2021
Cẩn thận với các vòng nối kết nội tâm của chúng ta
Cẩn thận với các vòng nối kết nội tâm của chúng ta
“Không ai là một hòn đảo”. Nhà thơ người Anh John Donne đã viết câu bất hủ này cách đây bốn thế kỷ, và bây giờ câu này vẫn còn đúng, trừ khi chúng ta không còn tin như thế nữa.
Ngày nay, chúng ta ngày càng xác định gia đình hạt nhân và nhóm bạn hữu thân thuộc mà chúng ta đã tuyển chọn kỹ càng là hòn đảo tự đủ cho mình, và ngày càng kén chọn để không ai được phép bước vào hòn đảo đó, vào nhóm bằng hữu đó, nhóm những người mà chúng ta xem là đáng tôn trọng. Chúng ta xác định và bảo vệ những hòn đảo riêng của mình bằng một ý thức hệ, bằng quan điểm chính trị, quan điểm luân lý, quan điểm về giới tính và tôn giáo nhất định nào đó. Bất kỳ ai không cùng quan điểm với chúng ta thì không được hoan nghênh, không xứng đáng để chúng ta tôn trọng và dành thì giờ cho họ.
Hơn nữa, truyền thông đương thời còn góp phần cho chuyện này. Ngoài hàng trăm kênh truyền hình mà mỗi kênh đều có chương trình kế hoạch riêng, chúng ta còn có mạng xã hội để chúng ta tìm được những quan điểm ý thức hệ, chính trị, luân lý và tôn giáo vốn vun đắp, bảo vệ và cô lập hòn đảo của mình, biến nhóm hạt nhân nhỏ của chúng ta thành một thứ tự đủ, riêng biệt và bất khoan nhượng. Lại thêm chúng ta còn có những công cụ để rảo khắp mạng lưới truyền thông cho đến khi tìm được chính xác “sự thật” mà chúng ta thích. Chúng ta đã xa rồi thời ngày xưa khi có những nhà báo như nhà báo Mỹ Walter Cronkite, ông có thể đưa ra một sự thật mà ai cũng có thể tin.
Tác động của chuyện này xảy ra khắp nơi, không chỉ trong sự phân cực cay đắng ngày càng tăng mà chúng ta đang thấy rõ trong mọi vấn đề chính trị, luân lý, kinh tế và tôn giáo của thế giới. Ngày nay, chúng ta thấy mình đang sống trên những hòn đảo biệt lập, không cởi mở lắng nghe, tôn trọng hay đối thoại với bất kỳ ai không cùng quan điểm với mình. Bất kỳ ai bất đồng với tôi thì chẳng đáng để tôi dành thời gian, chẳng đáng để tôi lắng nghe, tôn trọng. Chuyện này dường như đang là thái độ phổ biến thời nay.
Và nó có trong những hình thức hung hãn của Văn hóa Tẩy chay, trong chủ nghĩa dân tộc ngày càng hướng nội và cứng rắn ở nhiều quốc gia. Những gì xa lạ thì không được hoan nghênh, đơn giản vậy thôi. Chúng ta không còn đối diện với bất kỳ thứ gì thách thức đặc nét của mình nữa.
Có cái gì không ổn ở đâu? Gần như tất cả đều không ổn. Dù chúng ta nhìn chuyện này từ quan điểm Kinh Thánh và kitô giáo hay từ quan điểm sức khỏe và sự chính chắn của con người, thì nó đều sai trái.
Về mặt Kinh Thánh thì quá rõ ràng rồi. Thiên Chúa đi vào đời chúng ta qua nhiều con đường quan trọng, chủ yếu là qua “người lạ”, qua những gì xa lạ, qua những gì khác với chúng ta, và qua những gì làm cho tư tưởng của chúng ta rối bời, đập tan những kỳ vọng theo tính toán của chúng ta. Sự mặc khải thường đến một cách đầy ngạc nhiên, dưới những hình thức làm cho tư tưởng của ta đảo lộn tất cả. Như sự nhập thể chẳng hạn. Trong nhiều thế kỷ, người ta tìm kiếm Đấng Thiên sai, Thiên Chúa trong xác phàm, Đấng đè bẹp và hạ nhục mọi kẻ địch và ban vinh quang và danh dự cho những ai trung tín cầu nguyện mong ngóng Ngài. Họ cầu nguyện và trông đợi một siêu nhân, nhưng cuối cùng là thế nào? Một đứa bé yếu đuối nằm trong máng cỏ. Mặc khải làm việc như thế. Chính vì vậy mà thánh Phaolô dạy chúng ta hãy luôn chào đón khách lạ vì đó có thể là một thiên thần hóa trang.
Tôi chắc chắn rằng, trong cuộc sống, tất cả chúng ta đều có trải nghiệm được gặp một thiên thần trong hình hài người lạ mà chúng ta tiếp đón với phần nào e dè và sợ hãi. Tôi biết trong đời tôi, đã có nhiều lúc tôi chẳng muốn chào đón một người nào đó hay một chuyện nào đó đến với mình. Tôi sống trong dòng tu, nơi chúng ta đâu được lựa ai sẽ là người sống với mình. Bạn được chỉ định vào “gia đình ruột” của mình, và (trừ vài trường hợp ngoại lệ do thể chất hạn chế) bề trên không xem tâm trạng tương đồng là tiêu chuẩn để chỉ định người cùng sống chung với nhau trong cộng đoàn. Và không hiếm khi tôi sống trong những cộng đoàn có những người mà nếu được chọn thì tôi đã hẳn không chọn họ làm bạn bè, đồng nghiệp, người láng giềng hay người thân của mình. Ngạc nhiên thay, thường thì những người tôi chẳng ưu tiên chọn nhất lại là những người mang ân sủng và làm cuộc đời tôi biến đổi.
Hơn nữa, chuyện này cũng đúng trong cuộc sống nói chung của tôi. Tôi thường thấy mình được thêm ân phúc nhờ những người ban đầu ít có khả năng được tôi chào đón nhất. Thú thật, chuyện này không phải lúc nào cũng êm đẹp. Những gì xa lạ, những gì khác mình, có thể gây buồn bực và đau khổ trong một thời gian dài trước khi chúng ta nhận ra được ân sủng và mặc khải.
Nhưng đó luôn là thách thức cho chúng ta, nhất là thời nay khi nhiều người trong chúng ta rút vào trong những hòn đảo riêng, xem đó là chính chắn, rồi biện luận nó bằng một đức tin sai lầm, lòng ái quốc sai lầm và ý tưởng sai lầm về sự chính chắn. Làm như thế vừa sai trái vừa nguy hiểm. DDấn thân vào những gì khác lạ sẽ đem lại thăng tiến cho bản thân chúng ta. Thiên Chúa ở trong người lạ, và mỗi khi chúng ta không để người lạ vào cuộc sống mình là chúng ta đang tự tách mình khỏi con đường ân phúc chủ yếu.
J.B. Thái Hòa dịch
2021
Đức Hồng y Dolan: Nhân quyền bắt đầu từ lòng mẹ
Đức Hồng y Dolan: Nhân quyền bắt đầu từ lòng mẹ
Đức Hồng y Timothy Dolan, Tổng giám mục giáo phận New York, Hoa Kỳ, tuyên bố rằng bước đầu tiên để chấm dứt mọi hình thức bạo lực trong xã hội – dù nó liên hệ tới các tội ác, kỳ thị chủng tộc, hay nghèo đói – là chấm dứt bạo lực phá thai.
Đức Hồng y Timothy Dolan. Ảnh: CNS photo/Gregory A. Shemitz
Trong bài đăng trên tuần báo “Công giáo New York”, số ra ngày 20/10/2021 vừa qua, Đức Hồng y Timothy viết: “Tôi thấy rằng bạo lực sẽ không chấm dứt bao lâu chúng ta chưa ngưng sự cho phép cực đoan phá thai và coi đây là điều bất khả xâm phạm, dường như đang thu hút một phần trong xã hội chúng ta”.
“Như Mẹ Têrêsa đã viết: “Chúng ta không nên ngạc nhiên khi chúng ta nghe nói về những vụ giết người, tàn sát, chiến tranh, oán ghét. Nếu một người mẹ có thể giết con của mình, thì chúng ta còn lại điều gì ngoài việc giết nhau?” Trong một xã hội bị chia rẽ về chính trị và văn hóa, một điều dường như liên kết mọi phe, đó là lo âu vì thế giới chúng ta đã đánh mất sự tôn trọng cơ bản đối với sự sống”.
Đức Hồng y Dolan trưng dẫn nhiều thí dụ mạnh mẽ về cách đối xử đáng tiếc đối với sự sống con người, trong đó có số phận của hàng triệu người tị nạn và di dân, những cảnh tượng kinh khủng về sự rút quân gần đây của Mỹ khỏi Afghanistan; sự coi thường một số sinh mạng trong thời đại dịch Covid-19; tội phạm bạo lực, trong đó có vụ giết ông George Floyd (người da đen); sự gia tăng số người tự tử, nhất là nơi những người trẻ; và tệ nạn thường xảy ra ở nhiều nơi, dùng súng bắn giết nhiều người.
Đức Hồng y Tổng giám mục New York viết: “Những ví dụ này chứng tỏ “sự sống con người bây giờ bị coi như vô dụng, không giá trị và tùy nghi người ta sử dụng.” Đức Hồng y lý luận rằng luật cho phép giết và cắt chặt những thai nhi vô tội trong lòng mẹ, nói lên một sứ điệp mạnh mẽ chống sự sống, đe dọa mỗi người. “Chúng ta hãy nghĩ xem: nếu một sự sống mong manh của một hài nhi vô tội ở trong lòng mẹ – mà thiên nhiên bảo vệ như nơi an toàn nhất – có thể bị loại trừ như vậy, thì ai được an toàn?… Nếu những tiện lợi, “những chọn lựa” hoặc “các quyền của tôi” có thể lấn át sự sống của một hài nhi trong lòng mẹ, thì có sự sống con người nào không bị đe dọa?… Khi luật pháp cho phép một sự sống dễ bị tổn thương bị phá hủy, buộc các nhân viên y tế phải thi hành điều đó trái ngược với lương tâm của họ, và yêu cầu dùng tiền thuế của chúng ta để tài trợ việc phá thai ấy, thì sứ điệp nào chúng ta đang phổ biến về phẩm giá con người và sự thánh thiêng của sự sống?”
Đức Hồng y Dolan nói đến nhận xét của Thượng Nghị sĩ Robert Kennedy theo đó, “mức độ sức khỏe và luân lý của xã hội được đo lường theo cách thức chúng ta bảo vệ những người yếu thế và dễ bị tổn thương nhất. Vậy ai mong manh và vô phương thế tự vệ cho bằng hài nhi bé bỏng trong lòng mẹ?” “Hút đứa bé đó ra khỏi lòng mẹ, cắt chặt nó, hoặc đánh thuốc độc cho nó, – như Đức Giáo hoàng Phanxicô mô tả-, giống như một kẻ giết mướn ám sát một nạn nhân”.
Sau cùng, Đức Hồng y Dolan kêu gọi mọi người nam nữ, dù có tín ngưỡng hay không, hãy lên tiếng bênh vực những thai nhi không có khả năng tự vệ, và tố giác cái gọi là “quyền phá thai” là “vô nhân đạo, là bạo lực và trái ngược với các quyền con người”.
(CNA 23-10-2021)
- Trần Đức Anh, O.P. | RVA
2021
Nếu ngày ấy Đức Mẹ nói KHÔNG thì sao?
“Mẹ hoàn toàn tự do để nói không. Nếu Chúa ép buộc Mẹ thì đó không phải là tình yêu. Nhưng Thiên Chúa biết chọn lựa và Ngài đã chọn Đức Maria”.
Henry Ossawa Tanner
Cha Zezinho đã viết suy tư của mình trên mạng xã hội để trả lời cho những người đặt vấn đề với ngài về điều gì sẽ xảy ra nếu Đức Maria nói “KHÔNG” với Chúa.
Đây là những gì vị linh mục đã khẳng định quanh giả thuyết rằng Đức Mẹ có thể dùng tự do của mình để từ chối lời kêu mời của Thiên Chúa là trở thành Mẹ của Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người: “Họ đã hỏi và tôi trả lời. Nếu bất kỳ ai trong chúng ta nói “KHÔNG”, thì Thiên Chúa tối cao sẽ mời gọi một người khác”.
“Người đã đặt giả thuyết về lời thưa “KHÔNG” của Đức Maria đã kết luận rằng Chúa Giêsu vì vậy mà không nhập thể. Tôi đã chỉnh sửa lại tư tưởng của người đó. Đó làm một sai lầm khi nghĩ rằng sự nhập thể phụ thuộc vào Đức Maria. Đấng Cứu Thế sẽ được sinh ra bởi một người nữ khác. Thiên Chúa có quyền làm điều này. Hay bạn nghĩ rằng Chúa không có quyền đó?”
Nếu Maria nói KHÔNG thì sao?
“Tuy nhiên, sự thật là Đức Maria đã thưa VÂNG, kết thúc mọi cuộc thảo luận. Mặc dù vậy, việc nhập thể tùy thuộc vào ý muốn tối cao của Thiên Chúa duy nhất và Ba Ngôi. Người Con Hằng Hữu đã thưa VÂNG để thực thi ý muốn của Cha. Và Ngài đã trở thành Con của loài người.
Lời thưa VÂNG của Đức Maria thì vô điều kiện. Mẹ đã tự xưng mình là nữ tỳ của Thiên Chúa. Với Mẹ, Thiên Chúa có thể thực hiện những gì Ngài muốn, và Mẹ đã nói chính xác về điều này. Mẹ không thưa KHÔNG trước mặt Thiên Chúa dẫu cho Mẹ hoàn toàn có tự do để làm điều đó. Mẹ có tự do để nói tiếng KHÔNG! Và nếu Thiên Chúa đã ép buộc Mẹ thì đó không phải là tình yêu, và Thiên Chúa là tình yêu! Nghĩa là Đức Mẹ sẽ không được phép chọn lựa.
Nhưng Chúa biết cách lựa chọn! Và Ngài đã chọn Đức Maria.
Mẹ Maria đã chọn lời thưa VÂNG bởi vì Mẹ hiểu được giáo huấn của các tiên tri thời đại. Vì vậy nên Mẹ đã nói, theo những gì thánh sử Luca đã viết, “Xin cứ thực hiện cho tôi theo lời của ngài” (Lc 1, 38).
- Võ Tá Hoàngchuyển ngữ
2021
Tu sĩ và quê hương
Mỗi người chúng ta đều có một quê hương, nơi sinh ra và lớn lên. Khi trưởng thành, mỗi người chọn cho mình một nơi để sống và làm việc. Chắc chắn rằng quê hương ở trong ký ức mỗi người, nhưng vì cơm áo hay học tập mà chúng ta phải xa nhà, xa gia đình. Sau khi Sài Gòn gỡ bỏ lệnh giãn cách, mọi người ùn ùn kéo nhau về quê. Cũng có những người chỉ về khi có ba mẹ qua đời. Họ hy sinh tuổi thanh xuân của mình trong các Đan Viện kín. Đó là những người đã đáp trả lời mời gọi của Chúa sống đời dâng hiến hay những tu sĩ đang dấn thân truyền giáo ở khắp nơi trên thế giới theo lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng” (Mc 16, 9-18).
Trong cuộc sống xa quê, môi trường khác văn hóa, khi gặp khó khăn các tu sĩ cũng cần sự an ủi, đỡ nâng. Một trong những nguồn an ủi lớn lao của họ là sự gắn kết với quê hương và gia đình. Quê hương là một phần máu thịt của mỗi người. Dù dấn thân phục vụ ở một đất nước xa xôi, các tu sĩ vẫn luôn mang trong mình hơi thở của quê hương. Ai nói mình đã hoàn toàn từ bỏ quê hương thì e rằng họ đang dối lòng. Thời buổi công nghệ 4.0 phát triển giúp con người kết nối với nhau dễ dàng hơn trước. Nếu như các nhà truyền giáo thời xưa muốn gửi thư về gia đình phải mất mấy tháng đường biển thì bây giờ người tu sĩ với chiếc smartphone có thể trò chuyện hàng giờ với người thân trong gia đình hay bạn bè gần xa. Ngay cả các công việc mang tính mục vụ như tư vấn, đồng hành thiêng liêng vẫn có thể được thực hiện dễ dàng qua mạng. Người tu sĩ trở nên gần gũi hơn với người khác khi họ đưa lên mạng những hình ảnh sinh hoạt hàng ngày hay những dòng tâm sự nhỏ to bày tỏ nỗi niềm.
Tuy nhiên, cái gì cũng có hai mặt của nó. Nếu như công nghệ là phương tiện giúp người tu sĩ kết nối với người khác thì nó cũng có nguy cơ làm người tu sĩ bớt nhiệt tình dấn thân cho lý tưởng đời tu. Khi tôi hỏi một bà cố có con đang tu ở nước ngoài “Bà cố có nhớ con mình không?”, bà trả lời: “Ối dào, có gì đâu mà nhớ, ngày nào cũng thấy nó chường mặt trên Facebook đó thôi!” Tôi không nghĩ đó không phải là lời nói bâng quơ, bởi vì đằng sau câu nói đó là cả một nỗi niềm về đời tu của con mình. Tâm lý con người vốn rất rõ ràng, mỗi khi quan tâm một điều gì đó quá nhiều thì những điều khác trở nên ít quan trọng hơn. Không có tu sĩ nào tu trên “cõi phây” cả. Dù người tu sĩ chia sẻ tất tần tật những việc họ làm, những điều họ nghĩ về đời tu trên facebook thì mạng xã hội vẫn không thay thế được tu viện hay đời sống cộng đoàn.
Khi xưa các thừa sai “chân bước đi đầu không ngoảnh lại” thì ngày nay nhiều tu sĩ sống ở xa quê vẫn một lòng hướng về “quê hương.” Phải chăng đó là một dấu hiệu cho thấy họ vẫn chưa thực sự từ bỏ mọi sự để bước theo Chúa? Xin thưa, theo Chúa không có nghĩa là cắt đứt liên lạc với gia đình hay xóa bỏ tình liên đới với quê hương đất nước. Người môn đệ của Chúa được mời gọi dấn thân trọn vẹn trong sứ mạng được giao ở vùng đất mới. Người ta gọi đó là việc hội nhập văn hóa hay sống mầu nhiệm nhập thể. Vì lòng yêu mến dành cho các linh hồn, người tu sĩ hăng say phục vụ bất cứ người nào ở bất cứ nơi đâu, không nhất thiết phải là đồng bào dân tộc mình. Thực ra, căn cốt của đời tu ở đâu cũng giống nhau: sống tinh thần cầu nguyện và dấn thân phục vụ tha nhân. Nếu không có được điều căn cốt đó thì những mối tương quan trên mạng xã hội sẽ trở thành cám dỗ khiến tu sĩ xao nhãng đời tu.
Tôi thật sự khâm phục các tu sĩ đã quảng đại đáp lại lời mời gọi lên đường loan báo Tin Mừng ở những nơi người ta chưa biết Chúa hoặc đã biết Chúa nhưng bỏ bê đời sống đức tin. Họ là khí cụ loan báo Tin Mừng của Chúa. Họ phải chịu thiệt thòi không nhỏ về mặt tình cảm khi phải sống xa quê hương gia đình. Về mặt con người, họ không thể tránh được những phút giây yếu lòng, cô đơn, nản chí. Họ thực sự cần đến những lời động viên an ủi từ gia đình, bè bạn. Tuy nhiên, chính họ cũng phải tỉnh táo phân biệt giữa những nguồn an ủi lành mạnh và những cạm bẫy đến từ mạng xã hội. Họ cần đến những người bạn chân thành, ở trong dòng hay ngoài dòng, để trút bầu tâm sự. Họ cũng cần những tu sĩ lớn tuổi có nhiều kinh nghiệm làm vai trò linh hướng, giúp họ vượt qua khó khăn. Họ nên tìm niềm vui trong công việc phục vụ của mình, dù đó là những hy sinh thầm lặng ít ai biết đến. Quan trọng nhất là họ phải khát khao mong chờ tìm được hạnh phúc trong tương quan thân mật với Thiên Chúa qua đời sống cầu nguyện cá nhân.
Sứ mạng phục vụ của Giáo hội không phân biệt màu da, sắc tộc. Đã chọn lựa đời tu là sẵn sàng chấp nhận đi bất cứ nơi đâu và làm bất cứ việc gì để danh Chúa được tôn vinh. Chắc chắn trong lòng mỗi tu sĩ xa quê dù đang học tập hay làm việc thì họ vẫn luôn đậm tình quê hương đất nước. Tuy nhiên, càng yêu mến quê hương thì khí chất của người Việt nơi người tu sĩ càng cần phải thể hiện rõ ràng hơn: giữ lòng đạo sắc son, sống đời tu gương mẫu, bình an và triển nở trong sứ mạng được giao. Sống xa quê chính, Tu sĩ là những con người đang tiếp nối trang sử hào hùng của các thánh tử đạo Việt Nam, trung kiên làm chứng đức tin không chỉ trên quê hương mà còn trên khắp cả thế giới.