, Đức Tổng Giám mục Roche nhận xét, “Chính trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta tìm thấy mã di truyền của Giáo hội.”
Ngài lưu ý đến “hai chiều kích của phụng vụ mà chúng ta không được phép bỏ quên, vì chúng mô tả chính bản chất của Giáo hội.” Thứ nhất, chiều kích đồng đại (the synchronic dimension) như sau: “với tư cách là người Công giáo, ngay lúc này và ở đây, chúng ta được hiệp nhất với mọi người Công giáo khác trên khắp thế giới, và qua giám mục địa phương, chúng ta được hiệp nhất với Đức Giáo hoàng, người kế vị Thánh Phêrô.”
Ngài nói: “Mối liên hệ này đánh dấu và đảm bảo sự thuộc về của chúng ta; không có điều đó, chúng ta sẽ cô đơn, đứng ngoài cộng đoàn được Đức Kitô thiết lập và được xây dựng trên nền tảng Tông đồ Phêrô.”
Chiều kích thứ hai, chiều kích lịch đại (the diachronic dimension) như sau: “trong Giáo hội, chúng ta cũng được hiệp nhất với mọi tín hữu đã từng sống và tin, cũng như với mọi người Công giáo sẽ sống và tin trong tương lai.”
Tóm tắt điều này, Đức Tổng nói, “Chúng ta có thể nói về chiều kích đồng đại của phụng vụ như hợp nhất toàn thể Giáo hội trên thế giới, và về chiều kích lịch đại như chạy xuyên qua thời gian để vào vĩnh cửu.”
Đức Tổng Giám mục người Anh nhắc nhở cử tọa của ngài rằng “bất cứ khi nào chúng ta quy tụ để cử hành Bí tích Thánh Thể, chúng ta không chỉ quy tụ trong tư cách là cộng đoàn này, ở nơi cụ thể này, nhưng chúng ta đứng giữa những giao lộ của mọi sự sống, và ở ngưỡng cửa nơi thời gian giao cắt với vĩnh cửu – sự quy tụ của chúng ta lớn hơn những gì mắt thường có thể thấy. Chúng ta đang đi vào mầu nhiệm Chúa Kitô. Nhờ mầu nhiệm nhập thể và mầu nhiệm vượt qua, Đấng ấy làm cho dòng chảy hay ‘dòng trôi của thời gian’ đi vào cõi ‘vĩnh hằng đời đời,’ để được nâng lên và biến đổi.”
Nói cách khác, ngài nói, “phụng vụ là nơi hai thế giới gặp nhau.” Ngài lưu ý rằng “nhiều hiểu lầm về phụng vụ trong quá khứ và hiện tại, có thể bắt nguồn từ việc không nhận ra đặc tính này, dù lẽ ra nó phải được thể hiện rõ ràng trong toàn bộ phụng vụ Công giáo.”
Đức Tổng Giám mục Roche nói: “Việc cải cách phụng vụ như được ghi lại trong Sách Lễ Rôma đang là và vẫn còn là kim chỉ nam cho chúng ta hiểu và thực hiện một đánh giá đúng đắn về phụng vụ.”
Đức Tổng kết luận bằng cách nhắc nhở các giáo sư và sinh viên tại Học Viện Thánh Anselmo, cũng như Giáo Hội nói chung: “Chúng ta không tạo ra hoặc cải cách phụng vụ; điều đó đã được thực hiện bởi thẩm quyền cao nhất của Giáo hội rồi, đó là một Công đồng chung. Trách nhiệm của chúng ta là thực hiện cuộc cải cách đó, trung thành với những gì chúng ta đã lãnh nhận, và không ủng hộ những điều không thuộc tâm thức của Giáo hội, dù chúng được quảng bá cách rầm rộ.”
Chuyển ngữ: Tu sĩ Vinh Sơn Nguyễn Hoàng Vũ, SJ
2021
Lòng Kiên Nhẫn
Vừa khi chủ đề ‘kiên nhẫn’ được đề cập, người ta được nhắc nhớ ngay một trong các ngôn từ khai mở mà Cyprianô thành Carthagô dùng dẫn vào khảo luận ‘Lòng Kiên Nhẫn’ mười bảy thế kỷ trước.
Ngôn từ tạo nên hiệu quả những người nghe phải vốn có điều người nói cố gắng khuyên họ, cụ thể là ‘kiên nhẫn’, vì không có kiên nhẫn, diễn giả chẳng có một thính giả nào. Thực sự, nếu một người hoàn toàn bất kiên nhẫn, xét bất cứ phương diện nào, sẽ chẳng bao giờ thu hoạch được gì, vì chính hành vi thu hoạch tự nó đòi kiên nhẫn dài lâu. Do đó, một số mức độ kiên nhẫn phải được kể đến giữa những thái độ căn bản của hữu thể người, loại kiên nhẫn bắt rễ sâu trong bản tính người. Lý do là trong mức nào đó, nó phải gánh chịu chính nó. Nó vốn phải có đó để được tập trung lại. Nó vốn phải sẵn trong tay để những mức độ kiên nhẫn cao hơn được thực hiện sau đó.
Kiên nhẫn phát sinh từ nền tảng bản tính hữu thể người, cụ thể, một người vừa được phú bẩm là một tinh thần và đồng thời là một chủ thể lệ thuộc giới hạn thời gian. Những hữu thể mang bản tính vĩnh cửu chẳng cần kiên nhẫn. Họ chẳng hoàn thành cái gì hoàn hảo hơn hiện trạng của họ. Họ chẳng tìm kiếm gì hơn, vì nguyên chỉ phẩm chất vĩnh cửu họ được phú bẩm có nghĩa là bản tính của họ vốn trong tình trạng của cái tròn đầy và hoàn hảo nội tại.
Những hữu thể không mang tinh thần không cần kiên nhẫn vì ‘ý thức’ của chúng luôn giới hạn trong hiện tại, và rõ ràng, do sự kiện ấy, chúng chẳng biết gì về cái đổi thay liên tục từ quá khứ sang vị lai, đang ảnh hưởng trên chúng, ngay cả chính chúng đang không ngừng gánh chịu tiến trình phát triển và đổi thay.
Phần chúng ta, những hữu thể vừa được phú bẩm trí năng vừa tuỳ thuộc thời gian. Chúng ta mang quá khứ nơi mình, và trong năng lực nhận thức, chúng ta đã đạt tới cái còn chưa tới trong tương lai. Thực sự, một cách ý thức, chúng ta sống trải qua tiến trình đổi thay mà chính chúng ta lệ thuộc. Sự tác động lẫn nhau giữa quá khứ và tương lai giúp nắm bắt được thực tại, làm nên kinh nghiệm của chúng ta. Không chỉ chúng ta không thể lấy lại được tiến trình chuyển giao và đổi thay, mà cũng không thể giấu giếm trước bản thân nỗi bất khả thực hiện điều ấy.
Hiện hữu của chúng ta được điều khiển duy bởi quy trình liên tục của đổi thay. Chúng ta có năng lực nhìn thấy chính hiện hữu của chúng ta như một toàn thể, và nhận thức như quy luật của chính bản tính chúng ta là nó phải không ngừng áp lực đưa hiện hữu của chúng ta phát triển thêm nữa. Nhận thức và chấp nhận sự kiện đó là cái chúng ta gọi là ‘sự kiên nhẫn hiện sinh’, sự kiên nhẫn thuộc bình diện hiện sinh. Chúng ta kiên nhẫn chấp nhận sự kiện hiện sinh chúng ta tuỳ thuộc vào đổi thay như thế đó, nhưng nó duy trì tính thống nhất xuyên suốt quy trình đổi thay.
Chính sự kiện chúng ta thuộc loại hữu thể đó và không thể né tránh hiện hữu như thế, nghĩa là chúng ta mang loại bản tính đó và không thể trốn khỏi nó, là thực tại, một lần nữa, đặt chúng ta vào một bổn phận phải chu toàn, bổn phận mà chúng ta có thể không đạt, cái gì đó chúng ta phải làm cho chính mình, bằng nỗ lực can đảm và trung tín, một cách ý thức và thận trọng trung thực với bản tính của chính chúng ta nhằm hoàn thành chính nó. Đối với người được phú bẩm tự do và năng lực tinh thần, trong khi kiến tạo mình, có những yếu tố đã được ban, không thể tránh né, và không thể trốn thoát được, và đồng thời có những yếu tố khác, những yếu tố nhiệm mầu và không tiên báo được. Thực tại đó đặt người ấy vào bổn phận lấy tự do đáp lại.
Vậy mỗi cá nhân phải trong ý thức và tự do đi về đích, với phẩm tính đặc biệt trong bản tính của mình. Người ấy phải nhận biết và chấp nhận mình như một hữu thể tuỳ thuộc vào sự đổi thay liên tục và nhắm về mục đích, đồng thời được phú bẩm sự nhận thức. Người ấy phải không được giả thiết mình có thể làm gián đoạn sự đổi thay này, cũng phải không được thử đưa mình trở về giai đoạn mình đã đạt được, cũng phải không thể hấp tấp thử trước giai đoạn còn chờ người ấy trong tương lai. Nói cách khác, người ấy phải kiên nhẫn chấp nhận sự đổi thay hiện sinh mà người ấy lệ thuộc vào để đạt đúng cái mình là, và nhận thức rằng có lý hữu và có hướng tới một mục đích. Chỉ có thể nói người ấy kiên nhẫn khi trải qua sự kiên nhẫn hiện sinh chúng ta đang đề cập.
Vấn đề cần phải hiểu là: Điều một cá nhân phải nhận thức và chấp nhận, với loại kiên nhẫn căn cơ này, không đơn giản là những yếu tố nảy sinh đây đó trong đời, một cách trái ý, và xem ra đối với người ấy, là một mảng của phần số vô nghĩa, từ bên ngoài áp đặt trên người ấy… Điều người ấy phải kiên nhẫn khoan thứ và chịu đựng ở mức sâu nhất và căn cơ nhất hơn là chính mình, ‘cái chính mình’ được nhìn nhận như một người trên hành trình về một tương lai, một người không thể dừng chân và lưu lại nơi mình ở, cũng không thể giả định người ấy đang đăng trình về một điểm đến trống không, vô định, mà chẳng có điểm đến uyên nguyên nào… Nỗi bất kiên nhẫn của chúng ta vì những phiền toái hằng ngày, đơn giản là dấu chỉ sự kiện rằng ở bình diện sâu xa hơn của cuộc sống, chúng ta không thành công trong việc đạt được trong tự do đức tính kiên nhẫn hiện sinh và luyện nó thành của mình.
Có những người tìm cách bám vào hoàn cảnh của lúc này với những thú vui, những thành công, cái xem ra tự mãn, dù tất cả, xét theo bản tính của chúng, rõ ràng là nhất thời bèo bọt… Có những người không thể buông trôi cái thuộc hôm qua tới khi cái thuộc ngày mai được chứng minh là không tác hại và có sức trấn an. Có những người không thể tự do bước vào tình huống mới xem ra hóc búa hơn hay ít triển vọng, những người không thể tự tin đi vào ‘màn đêm’ hay vào cái còn dưới sự kiểm soát của người khác. Có những người hoảng sợ trước sức mạnh lặng thinh bao trùm và kiểm soát đời ta, và sức mạnh lặng thinh là Thiên Chúa, dẫu rằng chỉ một mình Người biết và định khi nào cái hiện sinh phù du này khởi sự và khi nào nó sẽ kết thúc. Tất cả tựa như những người không thể lĩnh hội được cho mình cái đức kiên nhẫn hiện sinh. Họ để lộ sự kiện họ không thể sở hữu đức tính này bằng sự bất kiên nhẫn biểu lộ trong những hoàn cảnh thường nhật, khi họ phạm khuyết điểm, gặp nỗi xót đau và cực nhọc vất vả, vốn thuộc phận người, ngay cả trong những chuyện thường nhật nhất mỗi ngày.
Giám mục Gioan Đỗ Văn Ngân chuyển ngữ
2021
Ngu dốt mới tin có Thiên Chúa?
Ngu dốt mới tin có Thiên Chúa?
Ở thời đại nầy mà còn có những người ngây ngô, kém hiểu biết phát biểu như sau:
-Điều gì mắt ta thấy mới có, không thấy không có !
-Chỉ những người ít học, ngu dốt, nghèo đói mới tin có Thiên Chúa !
-Thiên Chúa chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng, có thấy Thiên Chúa đâu mà có!.[1]
1.Thị lực lúc bình thường của mắt là 20/20, nghĩa là một vật thể ở cách xa mắt một khoảng cách 6m thì mắt vẫn có thể nhìn thấy rõ ràng[2]. Với khoảng cách đó, bạn có khả năng nhìn thấy hết mọi vật được không ? Trả lời đi. Viễn vọng kính tối tân nhất hiện nay có khả năng thấy được khoảng cách hơn 13 tỉ năm ánh sáng. Một năm ánh sáng tương đương với 9,5 nghìn tỷ km. Khoảng cách xa nhất của một hành tinh Nasa mới phát hiện cách xa trái đất nhất từ trước tới nay là 13.000 năm ánh sáng. Tiểu hành tinh nầy trong hệ mặt trời, còn vô số tiểu hành tinh trong cũng như ngoài hệ mặt trời mà khoa học chưa nhìn thấy[3]. Thế những gì con người chưa nhìn thấy, thì nó có hiện hữu trước không hay khi nào người con người nhìn thấy nó mới có? Vô số những chứng nghiệm thực tế trong đời sống chúng ta mà không cần trưng dẫn ra, cho thấy phát biểu: cái gì thấy mới có là một phát biểu quá kém! Chỉ nên có ở những người mù chữ mà thôi.
- Auguste Comte là một nhà triết học và xã hội học người Pháp[4], theo chủ nghĩa thực nghiệm. Theo ông thì cuối cùng, giai đoạn khoa học sẽ thắng thế và thay cho giai đoạn thần học cũng như siêu hình là giai đoạn phát sinh những sản phẩm tôn giáo. Khoa học sẽ loại bỏ những sản phẩm của óc tưởng tượng và của sự tha hoá. Con người dựa trên lý trí mà phê phán về mọi sự vật. Như thế, chỉ những gì thuộc phạm vi kinh nghiệm, thực nghiệm mới có thật. Do đó theo ông, con người có tôn giáo là con người sống trong giả tưởng, trong giai đoạn ấu trĩ của nhân loại, chưa biết gì về ánh sáng khoa học. Comte đã thất bại khi chủ trương như vậy, vì không phù hợp với thực tế, chính ông mới bị ảo tưởng về chủ trương của mình!
Theo thống kê năm 1992 của Giáo Hội Công giáo, năm đó số tín hữu là 950 triệu, chưa kể những giáo hội Kitô khác, trong đó: Châu Âu chiếm 80% dân số; Châu Mỹ chiếm 85% dân số; Châu Úc chiếm 80% dân số; Châu Á chiếm 7% dân số; Châu Phi chiếm 25% dân số.
Theo thống kê năm 2019, có 10 quốc gia đông tín hữu nhất thế giới: Brazil; Mexico; Philippines; Mỹ; Ý; Pháp; Colombia; Balan; Tây Ban Nha; Cộng Hoà Dân Chủ Congo.
Nhìn vào những thống kê nầy, ta có thể kết luận được theo lập luận của A.Comte là Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Úc là những châu dốt nát, nghèo nàn hơn Châu Á, Châu Phi không?
Mười nước đông tín hữu nhất thế giới có phải là những nước kém trình độ nhất không?
3.Tôn giáo và khoa học không mâu thuẫn nhau, đối kháng nhau hoặc tôn giáo không ngăn cản sự phát triển của khoa học hoặc đà tiến bộ của con người; bởi vì tôn giáo không phải là đối tượng của khoa học, nghĩa là khoa học tự bản chất không có khả năng nói rằng có hay không có Thiên Chúa. Có biết bao nhiêu điều khoa học không thể quan sát, thực nghiệm được, nhưng vẫn có thực như: tư tưởng, ý chí, ký ức… huống chi là linh hồn, là Thiên Chúa. Nó cũng cho thấy rằng tôn giáo không chỉ là của những kẻ ngu dốt, nghèo đói, nhưng là của tất cả những ai thành tâm thiện chí và được ơn trên soi sáng. Những thống kê sau đây làm chứng:
*Nhà bác học A.Eynieu đã công bố bản thông kê của ông trong cuốn “La part des croyants dans les progrès de la science”[5]: Trong số 432 nhà bác học thuộc thế kỷ 19, có 34 người không có lập trường tôn giáo, còn lại 398 người phân chia như sau: 15 dửng dưng, 16 vô thần, 367 có tín ngưỡng, tức là 92%.
*Bác học Dennert ngừơi Đức cũng công bố bản điều tra của ông về tôn giáo của 300 nhà bác học lỗi lạc thuộc bốn thế kỷ vừa qua: 38 vị không rõ quan điểm, còn lại 262 vị thì 20 vị dửng dưng hay vô thần, 242 vị tin Thiên Chúa, tức là 92%.
*Trong một công trình độc lập tại Đại Học Chicago Mỹ mới công bố, 76% các bác sĩ nói họ tin vào Chúa, và 59% tin vào sự tồn tại của thế giới bên kia[6].
4.Phát biểu của một số nhà bác học nổi tiếng về Thiên Chúa[7]:
-Nhà bác học Louis Pasteur[8]: “Càng nghiên cứu khoa học, tôi càng tin vào Thượng Đế”; “Mỉa mai cho lòng dạ con người, nếu chết là hết hoặc chết là trở về với hư vô”.
-Bác học Isaac Newton[9]: “sở dĩ các thiên thể chuyển động nhịp nhàng được là nhờ cái hích đầu tiên của Thiên Chúa”; “Tôi thấy Thiên Chúa qua viễn vọng kính”.
-Abert Einstein[10], nhà vật lý học được coi là vĩ đại nhất của thế kỷ 20, đã phát biểu: “khoa học không có tôn giáo là mù loà…”; “Tôi chưa gặp điều gì trong khoa học của tôi mà lại đi ngược với tôn giáo”.
-Giáo sư James Simpson[11], người phát minh ra phương pháp gây mê: “Phát minh quan trọng nhất của đời tôi là tìm được Chúa Cứu Thế Giêsu”.
-Bác học Michel Eugène Chevreul[12]: “Tôi không thấy Thiên Chua, vì Người thiêng liêng, nhưngtôi thấy công trình tạo dựng của Người”[13].
-Diderot[14]: “Chỉ cần con mắt và cái cánh của con bướm, cũng đủ diệt tan mọi lý lẽ của kẻ vô thần”.
-Nhà thiên văn Johannes Kepler[15]: “Thiên Chúa thật vĩ đại. Quyền năng Người vĩ đại và sự khôn ngoan thì vô hạn…”.
-Nicolaus Copernicus[16]: “Ai có thể sống cận kề với một trật tự hoàn bị nhất và trí năng siêu vượt của Thiên Chúa mà không cảm thấy dâng trào những cảm hứng cao quý?”.
-Alexandro Volta[17]: “Tôi tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho tôi đức tin nầy, nhờ đó mà tôi có một ý hướng vững chắc để sống và chết”.
-André-Marie Ampère[18]: “Thiên Chúa vĩ đại biết bao và khoa học của chúng ta chỉ là chuyện vặt vãnh”.
*Người Việt Nam cũng tin có Trời, như là Đấng làm chủ mưa nắng:
Lạy Trời mưa xuống, Lấy nước tôi uống
Lấy ruộng tôi cày, Cho đầy bát cơm
Lấy rơm đun bếp…
***
Không kể hết được những chứng nhân về Thiên Chúa trong giới bác học, nhưng thiết nghĩ chừng đó cũng đủ để kết luận được rồi. Ấy thế mà trên đời nầy lại có những kẻ học hành chẳng bao nhiêu, sống chưa từng trải, mà lại dám hiên ngang công khai đưa ra những phát biểu kém cỏi, chứng tỏ sự ngu dốt của mình, giống như một anh nông dân chưa thạo cày bừa mà lại lên lớp cho một kỹ sư cơ khí về việc sửa chữa máy móc. Thật là nực cười!
(Vinh An, mùa dịch 21)
Lm.Anphong Nguyễn Công Vinh
*Xin chia sẻ cho người khác
[1] X. Lm.Anphong Nguyễn Công Vinh, Tìm Về Sự Thật, số 2, NXB Tôn Giáo, Hà Nội 2006.
[2] https//www.vinmec.com < tin-tuc
[3] https://khoahọc.tv>phat-hien-hanh
[4] 1978-1857
[5] Số những người có đức tin góp phần trong tiến bộ khoa học.
[6] Vnexpress.net/ theo LiveScience.
[7] Nguontinhyeu.com
[8] 1882-1895, nhà sinh học, vi sinh vật học, nhà hoá học
[9] Người phát minh ra định luật hấp dẫn vũ trụ.
[10] 1879-1955.
[11] 1811-1870.
[12] 1786-1889, nhà hoá học.
[13] 1786-1889.
[14] 1713-1784,nhà văn nổi tiếng và nhà triết học.
[15] 1571-1630, môt trong những nhà thiên văn vĩ đại nhất.
[16] 1473-1543, nhà thiên văn học và là người xướng xuất thuyết nhật tâm.
[17] 1745-1827, người khám phá ra các ý niệm cơ bản về điện.
[18] 1775-1836, nhà vật lý phát mình ra điện từ trường.