2021
Marie de Hennezel: Sống với điều vô hình là trải nghiệm chung của mọi người
Marie de Hennezel: Sống với điều vô hình là trải nghiệm chung của mọi người
Những giấc mơ, những trùng hợp, những trực giác nội tâm, mối quan hệ với người đã khuất của chúng ta… Trong quyển sách mới nhất của bà Marie de Hennezel, nhà tâm lý trị liệu, bà khám phá tất cả những nhận thức vốn có ở con người, chứng minh cho mối liên hệ liên tục của chúng ta với điều vô hình.
Chúng tôi gặp bà trong căn hộ dưới các mái nhà Paris để nói về điều vô hình. Ngôi nhà yên bình ấm áp là nơi sinh sống của tất cả những hiện diện này, đánh dấu cuộc hành trình cá nhân của nhà tâm lý học và trị liệu tâm lý Marie de Hennezel. Một thiên thần bằng gỗ mạ vàng với nụ cười bí ẩn ở giữa nhà, đó là từ mẹ của bà.
Dọc các bức tường, giữa hai góc nhìn bầu trời là các biểu tượng, các chân dung; một phi công trẻ, một người chú làm việc với Đại Tướng De Gaulle; các bức tranh của ông nội, bức khắc của bà nội yêu quý mà bà thường xin được che chở. Dưới các hình ảnh tốt lành được đề cập trong quyển sách mới nhất của bà, Sống với điều vô hình (Vivre avec l’invisible, Robert Laffont / Versilio), một bản tường thuật những kinh nghiệm thu thập được trong hơn mười năm, qua quá trình gặp gỡ và đồng hành.
“Sống với điều vô hình” như tựa đề quyển sách của bà có là chuyện tự nhiên đối với con người không?” Chúng ta tất cả đều có khả năng này trong người mình không?
Bà Marie de Hennezel: Đây không phải chỉ là một khả năng, đây là thực tế. Tôi đã phát hiện ra nó! Nhiều người sống với điều vô hình, nhưng họ không nói vì họ sợ bị hiểu lầm và bị gán cho là không hợp lý. Đó là một chủ đề cấm kỵ. Chỉ khi tôi bắt đầu chia sẻ kinh nghiệm bản thân, tôi mới nhận những lời chứng từ nhiều nguồn khác nhau. Trải nghiệm này là phổ biến, nhưng trong xã hội duy lý Descartes của chúng ta, mọi người đều trải nghiệm điều này một cách bí mật.
Làm thế nào để sự hiện diện vô hình này tự thể hiện?
Mỗi người đều đặt những thực tế rất khác nhau đằng sau từ này. Những giấc mơ, những biểu hiện của vô thức là một phần của nó. Một số là những điềm báo trước, là âm vang của một cuộc họp hoặc một sự kiện sẽ xảy ra trong thực tế.
Đôi khi đây là những trùng hợp đơn giản: bạn mơ hoặc nghĩ về một người nào đó mà bạn không gặp từ lâu, người đó gọi cho bạn trong cùng một ngày. Gần đây tôi trải nghiệm một ví dụ về sự trùng hợp này giữa những suy nghĩ và thực tế của chúng ta.
Để viết quyển sách tiếp theo của tôi, một quyển từ điển về tình yêu cho sự cô độc, tôi đã phát hiện ra ở Đảo Yeu (Île d’Yeu), nơi tôi sống một phần đời, có những căn lều biệt lập trước mặt biển. Những ngày gần đây, khi kết thúc một buổi hội thảo, một người tham dự đến nói chuyện với tôi, ông nói về mối liên kết của tôi với Đảo Yeu và cho tôi xem một bức ảnh căn lều ngư dân ông có ở đó. Ông đề nghị tôi đến đó ở để viết lách! Đây là một ví dụ về mối liên hệ vô hình này giữa một ý nghĩ có trong đầu và một yếu tố thực tế có thể thực hiện ước muốn của mình.
Bà nói đến một tiếng nói nội tâm nhỏ nhoi thì thầm trong lòng để hướng dẫn. Khoa phân tâm học nói gì về những dạng trực giác này?
Chúng ta biết trước điều trong lòng, nhưng chúng ta không nhận thức được tất cả những gì chúng ta biết. Sự hiểu biết nội tâm này thỉnh thoảng thể hiện dưới dạng trực giác. Đó là tiếng nói nho nhỏ chúng ta nghe trong tận sâu thẳm trong lòng: ví dụ điều gì đó nói với tôi, tôi nên đi dự cuộc họp này hoặc tôi không nên đi chuyến du lịch kia.
Là người theo thuyết của tâm lý gia Jung, tôi hiểu, tất cả chúng ta đều có vô thức cá nhân, vô thức gia đình và cả vô thức tập thể. Ký ức và kiến thức về sự tiến hóa và số phận của chúng ta dần dần được chiếu sáng qua cuộc sống, qua giấc mơ, qua những trùng hợp, những sự kiện. Đây là điều mà Jung gọi là “quá trình cá nhân hóa”, một “thiên chức” phải được trải nghiệm và hoàn thành thông qua sự tồn tại của chúng ta. Nếu Freud nhìn thấy trong vô thức biểu hiện của người bị kìm nén, thì Jung nói rộng hơn, trong tâm hệ có một phần của tâm hồn và một phần của điều vô hình.
Bà có nhận thấy trẻ con có mối liên kết tự phát này với điều vô hình, như một “kiến thức từ bên trong” không?
Đây là một diễn tả tuyệt vời của bạn tôi, bà Sevim Riedinger, nhà trị liệu theo tâm lý gia Jung, bà trị liệu cho các trẻ em thuộc mọi tầng lớp xã hội, trong đó có nhiều trẻ em thuộc các gia đình theo thuyết bất khả tri và vô thần. Bà nhận thấy trẻ con “biết”, chúng nhận thức được những điều mà người lớn không còn cảm nhận, nhưng đối với chúng, những điều này lại là tự nhiên: chẳng hạn chúng ‘sáng chế’ ra các bạn đồng hành chúng tưởng tượng để nói chuyện.
Chỉ đến khi 7-8 tuổi, tuổi của “lý trí” thì chúng sẽ tách ra khỏi “kiến thức nội tâm” này và đi vào lãnh vực lý trí hơn. Chẳng hạn đứa trẻ sẽ nhận khía cạnh dứt khoát của cái chết. Khi chúng trên 8 tuổi, nếu chúng chỉ ở trong “kiến thức nội tâm” thì tình trạng này có thể làm cho quan hệ của chúng với thực tế bị xáo trộn.
Theo bà, khi cuối đời, người lớn tuổi có thể tìm lại khả năng liên quan đến nội tâm này không?
Khi chúng ta lớn tuổi, con người nội tâm, con người chiêm ngắm sẽ chiếm nhiều chỗ hơn trong cuộc đời. Từ đó, chúng ta nhận thức được nhiều thứ hơn là khi chúng ta sống trong năng động, khi lý trí thống trị. Chúng ta có một nhận thức tốt hơn, một khả năng để cảm thấy vượt ra ngoài chính mình, gọi là khả năng tâm thể, một khả năng cảm nhận tinh tế, những người sống chiêm niệm càng tinh tế thì khả năng này càng mạnh, và được gọi là hapsis.
Một bệnh nhân nằm trên giường bệnh sẽ nhạy cảm với cách một người nào đó khi họ bước chân vào phòng, tương tự với trạng thái nội tâm của nữ y tá. Trong vũ trụ thu hẹp này, họ có khả năng tiếp thu nhạy bén hơn khi họ còn hoạt động và khỏe mạnh. Họ có khả năng nhân bản để kéo dài trong không gian. Đó cũng là điều các nhà trị liệu xương trải nghiệm (ostéopathe). Đầu của bạn ở trong bàn tay của họ, họ dùng kỹ thuật cảm nhận tinh tế hapsis của mình để cảm nhận sự rối loạn chức năng trong một bộ phận khác trên cơ thể của bạn.
Cuối cùng, chính phần kéo dài vô hình này mà những người dễ bị tổn thương hoặc khuyết tật mới có thể sống. Tôi kết thúc quyển sách bằng lời tri ân đến những người người mù… những người cuối cùng lại là những người thấy.
Xin bà cho chúng tôi biết mối liên kết vô hình này giữa người sống và người chết. Quyển sách của bà nhấn mạnh nhiều đến “những làn sóng vô hình” này. Đó là ai?
Tôi mượn thành ngữ này của bà Sophie Davant. “Nhóm những điều vô hình” của tôi là tất cả những che chở mà chúng ta có thể cầu xin trong một vài giai đoạn khó khăn của cuộc sống. Một vị thánh, một người ông kính yêu, một thiên thần hộ mệnh… Thiên thần là ẩn dụ cho sự bảo vệ vô hình mà tất cả chúng ta cần, thiên thần là một phần của văn hóa tôn giáo nhưng cũng ảnh hưởng đến những người không có tôn giáo.
Ai mà chưa từng xin những sinh linh vô hình bảo vệ mình? Ông giám đốc nhà xuất bản của tôi, một người rất lý trí, đặc biệt ông không tin đạo, ông có bức hình bà ngoại để trên góc bàn làm việc. Ông nói chuyện với bà và xin bà giúp đỡ.
Trong nhà của tôi, tất cả những “người vô hình” của tôi đều ở đó, bằng cách này hay cách khác. Cộng đồng các tổ tiên, những người thân đã khuất, nhưng cũng là những người mà tôi đi theo cho đến cuối cuộc đời và những người đã trấn an tôi: “Marie, khi tôi ở phía bên kia, tôi sẽ giúp bạn!”.
Họ đặc biệt giúp tôi khi tôi nói về chủ đề cuối đời trong các cuộc hội thảo. Tôi xin họ đặt vào môi miệng tôi những lời thích hợp để tôi chia sẻ tốt nhất trải nghiệm này và làm cho thính giả nhận thức được tầm quan trọng của việc đồng hành với người sắp qua đời.
Về sự hiện diện của những người đã khuất, tôi nhận được rất nhiều chứng từ. Mối quan hệ này độc lập với các nền văn hóa và niềm tin tôn giáo. Sự hiệp thông của các thánh trong kitô giáo là sự không phân tách giữa thế giới của người sống và người chết.
Bà nhận được lòng tin tưởng vào điều vô hình từ giáo dục của bà, từ trải nghiệm hàng ngày, nhưng bà không tìm cách để chứng minh điều này?
Trong quyển sách này, tôi không khẳng định, tôi không cố gắng chứng minh bất cứ điều gì. Tôi chỉ ghi nhận nhiều người trong chúng ta sống mối quan hệ này. Như nhà thơ người Đức Rilke viết, “chúng ta bị đóng khung bởi điều vô hình.” Và điều bí ẩn này, như cố tổng thống Pháp François Mitterrand đã nói với tôi, “chúng ta sẽ không bao giờ chứng minh được điều này, chúng ta sống với nó.”
Bà đã nói chuyện với cố tổng thống Mitterrand “về điều vô hình” và bà đã tiếp tục nói chuyện trong nhiều năm cho đến khi ông qua đời. Bà cũng đã nói những chuyện này trong một quyển sách khác Tin vào sức mạnh của tinh thần (Croire aux forces de l’esprit, nxb. Pocket). Ở khía cạnh nào cố tổng thống đã quan tâm đặc biệt đến vấn đề này?
Cố tổng thống Mitterand rất nhạy cảm với năng lượng của thiên nhiên, cây cối, của đá, năng lượng vũ trụ và những bí ẩn xuyên qua thế giới. Đó cũng là những nơi linh thiêng, cho dù đó là tảng đá của Solutré mà ông leo hàng năm hay nơi đại kết như Taizé. Chúng tôi có cùng điểm chung tâm linh này, mặc dù chúng tôi chưa bao giờ cùng nhau đến đó.
Chính ở Taizé, sau giai đoạn bác bỏ chủ nghĩa giáo điều của công giáo mà tôi được nuôi dạy, tôi đã trở về với cầu nguyện. Đây là kinh nghiệm thuộc thứ trật cảm giác cơ thể, nhận thức này tôi có được khi đi vào tận thâm sâu tâm hồn và kết nối tôi với điều vô hình. Tôi nhớ tôi đã khóc và Sư huynh Roger đã nói với tôi: “Bà đã sống trải nghiệm tuôn trào tinh thần.” Cảm xúc của chúng ta không chỉ là tình cảm mà còn là tinh thần.
Chúng ta đang nói về những người bảo vệ, hướng dẫn, đồng hành, nhưng có thể có nguy cơ mở lối cho điều vô hình không?
Thực sự có một mối nguy hiểm trong việc tìm kiếm điều vô hình. Để bản thân mình được hướng dẫn, nhờ một người thân đã khuất che chở mình, được! Nhưng tìm sức mạnh của lực huyền bí thì không! Có một phần ý chí phải rèn luyện để không mở cánh cửa ra cho nỗi sợ hãi của bạn.
Với những người nghĩ mình là nạn nhân của số phận, những người mong manh nhất mà tôi đã gặp trong những năm tháng hành nghề ở bệnh viện, chúng tôi có thể dạy cho họ sự cần thiết phải xây một lớp bọc bảo vệ tinh thần, bằng cách nhờ đến sự hiện diện một hình ảnh vô hình nhân từ như một thiên thần chẳng hạn.
Trong một buổi họp y tế ở thành phố Montpellier, bác sĩ của Đức Đạt Lai Lạt Ma đã truyền cho chúng tôi phương pháp tu tập phật giáo này: hình dung cơ thể mình tràn đầy ánh sáng và mở rộng sự trong sáng này xung quanh mình như một lớp bọc bảo vệ. Những nghi thức nhỏ này không loại trừ sự bảo vệ hợp lý, nhưng làm cho chúng ta tự tin hơn. Chúng ta biết cảm xúc đã đóng vai trò quan trọng như thế nào trên sức khoẻ tinh thần của chúng ta.
Chúng ta nên nghĩ gì về những nhà ngoại cảm và những người có thiên nhãn?
Tất cả chúng ta đều có một hạt nhân gọi là “loạn tâm thần” trong tâm hồn, một không gian và một kiến thức mà chúng ta bị ngắt kết nối với thực tế, các nhà phân tâm học trường phái anglo-saxon đều nói về điều này. Khi lớn lên, chúng ta tách ra khỏi nó, tạo một rào cản giữa không gian này và chúng ta. Nếu không có nó, chúng ta sẽ không thể thích ứng với thực tế cuộc sống.
Nhưng có một số người tách ra khỏi nó một phần, và thông qua một vài “mảng” vẫn còn mở, sẽ cho thấy một trực giác sâu sắc hơn nhiều so với những người khác. Chúng tôi rất muốn đi gặp họ… Lời khuyên của tôi là hãy tin tưởng vào bản thân nhiều hơn, lắng nghe tiếng nói bên trong của chính mình.
Chúng ta không cần nhà ngoại cảm để giao tiếp với người đã khuất, để kết nối với người thân yêu mà chúng ta đã có liên hệ suốt đời. Chúng ta chỉ cần nói chuyện với họ. Chúng ta nhận được câu trả lời qua giấc mơ, qua cảm xúc nội tâm. Chúng ta phải có nhiều tự do nội tâm để lắng nghe họ.
Về cơ bản, quyển sách của tôi viết về mối liên kết, dù đó là địa điểm, là người thân yêu hay tâm linh, những liên kết này là một phần hạnh phúc của chúng ta. Tình yêu được gieo vào lòng con người và tình yêu này không bao giờ ngừng đi tìm lại niềm vui qua việc giao tiếp với người khác. Sống với bí ẩn này làm cho chúng ta hạnh phúc và tất cả mọi người đều có thể chia sẻ kinh nghiệm này.
Sống với điều vô hình (Vivre avec l’invisible, nxb. Robert Laffont / Versilio)
Bà Marie de Hennezel tiếp tục viết quyển nhật ký với điều vô hình mà bà đã viết trong gần hai mươi năm, bà thu thập các chứng từ của bạn bè, các bệnh nhân của bà, các mối quan hệ nghề nghiệp nhưng cũng rút từ các nguồn văn học và phân tâm học. Một tường thuật hấp dẫn về những trải nghiệm mà không tìm cách chứng minh bất cứ điều gì, chỉ nói lên sự phong phú nội tâm của con người.
Marta An Nguyễn dịch
2021
8 Lời lẽ khôn ngoan từ Thánh Lêô Cả
8 Lời lẽ khôn ngoan từ Thánh Lêô Cả
Dù đã hơn 1.600 năm sau triều đại Giáo hoàng của mình, nhưng lời khuyên từ Thánh Lêô Cả vẫn là những gì chúng ta cần phải lắng nghe.
Thánh Lêô Cả là một vị Giáo hoàng đầy nghị lực, người đã phải đương đầu với những tàn dư của đa thần giáo và chiến đấu chống lại các lạc giáo. Bằng những lời lẽ khôn ngoan và tinh tế, lời khuyên của ngài đã tác động đến tất cả mọi người, kể cả những người có đức tin cũng như không có đức tin. Ngay cả ngày nay, những lời lẽ đó vẫn thích hợp và gây được tiếng vang đối với chúng ta.
Thánh Giáo Hoàng Lêô I, người đầu tiên nhận danh hiệu “Cả”, luôn ghi nhớ phải sống và dạy về những giá trị vững chắc, chẳng hạn như tình yêu, tình bạn, lòng kiên nhẫn, lòng khoan dung, lòng nhân từ và lòng khiêm nhường. Ngài để lại dấu ấn nổi tiếng nhất trong lịch sử khi được Hoàng đế Valentinian III chọn vào năm 452 để dẫn đầu phái đoàn ngoại giao của Rôma trong nỗ lực thuyết phục vị vua đáng sợ của người Huns, Attila, không tấn công vào Rôma và rút lui khỏi nước Ý. Thánh Lêô Cả đã thuyết phục được vị vua này, và nhờ đó mà ngài nhận được sự tôn trọng của tất cả cư dân trên bán đảonước Ý.
Ngài có tầm ảnh hưởng và sức thuyết phục rất lớn đối với dân chúng không chỉ nhờ sự kiện lịch sử quan trọng trên, mà còn vì ngài một “vị mục tử nhân lành”, người đã lần lượt dạy cho những “vị mục tử” khác cũng phải trở nên giống như vậy. Dưới đây là một số câu nói đáng ghi nhớ nhất của ngài, những câu nói giúp chúng ta thêm phần hiểu biết và noi theo gương sáng thánh thiện của ngài.
Tác giả: Maria Paula Daud
Chuyển ngữ: Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên
2021
“Lời cầu nguyện của người lính” trong Thế chiến thứ nhất
“Lời cầu nguyện của người lính” trong Thế chiến thứ nhất
Lời cầu nguyện này đã được nhiều người lính nói tiếng Anh đọc lên nơi các chiến hào của Thế chiến thứ nhất.
Everett Collection | Shutterstock
Việc bước vào chiến trận trận chắc chắn sẽ mang đến cho tâm trí của người lính thực tế về cái chết. Một người lính giỏi là một người lính sẵn sàng hy sinh mạng sống vì bạn bè, hy sinh lợi ích của mình vì lợi ích chung.
Chiến tranh thế giới thứ nhất vốn không có bất kỳ ngoại lệ nào và nhiều người lính đã bước vào chiến trận cùng với Thiên Chúa trong tâm trí mình, vì biết rằng họ có thể gặp được Người sớm hơn mong đợi.
Đây là “Lời cầu nguyện của người lính” được in trong cuốn sách có tựa đề Sức mạnh của cầu nguyện, xuất bản năm 1920, cùng với một lời giải thích ngắn gọn.
Đây là Lời cầu nguyện của người lính đã được dâng lên bởi hàng trăm nghìn chiến sĩ nói tiếng Anh trong chiến hào của Pháp và Bỉ.
Lạy Chúa, trước khi con tham gia vào cuộc chiến đấu chết người
Và trước khi nỗi kinh hoàng của trận chiến bủa vây,
Trước hết con xin dâng lại linh hồn và sự sống
Cho sự Toàn Năng của Ngài chăm sóc.
Và khi bị bao phủ bởi cái chết nghiệt ngã nơi những luồng khói cuồn cuộn,
Ập đến như sấm nổ trên khắp chiến trường,
Nỗi sợ hãi nào có thể chạm tới tâm hồn của người lính,
Người đã đặt niềm tin tưởng vào Ngài?
Hãy ghi nhớ kỹ rằng người lính chân chính không cầu xin bất kỳ sự bảo vệ kỳ diệu nào khỏi bom đạn; điều anh ta cầu xin là mình có thể nhận thức được sự hiện diện và chăm sóc của Thiên Chúa để rồi anh ta có thể được ban cho ơn cứu rỗi nhờ lòng can đảm, hoa trái của đức tin.
Tác giả: Philip Kosloski
Chuyển ngữ: Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên
2021
Hôn nhân “Bất đắc dĩ”: Đôi điều muốn nói
Hôn nhân “Bất đắc dĩ”: Đôi điều muốn nói
Hôn nhân là một quyết định hệ trọng liên quan tới hạnh phúc cả một đời người. Có những cuộc hôn nhân phúc hạnh như mơ, nhưng cũng có không ít những cuộc hôn nhân đau khổ bất hạnh ê chề, nhất là những cuộc hôn nhân không tình yêu, không tự do thật lòng, mà chỉ vì “lỡ có bầu”.
Các bậc cha mẹ thường rơi vào cảnh khó xử với những cuộc hôn nhân “bất đắc dĩ” như thế. Nếu để cho con cái mình “lỡ mang bầu”, rồi sinh con mà không cưới hỏi gì, thì bị mất mặt với bà con lối xóm. Vì thế, không ít cha mẹ tìm mọi cách để thúc ép con cái phải cưới cho bằng được. Họ tìm đến với các cha xứ của mình, trình bày với các ngài, rồi “năn nỉ ỉ ôi” cho con mình được học giáo lý cấp tốc và cưới cấp tốc, “cưới chạy bầu”. Có khi tất cả mọi sự chỉ diễn ra trong vòng một tháng, tất tần tật: học giáo lý, làm thủ tục giấy tờ, rao hôn phối, cử hành hôn lễ… Khổ nhất là những cặp đôi có một trong hai người chưa theo đạo, học giáo lý vừa Dự tòng vừa Hôn nhân vội vội vàng vàng, chẳng đâu tới đâu. Thậm chí có trường hợp phải cử hành các Bí tích Khai tâm và Hôn phối trong cùng một ngày.
Những trường hợp như thế thường làm khó cho các cha xứ. Vui vẻ với nhau “lỡ mang bầu”, rồi vô bắt cha xứ giải quyết. Thật chẳng công bằng chút nào! Không giải quyết thì thấy cũng tội nghiệp, sợ gia đình đôi bên buồn, mà giải quyết thì bản thân các ngài cảm thấy áy náy lương tâm, không biết tương lai cuộc hôn nhân này có bền vững không, gia đình này có hạnh phúc không, vì đôi bạn không được chuẩn bị chu đáo.
Lời khuyên nào cho các cha mẹ và các cặp đôi? Trong trường hợp hai người yêu nhau thật lòng và cũng mong muốn tiến tới hôn nhân để được ăn đời ở kiếp với nhau, mà chẳng may có bầu, thì có thể tiến hành hôn phối được. Những trường hợp này có thể hạnh phúc và bền vững. Nhưng phải càng sớm càng tốt. Đừng để thai 3-4 tháng, thậm chí là 5-6 tháng rồi mới đến trình với cha xứ xin giải quyết.
Còn trong trường hợp, hai người không yêu nhau thật lòng, và cũng không muốn tiến tới hôn nhân; nhưng chẳng may có thai với nhau, thì chấp nhận giữ lại cái thai và ở vậy sinh con. Cứ sinh con rồi hãy tính tiếp. Nếu sau khi sinh con mà tình yêu giữa hai người nảy sinh và cả hai muốn sống với nhau, thì tiến hành thủ tục kết hôn cũng không muộn. Còn nếu tình cảm giữa hai người không còn, thì chia tay nhau, và thong dong đi tìm tình yêu mới, không vướng mắc gì, không ngăn trở gì. Hai người vẫn có thể là bạn với nhau, cùng góp phần cách nào đó để nuôi dạy đứa con chung. Đứa con cũng sẽ dễ dàng chấp nhận thân phận của mình, và có thể hạnh phúc, vì cảm nhận được tình thương của cả cha mẹ và ông bà nội ngoại hai bên.
Tôi được biết người con trai một ông Hội đồng Mục vụ, thuộc giáo xứ nọ, quen một người bạn gái. Hai người kết thân với nhau, rồi ăn ở với nhau và chẳng may “dính bầu”. Cả hai chấp nhận ở vậy sinh con mà không cưới hỏi gì, vì họ không thực lòng yêu nhau, và cũng không muốn kết hôn với nhau. Gia đình hai bên cũng đồng ý như vậy, không thúc ép gì. Sau khi sinh con được một thời gian, thì chia tay nhau, mỗi người theo đuổi hôn nhân riêng. Họ vẫn coi nhau như bạn bè, lui tới chăm sóc đứa con chung. Đứa con chung đó cũng vô tư ở với ông bà ngoại, thỉnh thoảng lại chạy qua ông bà nội chơi vui vẻ, vì nhà nội gần bên nhà ngoại.
Bởi đó, cha mẹ không nên tổ chức đám cưới cho con mình bằng mọi giá, chỉ vì con cái mình đã “lỡ mang bầu”, dù con mình thực sự không yêu thương nhau và không sẵn sàng để kết hôn với nhau, nhất là những trường hợp “lỡ có bầu” thường rơi vào giai đoạn tuổi đời còn non trẻ, suy nghĩ chưa chín chắn. Trong trường hợp này, nếu tổ chức đám cưới, thì chỉ đẹp mặt với bạn bè và bà con lối xóm, nhưng chắn chắn sẽ để lại hậu quả bi đát về sau. Vui đó nhưng rồi buồn đó. Niềm vui thì chóng vánh, nhưng nỗi buồn thì vô tận!
Khi kết hôn được một thời gian ngắn sẽ xảy ra mâu thuẫn, bất đồng và xung đột với nhau mà không giải quyết được. Đơn giản vì không có tình yêu. Không có tình yêu, nên không thể tha thứ cho nhau, không thể chấp nhận nhau, và có khi biến vợ mình, hoặc chồng mình trở thành kẻ thù thứ thiệt của nhau, hoàn toàn đoạn tuyệt với nhau. Mấy chục năm sau, khi ra tòa xin tháo gỡ hôn phối mà vẫn không muốn nhìn mặt nhau. Xung đột vợ chồng không giải quyết được dẫn đến xung đột với cả gia đình nội ngoại hai bên. Tương quan sẽ tan nát và hôn nhân sẽ sụp đổ. Có những cặp kết thúc cuộc sống chung chỉ sau 3 tháng, thậm chí là 1 tháng sau đó, và 1 năm sau, ra tòa ly dị, để lại ngổn ngang bao dằn vặt tâm can, và bao vết thương lòng khó mà chữa lành được. Ở vậy thì không được vì cả hai còn rất trẻ, mà tiến hành một cuộc hôn nhân mới thì sẽ rơi vào tình trạng rối, vì còn vướng dây hôn nhân trước.
Bi kịch diễn ra giữa hai người, hai gia đình, và con cái sẽ lãnh đủ. Bởi vì đã không yêu nhau, thì theo lẽ thường, hoa trái của mình là con cái, họ cũng chẳng thiết tha gì! Có khi người mẹ vì “hận” chồng, nên đành đoạn bỏ lại đứa con của mình và đi tìm người chồng mới. Đứa con trở thành “mồ côi” mẹ. Có khi người bố vì “thù” vợ, nên nhẫn tâm bỏ lại đứa con của mình và đi theo người tình mới. Đứa con trở thành kẻ “mồ côi” cha. Bi đát hơn nữa là cha mẹ hận thù nhau và cùng bỏ luôn đứa con cho ông bà nội hoặc ông bà ngoại nuôi. Hậu quả là đứa con “mồ côi” luôn cả cha lẫn mẹ, đang khi cha mẹ vẫn còn sống. Bi đát hơn nữa là đứa con sau này sẽ hận chính cha mẹ của nó vì đã bỏ rơi nó. Hận cha, hận mẹ và hận luôn cả cuộc đời. Thực tế những trường hợp như thế này xảy ra rất nhiều. Ông bà nội ngoại hai bên nhìn cảnh tượng đó rất đau buồn. Các cha xứ, đặc biệt là người đã cử hành Thánh lễ hôn phối cho họ cũng buồn đau không kém!
Vì thế, trước khi quyết định tiến tới hôn nhân, xin các đôi bạn và những người làm cha mẹ, hãy cân nhắc kỹ lưỡng các tình huống, nhất là cùng nhau cầu nguyện xin ơn soi sáng hướng dẫn của Chúa, để tránh những thảm cảnh bi thương xảy ra sau này.
Lm. Giuse Nguyễn Thành Long