2021
Tâm sự với người đã khuất…
Tâm sự với người đã khuất…
Sau khi chiếc quan tài của bạn lạnh lùng được hạ sâu xuống lòng đất xong, mọi người ra về mà lòng không khỏi bùi ngùi, xót xa và thương tiếc. Bởi đó là cuộc chia tay vĩnh viễn, để không bao giờ có thể nhìn thấy bạn nữa!…
Chúng tôi không thể hiểu được tại sao ngày hôm trước mới gặp nhau nhưng rồi ngày hôm sau bạn đã âm thầm lặng lẽ ra đi. Hình ảnh đau xót nhất có lẽ là khi chúng tôi phải chứng kiến cảnh tượng bạn nằm đó mà nghìn trùng xa cách…
Xưa nay mọi người vẫn thường tự hỏi “Không lẽ kiếp người lại bi đát đến thế sao?”. Vâng, sự ra đi của bạn hiển nhiên là một quy luật bất di bất dịch của kiếp nhân sinh. “Sinh, bệnh, lão, tử”.
Nhưng hôm nay chính sự ra đi của bạn đã phục sinh tâm trạng và ý nghĩ của chúng tôi – những người đang còn “lang thang cõi trần” – về số phận của mình.
Bạn ra đi nhưng bạn vẫn còn đó. Chúng tôi tin như thế. Bạn nhắm mắt xuôi tay nhưng đó không phải là sự khép lại của cuộc sống, mà chính là sự chấm dứt của hữu hạn để mở ra vô hạn. Cái chết được nhìn nhận như một bản lề của cuộc sống. Sự im lặng của bạn chính là sự thăng hoa đã đạt đến tột đỉnh. Bạn đã về nhà Cha, ở chốn cao hơn, xa hơn…
Chúng tôi chạnh lòng nghĩ đến một nghịch lý này, đó là trong khi chúng tôi đang than khóc, tiếc nuối cho bạn thì bạn lại đang thương xót cho chúng tôi. “Sinh ký tử quy”, bạn đã đến được chỗ phải đến, đã kết thúc cuộc hành trình “Một cõi đi về”. Ngày hôm nay, sở dĩ bạn im lặng là vì cuộc sống và con người của bạn đã biến đổi. Bạn đã vượt qua không gian và thời gian để đi vào thực tại mênh mông diệu vợi của vĩnh cửu, của vô tận.
Bạn đang cao hơn, xa hơn…là chúng tôi tưởng!
Chính vì bạn cao hơn, xa hơn, kỳ diệu hơn nên chúng ta không thể “nói với nhau” bằng những cách thông thường. Nhưng bạn vẫn có “tín hiệu” đấy chứ? Trong im lặng thẳm sâu của lòng mình, chúng tôi đã nghe được “tín hiệu” của bạn. Bạn không còn sử dụng những hoạt động bình thường như nói, nghe, suy nghĩ, cười, khóc…nữa mà duy nhất giữa chúng ta hiện hữu một sự “giao cảm” đặc biệt. Đó cũng là một sự thông hiệp kỳ diệu, gần gũi và sâu xa vô cùng.
Trong sự thông hiệp này, điều cần thiết và quan trọng là chúng tôi không “nói” gì mà trái lại cần “nghe” bạn nhiều hơn. Lý do chính là vì bạn đã quá hiểu cuộc sống này rồi. Phần chúng tôi, chúng tôi hoàn toàn chưa có một chút kinh nghiệm nào về cuộc-sống-sau–cái-chết cả!
Bởi vậy, bắt được “tín hiệu” của bạn để “nghe” bạn “nói”, quả thực, là một điều hấp dẫn và thú vị vô cùng. Vì bạn là một Kitô hữu đích thực nên chúng tôi tin rằng bạn đang hiện hữu và hiện diện như Đức Kitô, bởi vì bạn đã ở trong Ngài, đã thuộc về Ngài. Mà Đức Kitô thì hằng sống. Vậy bạn cũng đang sống, đang hoạt động với Ngài, nhờ Ngài và trong Ngài.
Thông điệp của bạn không gì khác hơn là sứ điệp của Đấng Phục Sinh và của Thiên Chúa.
Bạn sẽ nhắc bảo chúng tôi rằng: “Về Thiên Chúa chỉ có một điều cần và đủ để nói, đó là YÊU THƯƠNG”. Bí mật của Thiên Chúa mà bạn muốn thông chia cho chúng tôi cũng là lời mạc khải của thánh Gio-an: “Thiên Chúa là Tình Yêu”(1Ga 4, 16).
Thật là đơn giản nhưng chắc chắn bạn đang hạnh phúc tràn đầy với “thực tại đơn giản” ấy. Hiện tại, chúng tôi chỉ có thể chạm vào sự thật đơn giản ấy bằng lòng tin yêu và hy vọng, còn bạn, bạn đã “sở hữu” được rồi. Thiên Chúa như thế nào, bạn đã “xem thấy” như vậy.
Đôi lúc, vì còn trong thân xác, nên chúng tôi không hiểu rằng sở dĩ bạn “im lặng”, có khi đến lạnh lùng, chỉ vì bạn đã ở trong cõi vĩnh hằng của Thiên Chúa. Bạn vô hạn còn chúng tôi hữu hạn. Bạn tuyệt đối còn chúng tôi tương đối. Bạn bất tử còn chúng tôi đang hành trình vượt qua.
Hiện tại, khoảng cách giữa bạn và chúng tôi, xa mà gần, gần mà xa. Nhưng có một điều chắc chắn là bạn đang hút chúng tôi về với bạn. Bởi vì bạn muốn chúng tôi cùng chia sẻ hạnh phúc vĩnh cửu với bạn. “Phúc cho những ai đã chết, mà chết trong Chúa” (Kh 14,13) ./.
Aug. Trần Cao Khải
2021
Bổn phận của người còn sống
Bổn phận của người còn sống
Hàng năm, giáo hội dành riêng tháng 11 để cầu nguyện cho các đẳng Linh hồn, là những người đã qua đời trong ân nghĩa của Thiên Chúa, nhưng hiện nay vẫn đang phải chịu giam giữ nơi luyện ngục, vì những thiếu xót mà họ làm chưa tốt khi còn sống nơi trần gian.
Bây giờ, người đã qua đời không còn tự mình lập công được nữa nên chỉ trông mong vào lời cầu nguyện của những người còn sống. Vì thế, cầu nguyện cho các linh hồn không chỉ là một việc làm bác ái mà còn là một bổn phận của chúng ta, những người còn đang sống nơi trần thế này, như thánh Gioan Vianey nhắc nhở “Mọi tín hữu phải cầu nguyện thật nhiều cho các linh hồn nơi luyện ngục, để các linh hồn mau về hưởng hạnh phúc trên nước Thiên đàng”.
Ý thức được bổn phận của người còn sống đối những người đã khuất, nên các cha xứ đã mời gọi người giáo dân, ngoài việc trang trí phần mộ cho người thân nơi đất thánh, còn kêu gọi họ tham dự thánh lễ hàng ngày trong tháng 11 để cấu nguyện cho người thân đã qua đời. Cầu nguyện cho các linh hồn trong Luyện hình cũng là dịp để chúng ta nhớ đến thân phận của mình. Mai sau, khi đến lượt chúng ta nhắm mắt lìa đời, chúng ta cũng sẽ vào Luyện Hình để chịu sự thanh luyện của Thiên Chúa. Do vậy mỗi khi cầu nguyện cho các linh hồn, chúng ta được mời gọi sống tốt và sống thánh thiện hơn trong cuộc sống hiện tại của người Kitô hữu, hầu sau này khi chết, chúng ta cũng sẽ được hưởng hạnh phúc Thiên Đàng với Chúa..
Không chỉ kêu gọi giáo dân cầu nguyện cho các linh hồn, các cha xứ còn khuyến khích và tập cho thế hệ trẻ trong giáo xứ có lòng thảo kính đối với những người đã qua đời, làm những việc hy sinh để cầu nguyện cho các ngài. Khi thánh lễ được tổ chức tại đất thánh, giới trẻ được phân công làm công tác chuẩn bị cho thánh lễ như dọn nghĩa trang, bàn thờ, phụng vụ thánh lễ, âm thanh, ánh sáng… là để nhắc nhở họ có bổn phận hy sinh làm công việc này vì các linh hồn. Sự hy sinh kết hợp với thánh lễ và lời cầu nguyện thì chắc chắn linh hồn những người thân của chúng ta sẽ sớm được hưởng nhan thánh Chúa.
Ngoài ra, Cha xứ còn tập cho các em thiếu nhi có lòng hiếu thảo với những người đã qua đời, như hướng dẫn các em xưng tội, tham dự thánh lễ, rước lễ mỗi ngày và làm việc ân xá để cầu nguyện cho các linh hồn, đồng thời khuyến khích các em trong tháng cầu hồn biết siêng đọc kinh mân côi và viếng đất thánh sau thánh lễ hoặc sau lớp học giáo lý để cầu nguyện cho các linh hồn người đã khuất được cứu thoát khỏi luyện ngục.
Ở gia đình, cha mẹ cũng có bổn phận nhắc nhở con cái phải có lòng thảo kính với Ông bà tổ tiên, ngoài việc đọc kinh, viếng nghĩa trang, dâng thánh lề cầu nguyện cho linh hồn người thân, còn khuyên họ luôn nhớ xin lễ cầu nguyện cho các linh hồn có thể hàng tuần, hàng tháng hay một năm mấy lần tùy theo khả năng. Khi chúng ta cho ai điều gì đó là lúc chúng ta cũng được nhận lại, vì mọi thứ sẽ không mất đi. Cũng vậy, khi chúng ta cầu nguyện cho các đẳng linh hồn,thì các ngài nơi luyện ngục luôn nhớ tới những người nơi trần thế và hằng cầu bầu trước mặt Chúa cho chúng ta.
Thực vậy, khi cầu nguyện cho các đằng linh hồn không những giúp các ngài mau hưởng hạnh phúc Thiên Đàng mà chúng ta còn được thêm ơn ích nữa. Đó là chúng ta sẽ có tương quan gần gũi với Thiên Chúa, cảm nhận được tình thương của Chúa, để từ đó chúng ta biết sống yêu thương, biết quan tâm nghĩ đến người khác, biết sống quảng đại tha thứ và không ích kỷ. Đặc biệt chúng ta sẽ cảm nhận những gì chúng ta đang làm nơi trần thế này sẽ được Chúa chúc phúc để sinh ich cho người còn sống cũng như người đã qua đời.
Sr. Nguyễn, op
2021
Được phép buồn
Hãy để cho người rao giảng nói, bạn được phép buồn!
Trong quyển sách Khi người pha rượu vặn nhỏ đèn (When the Bartender Dims the Lights), Ron Evans đã viết:
“Tôi tình cờ gặp được câu này trong suy tư của một mục sư: Vào một sáng chúa nhật, nhiều người ngồi trước mặt bạn là những người đầy tổn thương, và bạn phải cho họ được quyền buồn. Trong một thế giới bị ám ảnh bởi hạnh phúc, khi mà sự tuyệt vời là tất cả, hãy để người rao giảng nói: bạn được phép buồn. Trong một thế giới mà tuổi già trở thành những năm tháng vàng son, nơi mọi vấn đề đều có thể được khắc phục và mọi bệnh tật đều được chữa lành, hãy nghe lời người rao giảng: bạn được phép buồn. Trong một thế giới quá bận tâm về tuổi thọ, nơi mà cái chết là từ cấm kỵ, bạn hãy nghe người rao giảng nói: bạn được phép buồn. Và hãy để người rao giảng nói: bạn được phép sống trong ký ức của người đơn độc”.
Ngày nay, cả nền văn hóa lẫn các giáo hội của chúng ta đều không cho chúng ta đủ quyền để buồn. Nhiều lúc, khi một người thân thương qua đời hoặc khi một thảm kịch xảy đến, chúng ta được phép buồn, được phép trầm lắng, rơi lệ, thay vì vui vẻ yêu đời. Nhưng có quá nhiều dịp và hoàn cảnh trong cuộc đời chúng ta mà linh hồn chúng ta hoàn toàn được phép buồn, thế nhưng nền văn hóa, giáo hội và cái tôi của chúng ta lại không để cho chúng ta được phép cảm nhận cảm xúc thật sự của mình – của nỗi buồn. Khi trường hợp đó xảy ra, và thường là như thế, chúng ta có thể phủ nhận cảm xúc của mình và chuyển sang vui vẻ yêu đời, hoặc chúng ta có thể nhường chỗ cho nỗi buồn, nhưng với cái giá phải trả là thấy có gì đó không ổn, chúng ta không nên cảm nhận theo cách này. Cả hai cách đều không tốt.
Nỗi buồn là một phần không thể tránh khỏi trong cuộc sống, và tự nó không phải là một điều tiêu cực. Trong nỗi buồn, có tiếng khóc mà chúng ta thường bịt tai không nghe. Trong nỗi buồn, tâm hồn chúng ta có cơ hội để nói và tiếng nói của nó nói với chúng ta rằng, nỗi thất vọng, mất mát, cái chết, sự bất xứng, sai lầm về đạo đức, hoặc một hoàn cảnh cụ thể nào đó của cuộc đời chúng ta là những thứ rất thật, cay đắng và không thể nào thay đổi được. Chúng ta có một cách là chấp nhận, kèm theo cái giá là nỗi buồn. Khi tiếng nói đó không được lắng nghe, thì sự lành mạnh và tỉnh táo của chúng ta bị kìm kẹp.
Ví dụ như, trong quyển sách đầy thách thức, “Tự tử và Linh hồn” (Suicide and the Soul), tác giả James Hillman đã nói, đôi lúc trong chuyện tự tử, tâm hồn đó quá chán nản và tổn thương đến nỗi giết luôn thể xác. Vì nhiều lý do quá phức tạp và khó để nhiều người biết được, tâm hồn đó không thể làm cho người khác lắng nghe mình và không bao giờ được phép cảm nhận cái nó thật sự đang cảm nhận. Và đến mức cực độ, chuyện này có thể giết chết thân xác.
Chúng ta thấy chuyện này trong một hiện tượng ít cực độ hơn, là chứng tình trạng biếng ăn của các cô gái trẻ. Có một áp lực không thể cưỡng lại từ nền văn hóa (thường đi đôi với sự bắt nạt có thật trên mạng xã hội) thúc đẩy chúng ta phải có cơ thể hoàn hảo. Đáng buồn là, đâu dễ để có cơ thể hoàn hảo. Do đó, các cô gái này cần được phép chấp nhận những giới hạn của cơ thể mình và chấp nhận với nỗi buồn đi kèm với chuyện này. Đáng buồn là, chuyện chẳng như thế, hoặc ít nhất là gần như không thể như thế, cho nên thay vì chấp nhận nỗi buồn vì không có cơ thể như mong muốn, các cô gái trẻ này lại bị thúc ép phải cố gắng làm cho bằng được với bất kỳ giá nào. Chúng ta đã thấy những tác hại đáng buồn của nó.
Các nhà tâm lý trị liệu, những người làm việc với khách hàng về giấc mơ, họ nói khi chúng ta gặp ác mộng, thường là vì linh hồn đang giận dữ với chúng ta. Vì ban ngày linh hồn không được chúng ta lắng nghe, nên khi đêm đến, lúc chúng ta không thể nào kìm nén được nữa, linh hồn bắt chúng ta phải lắng nghe nó.
Có nhiều lý do chính đáng để buồn. Một số người trong chúng ta sinh ra đã có “tâm hồn già nua”, những nhà thơ quá nhạy cảm với những tình tiết cảm động trong cuộc sống. Có người có sức khỏe thể chất kém, có người lại có sức khỏe tâm thần kém. Có người chưa hề được yêu thương và tôn trọng đủ, có người đã tan nát tâm hồn vì bị phụ bạc, vì bị không chung tình. Có người bị tan nát cuộc đời vì từng bị lạm dụng, cưỡng hiếp, bạo hành, có người đơn giản là vô vọng, mong muốn trong bất lực với những ước mơ bị vùi dập, cứ mãi hoài niệm trong đau khổ. Hơn nữa, tất cả chúng ta dù ít hay nhiều, đều có người thân yêu đã ra đi, đã từng suy sụp đủ kiểu, đã nếm những giai đoạn u sầu. Có vô số lý do chính đáng để buồn.
Và điều này cần được đề cao trong Phép Thánh Thể và các buổi họp trong nhà thờ. Nhà thờ không phải chỉ là nơi mừng các lễ lạc. Mà còn là nơi an toàn để chúng ta có thể tuôn trào cảm xúc. Phụng vụ cũng phải cho chúng ta quyền được buồn.
Nhà văn D.H. Lawrence từng viết những câu trứ danh:
Cảm xúc tôi không có thì tôi không có.
Cảm xúc tôi không có, tôi sẽ không nói rằng tôi có.
Cảm xúc bạn nói mình có, bạn không có.
Cảm xúc bạn muốn cả hai chúng ta đều có, thì chỉ một trong hai có mà thôi.
Chúng ta cần sống thật với linh hồn bằng cách chân thực với cảm xúc của nó.
J.B. Thái Hòa dịch
2021
“Nghệ thuật chết lành” theo Đức Bênêđictô XVI
“Nghệ thuật chết lành” theo Đức Bênêđictô XVI
Đức Bênêđictô XVI, 94 tuổi, sống mỗi ngày trong “niềm vui sống.”
Đức Bênêđictô XVI có vội chết không? Trong bài báo do tu viện Áo Wilheringen đăng, Đức Bênêđictô XVI giải thích ngài xúc động mạnh sau cái chết của cha Winkler, người bạn đã gieo vào lòng ngài cảm nhận của một người có “đức tin sâu đậm và tinh thần vui vẻ.” Bây giờ bạn tôi đã sang thế giới bên kia, nơi tôi tin chắc có nhiều bạn bè đang chờ anh. Tôi hy vọng tôi có thể gặp họ sớm.”
Khi được nhật báo Đức Bild hỏi về lời của Đức Bênêđictô XVI, giám mục Georg Gänswein, thư ký riêng của ngài phủ nhận tin loan nói Đức Bênêđictô XVI mệt mỏi, nhưng ngược lại là đàng khác. Ngài nói tiếp: “Nghệ thuật chết lành có trong đời sống kitô, từ nhiều năm nay ngài đã sống trong tinh thần này, ngài vui sống. Sức khỏe của ngài ổn định, đầu óc sáng suốt và ngài có óc khôi hài tiêu biểu của người miền Bavaria. Bức thư ngài chia buồn với gia đình giáo xứ của cha Winkler xuất phát từ trái tim, nhưng không có nghĩa là ngài “không thiết sống. Ngược lại là đàng khác.”
Chúng ta phải chấp nhận sự hữu hạn của đời này, nhận rằng chúng ta đang đến gần thời điểm chúng ta sẽ hiện diện trước mặt Thiên Chúa.
Trong quyển sách Những cuộc trò chuyện cuối cùng, xuất bản năm 2016 (Fayard) do nhà báo người Đức Peter Seewald phỏng vấn ngài từ năm 2012 đến năm 2016, nhà báo giải thích ngài đã chuẩn bị chết. “Tôi không muốn nói phải có những hành vi cụ thể phải làm, nhưng trong nội tâm mình phải sống, biết rằng mình phải ‘thành công vượt qua bài kiểm cuối cùng’ của Chúa. Chúng ta rời khỏi trần gian này thấy mình trước mặt Chúa, trước mặt bạn bè và cả những người không phải bạn bè. Rằng chúng ta phải chấp nhận sự hữu hạn của cuộc đời, nhận rằng chúng ta đang đến gần thời điểm mà chúng ta hiện diện trước mặt Thiên Chúa.”
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch