2021
Đan sĩ cuối cùng của Tibhirine, chứng nhân vụ sát hại 7 tu sĩ Trappist – qua đời ở tuổi 97
Đan sĩ cuối cùng của Tibhirine, chứng nhân vụ sát hại 7 tu sĩ Trappist – qua đời ở tuổi 97
Giáo hội Marốc ở Rabat cho biết, hôm Chúa Nhật 21/11/2021, sau những năm cuối đời sống âm thầm ẩn dật trong tu viện Midelt ở Marốc, đan sĩ Jean-Pierre Schumacher, người Pháp, dòng Trappist, người sống sót cuối cùng trong vụ bắt cóc và thảm sát tàn bạo 7 tu sĩ dòng Trappist tại đan viện Tibhirine ở Algeria vào năm 1996, đã qua đời cách bình an ở tuổi 97.
Cha Jean Pierre Schumacher gặp ĐTC khi ngài thăm Marốc vào tháng 3/2019
Vào đêm ngày 26 rạng ngày 27/3/1996, khi bọn khủng bố vào đan viện, cha Jean-Pierre đang ở trong phòng của mình ở lối vào đan viện nên chúng đã không tìm thấy cha. Đan sĩ Amedée cũng thoát chết vì bọn khủng bố có thông tin rằng có 7 tu sĩ trong đan viện; nhưng trong những ngày đó, có hai vị tu sĩ đến thăm cộng đoàn, nên có tất cả 9 người. Bọn khủng bố đã bỏ đi cùng với 7 tu sĩ đầu tiên mà chúng tìm thấy.
Ngay lúc đó, không ai tưởng tượng được bọn khủng bố sẽ giết họ. Nhiều người nghĩ rằng chúng sẽ trao đổi họ với một số kẻ khủng bố bị bắt làm tù binh. Việc giết hại họ cũng đã gây chấn động một phần xã hội Algeria.
Đan sĩ bề trên cộng đoàn Christian de Chergé và sáu anh em tu sĩ khác đều bị chặt đầu và hai tháng sau người ta phát hiện đầu của họ ở nơi không xa Tibhirine. Tuy nhiên, thi thể của họ không bao giờ được tìm thấy.
Vào tháng 12/2018 đan sĩ Jean-Pierre lần đầu tiên trở lại Algeria để dự lễ phong chân phước cho các tu sĩ cùng dòng và các Kitô hữu tử đạo khác đã bị những kẻ khủng bố sát hại vào những năm 1990.
Vào dịp ra mắt bộ phim “Những người của Chúa” của đạo diễn người Pháp Xavier Beauvois, đan sĩ Jean-Pierre được thế giới chú ý đến. Bộ phim gợi lại sự hiện diện thinh lặng và cầu nguyện của các đan sĩ Tibhirine, một sự hiện diện bị chìm sâu trong bối cảnh xã hội và tôn giáo của nơi này.
Trung thành với Phúc Âm; dấu chỉ của tình yêu và hy vọng
Trong phim đan sĩ Jean-Pierre mới thuật lại những sự kiện của nhhững ngày bi thảm khi cộng đoàn các đan sĩ Tibhirine chọn ở lại Algeria bất chấp những đe doạ của những kẻ khủng bố và sự thù địch từ quân đội. Cha nói: “Đó là sự lựa chọn mà chúng tôi đã cùng nhau thực hiện: ở lại, bất chấp mọi thứ, để tiếp tục là một cộng đồng cầu nguyện bên cạnh những người hàng xóm Hồi giáo của chúng tôi. Chúng tôi không thể rời đi. Sự hiện diện của chúng tôi trong tu viện là một dấu hiệu của lòng trung thành với Phúc âm, với Giáo hội và với người dân Algeria. Chúng tôi không muốn trở thành những người tử vì đạo, nhưng là những dấu chỉ của tình yêu và hy vọng”.
Ngài cũng cho biết ngài thường tự hỏi tại sao mình lại được phép sống sót sau vụ thảm sát và ngài nhận ra rằng Thiên Chúa đã giao cho ngài sứ mệnh làm chứng về các sự kiện của Tibhirine và “làm cho kinh nghiệm hiệp thông với những người anh em Hồi giáo của chúng tôi, điều chúng tôi tiếp tục ở đây trong tu viện Midelt, được biết đến”. (Asia News 22/11/2021)
Hồng Thủy
2021
Chung quanh lễ Phong Thánh các Anh Hùng Tử Đạo Việt Nam
Chung quanh lễ Phong Thánh các Anh Hùng Tử Đạo Việt Nam
Được giao công tác
Ngày 25.8.1985, vào quãng 10 giờ đêm, Đức Hồng Y Giuse Trịnh Văn Căn đến kêu tôi ở Nhà Phát Diệm tại Rôma. Hai chúng tôi đi bách bộ ngoài hành lang chừng 20 phút. Ngài hỏi:
– Cha có biết vì sao mỗi lần tới Rôma, tôi hay đi viếng đền Thánh Rita không? (Đền Thánh Rita tại Cascia, Tỉnh Perugia, miền Bắc Ý. Thánh Rita nổi tiếng hay làm phép lạ trong những trường hợp khó khăn).
– Thưa Đức Hồng Y (ĐHY), chắc là tại ĐHY có nhiều khúc mắc, nhiêu khê!
– Cha nói đúng. Vấn đề nhiêu khê chính là vấn đề xin phong thánh cho các Chân Phúc Tử Đạo VN. Trước kia, rồi đến đời Đức cố Hồng Y Trịnh Như Khuê, đã 4 lần xin các vị ngoại quốc đảm nhiệm, nhưng rồi vẫn chưa tới đâu. Tuy nhiên, đây là vấn đề tha thiết và khẩn trương. Ngày nay đã có nhiều linh mục Việt Nam tại Rôma, trong số đó, có cha và cha đã có kinh nghiệm nhiều năm tại Tòa Khâm sứ Tòa Thánh tại Sài Gòn, tôi muốn giao công tác này cho cha, nhưng cha phải cho biết có đồng ý nhận hay không?
Ngay lúc đó vì quá bất ngờ, tôi rất phân vân không biết tính toán làm sao! Nhưng tôi tự nhủ: mình là con cái của Giáo Hội Việt Nam, cho dù từ cuối năm 1976, tôi còn đang mang số mệnh ra đi không hẹn ngày về, còn ĐHY hồi đó là Tổng Giám mục Hà Nội, kiêm Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam (HĐGMVN), tôi nhận các ngài là đại diện của Thiên Chúa, hôm nay, được sai khiến, dù muốn dù không, mình phải vâng lời!
Và tôi đã thưa: Vâng, con xin nhận. Ngay lúc đó ĐHY rút từ trong túi áo một văn thư đã đánh máy, đã đóng ấn, đã kí sẵn: Lá thư ủy nhiệm cho tôi làm Cáo thỉnh viên Vụ Án Phong Thánh các Chân Phúc Tử Đạo VN. Thì ra ngài đã sắp xếp mọi sự trước rồi, vì sáng hôm sau, ngày 26.8.1985, ngài lên đường về Hà Nội, để rồi ba bốn năm sau Đại lễ Phong thánh ngài mới trở lại Rôma.
Lãnh trách nhiệm rồi mà thâm tâm tôi vẫn cảm thấy mình như chim chích vào rừng. Chuyện Cáo thỉnh viên Vụ Án Phong Thánh xưa nay chỉ nghe nói một cách mang máng vậy thôi, chứ nào có ý nghĩ gì rõ ràng đâu! Rồi tiểu sử cả 117 vị thánh, chứ có phải một hai vị? Tìm đâu ra tài liệu đầy đủ? Trong khi đó, lúc trao công tác, Đức cố Hồng Y Trịnh Văn Căn cố tình đặt hai điều kiện rõ rệt: phải làm trong im lặng, đừng có rùm beng, và phải làm mau hết sức, một hai năm tối đa, cho tới khi nào được Đức Giáo Hoàng châu phê và công khai tuyên bố, lúc đó mới chắc ăn, vì Ngài sẽ không thể rút lại lời đã tuyên bố công khai trước mặt thế giới!
Xúc tiến công việc
Trong thời gian tiến hành công tác được giao phó, thú thực, đã có lần chúng tôi cảm thấy hết sức băn khoăn. Đức Hồng Y quyết định một cách quá bất ngờ và không giới thiệu tôi với ai, để khi cần, tôi có chỗ nhờ cậy, và tham khảo ý kiến. Nhưng đàng khác, ngài rất đại lượng và thông cảm. ĐHY bảo tôi: “Cha chịu khó tự tháo vát lấy!”. Thế là chúng tôi “phải” tự suy diễn và tự giải thích ý muốn của ĐHY:
1) Hàng Giám mục VN hồi đó, kể cả hai ba vị đang nghỉ hưu ở ngoại quốc, trên dưới 41 vị, nhưng đứng tên kí bản Thỉnh nguyện thư đệ lên Đức Thánh Cha Gioan Phaolô I I để xin phong thánh, vì hoàn cảnh năm 1985, chỉ có một mình Đức cố Hồng Y Trịnh Văn Căn trong vai trò Chủ tịch Hội đồng Giám mục VN. Để cho người ta khỏi nghĩ các Giám mục VN quá lẻ loi, đơn độc, chúng tôi được khuyến khích kêu gọi hàng Giám mục ba nước khác có liên hệ: Pháp (120 Giám mục) có 10 vị tử đạo trong số các Chân phúc, Tây Ban Nha (80 Giám mục) có 11 vị tử đạo, Phi Luật Tân (120 Giám mục). Tuy Phi Luật Tân không có vị nào trong danh sách tử đạo sắp được tuyên thánh, nhưng theo tài liệu lịch sử truyền giáo thì hồi xưa, Thủ đô Manila vẫn là đầu cầu Thiên định. Các thừa sai từ Âu châu sang Á châu đi tầu thủy, ai cũng phải dừng chân tại đó, chờ ngày vào Việt Nam hay là đi nơi khác. Do đó, ba quốc gia nói trên (tất cả 320 Giám mục nữa), qua 3 Hội đồng Giám mục, đã gửi ba Thỉnh nguyện thư riêng biệt, đệ lên Tòa Thánh ủng hộ sáng kiến của Hội đồng Giám mục VN và thành khẩn xin Đức Gioan Phaolô I I phong thánh cho các Chân phúc Tử đạo VN.
2) Để biểu dương tinh thần huynh đệ thiêng liêng giữa ba danh sách các Chân phúc Tử đạo Việt – Pháp – Tây Ban Nha, linh mục Cáo thỉnh viên Việt Nam đã xin Bộ Phong Thánh cho phép hai linh mục Cáo thỉnh viên Venchi, Dòng Đa Minh, đại diện Tây Ban Nha và Itcana, Hội Thừa Sai Ba Lê, cùng đứng tên trong một danh sách Cáo thỉnh viên, như thể là cả ba đã được chính HĐGMVN ủy thác và bổ nhiệm. Do đó, bất cứ đơn từ gì, hay hồ sơ nào đều được cả ba đồng ý kí và đồng chịu trách nhiệm. Sự kiện này đã đem lại nhiều thành công, nhất là khi cần đến sự nâng đỡ của Hội đồng Giám mục của hai nước bạn. Cũng nhờ đó mà Cáo thỉnh viên Việt Nam, trong 6 tháng đầu tiên, đã thu được rất nhiều tài liệu lịch sử quan trọng, vượt quá sự mơ ước của mình. Ngoài ra, khi tổ chức Đại lễ Phong Thánh, số tiền chi tiêu nguyên một ngày lễ 19.6.1988 đã tốn mất 32 triệu tiền Ý (chừng 23 ngàn Mĩ kim), hai Cáo thỉnh viên Pháp và Tây Ban Nha, tự coi mình như hai thành viên, đã xin Dòng Đa Minh Tây Ban Nha và Hội Thừa Sai Ba Lê, đóng góp mỗi dòng 1/3, tức 10 triệu tiền Ý. Việt Nam chịu 12 triệu, vì con số tử đạo đông hơn (Việt Nam 96 vị, Pháp 10 vị, Tây Ban Nha 11 vị).
Đi cầy ban đêm
Ôm mớ tài liệu nặng chĩu về phòng riêng, chúng tôi vẫn còn trong tình trạng như chim chích vào rừng, không biết khởi sự từ đâu! Tòa Thánh coi Vụ Án Phong Thánh là công việc hoàn toàn cá nhân, có nghĩa là: một tuần lễ 7 ngày thì 6 ngày chúng tôi cứ phải đi làm công sở Tỏa Thánh (6 buổi sáng và 3 buổi chiều). Để lo việc phục vụ các Thánh Tử Đạo, chúng tôi tự đặt cho mình thời khóa biểu riêng. Ngày nào cũng làm việc từ 21 giờ tối đến nửa đêm (3 tiếng đồng hồ) và liên tục một năm rưỡi (trên dưới 600 ngày). Lúc đầu, mỗi lần mở tập hồ sơ ra là trong lòng ngao ngán. Tập hồ sơ khác nào nắm tơ vò, rối rít chằng chịt. Phải mất mấy tuần lễ mới tìm ra đầu mối! Nhưng về sau, khi đã nhìn ra gốc ngọn, đọc hồ sơ các Thánh là cả một thích thú, một say mê, vì các Thánh đã đưa chúng tôi đi từ ngạc nhiên này sang ngạc nhiên khác. Cũng là con người như chúng ta, các Chân Phúc Tử Đạo sống với mức độ phi thường. Đức tin của các ngài đã trở thành sắt đá, sức kiên trung chịu đựng, như đã là một tập quán tự nhiên, gian lao cực khổ được coi nhẹ như lông hồng. Mặc cho lao tù, thiếu thốn, nhục mạ…, tâm hồn các ngài lúc nào cũng an bình, hiên ngang, thanh thản. Mạng sống các ngài như con cá nằm trên thớt, nhưng phong độ con người các ngài vững vàng, cao cả. Hơn thế nữa, đối với vua quan đã ra lệnh xử tử các ngài cũng như đối với đội lính cầm gươm chém. giết các ngài, các ngài đã tỏ ra lễ độ, cư xử bác ái, không hận thù, nhưng tha thứ và cầu nguyện cho họ. Các ngài đã xác tín mãnh liệt vào Chúa Kitô tử nạn. Chính niềm tin sâu xa, quyết liệt này là bảo chứng các ngài đã thắng thế gian (1 Ga.5,4).
Chúng tôi cảm phục công lao các vị Thừa sai Pháp và Tây Ban Nha. Hồi xưa, các vị đã về mãi tận các xóm làng, các họ đạo Việt Nam, để điều tra tại chỗ về xuất xứ, lai lịch, họ hàng, cá tính của từng vị Tử đạo Việt Nam hay ngoại quốc, sau khi các ngài bị hành quyết vì đạo. Từng trăm ngàn trang giấy viết tay, đánh máy, bằng tiếng Việt hay ngoại ngữ, sau đó dịch ra La ngữ, đóng thành từng bộ hồ sơ. Hay là các đồ dùng, di tích, và cả xác các vị tử đạo cũng được mai táng hẳn hoi. Mỗi khi có cơ hội thì gửi qua Hong Kong, Macao…, chờ tầu thủy chở dần về Pháp hay Tây Ban Nha. Nhờ có những cuộc điều tra, bảo toàn với rất nhiều chi tiết tỉ mỉ ấy, mà ngày nay chúng ta mới có tài liệu chính xác và bằng chứng cụ thể.
Đến khi đi vào lịch sử bách hại của từng vị Thánh, dù bầu không khí ban đêm có yên lặng, đôi khi rét lạnh đi nữa, tự nhiên chúng tôi cảm thấy nóng hổi, hấp dẫn, hào hùng! Như lịch sử Thánh Giuse Maria Diaz An (Sanjurjo), Giám mục Bùi Chu, bị trảm quyết tại Bảy Mẫu ngày 20.7.1857. Lời vị Thánh: “Tôi để lại món tiền nho nhỏ 300 đồng này với lời thỉnh nguyện tha thiết là đừng chém tôi một nhát, nhưng xin chém ba nhát. Nhát thứ nhất để cảm tạ Thiên Chúa đã tạo dựng nên tôi và đã cho tôi phúc đến truyền đạo tại Bắc Việt. Nhát thứ hai để tỏ lòng tri ân cha mẹ tôi vì công sinh thành dưỡng dục tôi. Nhát thứ ba tôi để lại như một lời di chúc cho giáo dân (VN) của tôi. Đó là cầu cho họ được can đảm đón nhận cái chết như vị chủ chăn của họ với hi vọng sẽ được cùng nhau hưởng phúc quang vinh với các Thần Thánh trên trời” (Trần Ngọc Thụ. Giáo Hội Việt Nam, I I. Tiểu sử 21 Thánh Tử Đạo người ngoại quốc, Roma 1991, tr. 31-32).
Tấm gương của Gm. Giuse Maria An, cũng như từng trăm tấm gương anh dũng khác, là như dòng suối mát, với thời gian, đã chuyển sinh lực thấm sâu xuống lòng đất Việt Nam. Hồi khai nguyên truyền đạo mới có hai giáo phận: Đàng Trong và Đàng Ngoài (1659), nhưng ngày nay, Giáo Hội Việt Nam đã có tới 25 giáo phận, từ Lạng Sơn xuống tới Cần Thơ, Long Xuyên. Tất cả đều do hàng giáo phẩm VN phụ trách. Từ con số khoảng 500 ngàn giáo dân vào năm 1850, nay đã lên tới trên dưới 7 triệu tín hữu, rải rác trên toàn cõi Bắc Trung Nam. Từ một số ít các nữ tu Mến Thánh Giá còn sót lại sau những đợt bách hại, nay đã lên tới gần 7 ngàn chị em nữ tu, thuộc nhiều dòng tu khác nhau, đang hăng say phục vụ Giáo Hội. Cũng trong thời gian khởi sự, Tiểu Chủng viện đầu tiên được thiết lập trên một chiếc thuyền nan, luôn luôn di động nay đây mai đó để tránh né con mắt dò xét của nhà cầm quyền, thì hiện nay đã có năm sáu Đại Chủng viện liên giáo phận, có cả Giáo hoàng Học viện Đà Lạt (trước 1975), gần 2 ngàn linh mục tại quê hương và trên 600 linh mục khác ở hải ngoại đang liên tục thi hành mục vụ giữa các cộng đoàn giáo dân người Việt và bản xứ. Đã có các linh mục Việt Nam vào làm việc trong Giáo phủ Roma, trong ngành ngoại giao Tòa Thánh, trong hai Đài Phát Thanh Vatican và Chân Lí Manila, trong ban giảng huấn các trường Đại học tại Roma và các nước khác…Còn về giáo dân, đạo gốc có, tân tòng có, thường dân có, quan quyền có, binh sĩ có, ngày xưa họ đã từng bị bách hại khốc liệt, đã bị xử lăng trì, trảm quyết, bá đao, xử giảo, quăng vào lửa, buông xuống sông biển, phân sáp vào các làng bên lương…! Tổng cộng, hơn 130 ngàn giáo hữu đã gục ngã đau thương, chỉ vì một tội là theo đạo Gia Tô. Theo chương trình Thiên định, họ là hạt giống gieo xuống lòng đất, sẽ bị thối nát, để rồi nảy mộng vươn lên ánh sáng, thành cây tươi tốt, thành vườn hoa trăm màu nghìn sắc, báo hiệu mùa Xuân Giáo Hội huy hoàng. Trong lịch sử VN cận đại đã có nhiều tín hữu thành công trong đũ mọi lãnh vực, không thua kém đồng hương! Trên thượng tầng xã hội, các vua chúa nhà Nguyễn ngày xưa giết hại người Công Giáo, nhưng về sau, một số vị đã nhận biết Thiên Chúa, chẳng hạn như các vua Thành Thái, Khải Định và Bảo Đại. (Tất cả những thành quả thăng tiến của GHCGVN trên đây sẽ được coi là phép lạ thiêng liêng thay thế cho phép lạ thực sự sau cùng mà lẽ ra, theo Giáo luật, phải có để tuyên thánh cho các Chân Phúc Tử Đạo VN).
Những ý nghĩ trên đây cứ thấp thoáng trong đầu óc chúng tôi giữa đêm khuya thanh vắng, trong khi chúng tôi đọc lại những trang sử hào hùng của các Thánh Tử Đạo VN. Những ý tưởng này xuất hiện như vầng sáng bình minh đang lên ở chân trời Việt Nam. Quá khứ và tương lai, từ chỗ mờ tối, cứ dần dần tỏa ra quang minh rực rỡ, đã làm rạo rực tâm hồn người cầm bút, và thêm sự khích lệ linh thiêng để chúng tôi tiếp tục công việc đã bắt đầu.
Sau thời gian gần 600 ngày nỗ lực làm việc, chúng tôi đã hoàn thành 2 công trình:
– Giáo Hội Việt Nam, Tập I: Vụ Án Phong Thánh (125 trang, xuất bản tại USA, 1987) để trình bày với công chúng tài liệu căn bản về Lịch sử Vụ Án Phong Thánh các Chân Phúc Tử Đạo.
– Cuốn Compendium (Tổng quát) Vitae et Martyrii necnon Actorum in Causa Canonizationis Beatorum Andreae Dũng Lạc, Sacerdotis, Thomae Thiện et Emmanuekis Phụng, Laicorum, H. Hermosilla, Valentini Berrio Ochoa, O.P. et aliorum 6 Episcoporum, necnon Theophani Vénard, Sacerdotis M.E.P. et 105 Sociorum Martyrum.
Tập Tổng quát (Compendium) trình bày về: Lịch sử truyền đạo tại Việt Nam, lịch sử các cuộc bách hại tôn giáo thời đó, danh sách 117 Chân Phúc Tử Đạo, Thỉnh nguyện thư của HĐGMVN và thế giới, mấy dòng tiểu sử từng vị một. Cuốn này (87 trang khổ lớn, tên sách bằng La ngữ, nhưng nội dung bằng Ý ngữ) chỉ ấn hành 500 tập: 300 tập nộp cho Bộ Giám mục, 200 tập cho Bộ Phong Thánh, để các vị chuyên môn và thẩm quyền cứu xét, chờ ngày được Tòa Thánh công khai chấp thuận.
Cơ Mật Viện ngày 22.6.1987
Sáng Thứ hai, ngày 22.6.1987, hồi 12 giờ trưa, Đức Thánh Cha Phaolô I I đã tới chủ tọa Cơ Mật Viện khoáng đại tại Gian Phòng Hoàng Tòa (Sala del Trono) tại Vatican. Khoáng đại là vì tất cả các vị Hồng Y, Tổng Giám mục và Giám mục tại Tòa Thánh và các vùng phụ cận Roma đều được triệu tập (tất cả có 28 Hồng Y, 70 Tổng Giám mục và Giám mục); khoáng đại là vì ít khi mới có phiên họp Cơ Mật Viện, lần họp Cơ Mật Viện sau cùng hồi đó là ngày 24.2.1986; sau hết, khoáng đại là vì đề cập tới nhiều vấn đề quan trọng tới đời sống Giáo Hội.
Phiên họp Cơ Mật Viện (họp đóng cửa) chia làm hai phần:
Phần thứ nhất: Dành riêng cho Hồng Y đoàn. Trước khi khai mạc, theo thủ tục, viên chức phụ trách an ninh xướng “Extra omnes”. Tất cả những ai không có phận sự phải ra ngoài phòng họp. Các vị Hồng Y bàn về các đề tài liên hệ tới việc quản trị Giáo Hội, thuyên chuyển các chức vụ trong Hồng Y đoàn, bổ nhiệm các Giám mục (năm đó 32 Tổng Giám mục, 94 Giám mục mới), thành lập các giáo phận mới (6 giáo phận và một Đan viện biệt hạt mới), nhất là khai mạc Năm Đức Mẹ.
Phần thứ hai: Cơ Mật Viện Phần I họp xong, cửa phòng mở ra. Tất cả 70 Tổng Giám mục và Giám mục đợi ở phòng ngoài được mời vào trong. Người duy nhất theo sau các vị Giám mục là linh mục Cáo tỉnh viên Vụ Án Phong Thánh cho các Chân Phức Tử Đạo VN. Nhật báo L’ Osservatore Romano (Quan sát viên La Mã) ngay chiều 22.6.1987 đã loan tin Cơ Mật Viện Phần I I: Hồng Y Palazzini, Tổng trưởng Bộ Phong Thánh, đã trình lên 4 hồ sơ phong thánh:
– Chân phúc Giuse Moscati (Ý), Bác sĩ và Giáo sư Đại học thành Naples,
– Nữ tu Eustochio Calafato (Ý) sáng lập Dòng Đức Mẹ tại Messina, miền Nam nước Ý, Chân phúc Lorensô Ruiz (Phi Luật Tân) và 14 bạn (cũng người Phi) tử đạo tại Nhật Bổn,
– 117 Chân Phúc Tử Đạo tại Việt Nam, đứng tên đại diện tất cả là Linh mục Anrê Dũng Lạc. Hồ sơ 117 Chân Phúc Việt Nam gây chú ý nhất, vì đây là lần đầu tiên trong lịch sử 2000 năm của Giáo Hội mới có một vụ tuyên thánh một lần tới 117 Vị.
Trước tiên, Luật sư Giulio Dante của Bộ Phong Thánh, bằng La ngữ, trình bày tính cách anh dũng tổng quát của Các Vị Chân Phúc. Sau đó, một viên chức của Văn phòng Quốc vụ khanh đọc lời yêu cầu của Đức Thánh Cha: Trước khi quyết định tuyên thánh, Ngài xin qúy vị Hồng Y, Tổng Giám mục và Giám mục góp ý kiến bằng cách viết hai chữ Placet (Thuận) hay Non Placet (Không thuận) và kí tên trên miếng giấy đã in sẵn, nhưng còn để trống. Hai viên chức nghi lễ cầm hai đĩa bạc lớn đi thu những lá phiếu. Sau khi kiểm phiếu và được sự đồng ý của toàn thể Cơ Mật Viện, Đức Thánh Cha đã ngỏ lời cám ơn qúy vị đã tới tham dự hôm đó, rồi cho lệnh công bố tin vui mừng: Vụ Án Phong Thánh Tử Đạo Việt Nam đã được châu phê.
Ra khỏi phòng họp, chúng tôi không làm sao nén nổi sự xúc động bên trong. Nó quá dào dạt! Chúng tôi ước gì có từng ngàn, từng vạn anh chị em giáo dân Việt Nam đứng ngay tại đây để hoan hô Đức Thánh Cha Gioan Phaolô I I! Giáo Hội Việt Nam được cưu mang từ thời vị thừa sai Inekhu nào đó, đổ bộ năm 1533 tại Ninh Cường (Bùi Chu), đời vua Lê Trang Tông xa xưa, tính tới 1988 đã 455 năm trường! Bao nhiêu công lao, nước mắt, gian khổ, bao nhiêu tính mạng chôn vùi trong quá khứ thầm lặng hơn 4 thế kỉ, hôm nay, chính Chúa Kitô phục hồi danh dự và dùng Vị Đại diện của Ngài ở trần gian để tuyên dương công trạng!
Ngày Phong Thánh
Theo thông lệ, khi xin nhật kì phong thánh, bao giờ cũng phải dự tính sẵn 3 ngày, để đề phòng trường hợp Tòa Thánh đã có chương trình xếp đặt nào khác thì mình cũng phải thay đổi theo. Lễ Phong Thánh Việt Nam đã xin vào ngày 29.6.1988, lễ hai Thánh Phêrô và Phaolô, nhưng người ta khuyến cáo không nên, vì sẽ bị hai Thánh Quan Thầy quá lừng danh của Thủ đô Roma lấn át mất. Đã có dự tính chuyển sang Chúa Nhật 26.6, nhưng cũng không ổn, vì hôm đó Đức Thánh Cha đi công du bên Áo quốc. Chỉ còn Chúa Nhật 19.6, nghĩa là xếp trước cuộc công du của Đức Thánh Cha một tuần lễ, vì trước sau ngày đó không còn cách nào khác. Đây là lí do duy nhất và dễ hiểu, chứ không hề có chuyện nghĩ tới, hay là mảy may muốn kỉ niệm Ngày Quân Lực VNCH như người ta đã cố tình gán ghép.
Hôm sau cuộc họp của Cơ Mật Viện, 23.6.1987, Đức Hồng Y Casaroli, Quốc Vụ Khanh, đã gửi điện tín sau đây cho hàng Giám mục VN:
Kính gửi: Đức Hồng Y Giuse Maria Trịnh Văn Căn
Tổng Giám mục Hà Nội, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam
40, Phố Nhà Chung, Hà Nội
Tôi trân trọng báo tin Đức Hồng Y: Trong buổi họp Cơ Mật Viện sáng hôm qua, 22.6.1987, Đức Thánh Cha đã nghị quyết phong thánh cho Các Chân Phúc Tử Đạo Việt Nam. Ngày lễ long trọng phong thánh sẽ cử hành nội trong tháng 6 năm tới, vào một nhật kì sẽ định sau. Xác tín rằng nghị quyết trên đây có tầm mức quan trọng đối với Cộng đoàn Công Giáo Việt Nam, tôi đến chia sẻ với Đức Hồng Y niềm hân hoan thiêng liêng, cũng như hợp ý trong Đại Lễ Tạ Ơn thế nào cũng được tổ chức ghi ân Thiên Chúa, đấng ban phát mọi ơn lành. Hồng ân đặc biệt hôm nay chắc chắn sẽ là nguồn khích lệ mỗi người cố gắng làm nhân chứng sống đời đức tin và bác ái trong xã hội Việt Nam. Rất hi vọng rồi ra một số đông đảo giám mục, linh mục và giáo dân Việt Nam có thể tới tham dự lễ nghi phong thánh. Tôi xin gửi lại Đức Hồng Y những cảm tình huynh đệ được bảo đảm chân thành trong Chúa Kitô.
Kí tên: Agostino Hồng Y Casaroli, Quốc Vụ Khanh
Rồi từ Việt Nam, ĐHY Chủ tịch HĐGMVN cũng không chậm trễ đáp từ:
Kính gửi: Đức Hồng Y A. Casaroli
Quốc Vụ Khanh
Điện Vatican
Hà Nội, 18 giờ 20 phút, ngày 26.6.1987
Con đã nhận điện văn của Đức Hồng Y. Toàn thể Giáo Hội Việt Nam vui mừng khi nghe tin Đức Thánh Cha nghị quyết phong Hiển thánh cho Các Chân Phúc Tử Đạo Việt Nam. Giáo Hội chúng con dâng lời thành kính cảm tạ sâu xa và hi vọng có thể đến đông đảo tham dự lễ nghi. Chúng con tri ân Thiên Chúa và cầu nguyện cho Đức Thánh Cha. Xin Đức Hồng Y chuyển đạt lên Ngài lòng chúng con khăng khít trìu mến. Với Đức Hồng Y, chúng con dâng lời trân trọng biết ơn và cầu chúc chân thành.
Hồng Y Giuse Maria Trịnh Văn căn
Tổng Giám mục Hà Nội
Sự kiện pháp lí sau cùng là ngày 30.6.1987, bằng Văn thư số 196.245, Đức Tổng Giám mục Eduardo Martinez Somalo, hồi đó là Tổng Giám đốc Thường vụ Giáo Hội (Sostituto, ngang hàng với Tổng trưởng Nội vụ) chính thức thông báo cho ba Cáo thỉnh viên Việt Nam, Pháp, Tây Ban Nha là nhật kì phong thánh đã được Đức Thánh Cha xác định là ngày 19.6.1988. Ngay trưa hôm đó, sau khi đã báo cáo cho hai Cáo thỉnh viên đồng nghiệp tin vui mừng này để hai vị lại đưa tin về cho hai HĐGM Pháp, Tây Ban Nha, linh mục Cáo thỉnh viên VN đã gửi điện văn sau đây bằng La ngữ trình lên Đức Hồng Y Chủ tịch Trịnh Văn Căn: Con rất vui mừng kính báo Đức Hồng Y tin: Ngày 19 Tháng 6 sang năm, đã được Tòa Thánh hôm nay ấn định là nhật kì chính xác để cữ hành Lễ Phong Thánh các Chân Phúc Tử Đạo Việt Nam.
Trước ngày đại lễ
1. Trong Vụ Án Phong Thánh Việt Nam, tất cả 117 Vị đã là Chân Phúc, đã được tôn vinh trong 4 đợt trước (những năm 1900, 1906, 1909 và 1951), đã có 4 phép lạ (bệnh nhân được chữa lành và được bác sĩ đoàn xác nhận. Trần Ngọc Thụ. Giáo Hội Việt Nam I. Vụ Án Phong Thánh, St. Michael Printing, USA., 1987, tr.48-54), chỉ còn việc làm lại hồ sơ, theo thủ tục hành chánh để nộp lên Bộ Phong Thánh. Bởi vì tất cả 117 Vị đều là Thánh Tử Đạo nên chỉ cần thêm một phép lạ duy nhất, hay là còn có thể xin Tòa Thánh tha cho nữa. Vì là một đặc ân quá lớn lao, chúng tôi xin chính Đức Hồng Y Palazzini, trong tư thế Bộ trưởng Bộ Phong Thánh, đại diện cho hàng Giám mục Việt Nam, đứng tên xin Tòa Thánh tha điều kiện phép lạ. Lí do mạnh mẽ ủng hộ thỉnh nguyện này chính là sự thăng tiến kì diệu của Giáo Hội Việt Nam qua hơn 400 năm lịch sử hào hùng đã trình bày trước đây. Không thể giải thích sự thăng tiến đó ngoài Thiên định của Thiên Chúa: hơn 400 năm khai nguyên và phát triển hùng mạnh là một phép lạ triền miên.
2. Tin ngày phong thánh vừa được Đức Gioan Phaolô I I tuyên bố khác nào tiếng sấm động, vang ran khắp năm châu bốn bể! Tinh thần giáo dân tự nhiên nổi dậy như sóng cồn, chỗ nào cũng nghe bàn tán chuyện đi Roma dự lễ phong thánh. Ủy Ban Phong Thánh được thành lập cấp tốc. Ba lần các linh mục VN khắp thế giới về họp tại La Mã để hoạch định chương trình và phân phối công tác tỉ mỉ cho từng cộng đoàn, từng lục địa. Các khách sạn lớn chung quanh Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô đã được giữ hết chỗ một năm trước. Người ta dự đoán số người về tham dự tối đa là 5000. Ba tháng trước đại lễ, con số vọt lên 6 ngàn, rồi 7 ngàn, sau cùng là 8250 giáo dân VN từ 27 nước trên 4 lục địa Á châu, Âu châu, Mĩ châu và Úc châu….Từng đoàn người tuốn về các ga xe lửa và sân bay Ý Đại Lợi. Thêm vào đó, 560 linh mục, tu sĩ nam nữ tới Roma với tư cách riêng, hay là tháp tùng các đoàn thể của mình theo tư cách Tuyên úy. Các tiệm bán ảnh tượng chung quanh Tòa Thánh Vatican, các tiệm ăn, thấy toàn là dân áo dài và khăn xếp VN. Trên các nẻo đường nghe rõ tiếng con cháu Rồng Tiên thao thao bất tuyệt và gọi nhau ơi ới. Sao mà vui nhộn đến thế! Tất cả rừng người này, chiều hôm Thứ Bảy (18.6.1988) sẽ kéo nhau về Quảng trường Thánh Phêrô để dự cuộc rước kiệu di hài Các Thánh Tử Đạo VN và dâng hoa kính Đức Mẹ.
Cuộc rước kiệu là một cảnh tượng hết sức tân kì và vô cùng ngoạn mục, nhất là trước con mắt người ngoại quốc. Họ trèo lên tường, lên đế cột đèn điện, lên ghế cá nhân để bàn tán, chiêm ngưỡng. Đây là công lao vượt mức trong việc chuẩn bị, may sắm, tập dượt, từ ca nhạc đến đoản kịch, nghi lễ…đủ mọi bộ môn theo truyền thống văn hóa dân tộc. Phải ca ngợi và thán phục tinh thần phục vụ tối đa của các giáo dân VN tại Mĩ châu trong dịp này. Từng đoàn qúy ông mặc áo thụng màu xanh, từng đoàn qúy bà mặc áo dài nhung, gấm màu đỏ; rồi đồng phục màu vàng của các ca đoàn, của 50 em thiếu nhi trong ban vũ đến từ Portland. Đấy là chưa kể đến các thiếu nữ trong đội lính thú thời xưa với binh phục nón cối xà cạp đỏ và Ban Văn Tế, đội chiêng trống, lọng chầu…với y phục nghi lễ Á Đông. Người bản xứ rất thích thú trước hoạt cảnh một vị hương chức trong y phục đại lễ cổ truyền với khăn xếp màu đỏ, cứ tiến một bước lại lui một bước, và trịnh trọng điểm một dùi trống lên mặt chiếc đại cổ (trống lớn) do hai chàng thanh niên vạm vỡ khiêng trên vai. Lúc 21 giờ đêm, từ Điện Vatican, chứng kiến cuộc rước kiệu này, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô I I đã cho lệnh mở cửa sổ Văn phòng để đích thân ban phép lành cho đoàn con VN đang diễn hành trên Quảng trường Thánh Phêrô.
3. Ngày hôm sau, Chúa Nhật 19.6.1988, biển người nói trên lại tập trung về Quảng trường Thánh Phêrô, chung hàng ngũ với 10 ngàn người Tây Ban Nha, gần 4 ngàn người Pháp và chừng 10 ngàn du khách thập phương cùng với giáo dân người Ý nghe tin đồn thổi cũng muốn đến dự lễ Phong Thánh Tử Đạo VN. Vì ở vào giữa Tháng 6, nghĩa là đã giữa mùa Hè, mặt trời mọc lên sớm, khí hậu khá nóng nực, do đó, để cho dễ thở và bớt mức độ oi ả, ĐứcThánh Cha đã đồng ý bắt đầu nghi lễ sớm hơn một giờ. Vào dự lễ hôm đó, mọi giáo dân VN phải đeo khăn quàng cổ in hình 117 Thánh Tử Đạo, để cho các đoàn thể dễ nhận ra nhau.
4. Trước khi tường thuật giai đoạn chung kết, chúng tôi xin kể lại đây một sự việc rất quan trọng đối với sự thành công của cuộc đại lễ: Đó là vấn đề tài chánh của Ban Tổ chức. Mỗi lần nhớ đến việc này, chúng tôi không khỏi ngậm ngùi xúc động trước sự quan phòng và lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Lí do hết sức hiển nhiên là Ban Tổ chức lúc ban đầu hoàn toàn tay không, chưa có ai dâng cúng một đồng nào. Giài quyết vấn đề này là một việc rất khó khăn, nhưng đồng thời lại rất thiết thực và rất cấp bách. Đi vay mượn các hội dòng ngoại quốc đã từng hoạt động bên Việt Nam là điều có thể, nhưng chạm lòng tự ái dân tộc, cho nên chúng tôi đề nghị vay chính Ngân hàng Tòa Thánh. Chúng tôi liều mạng đi thương thuyết và kí giấy giao kèo với nhân viên Ngân hàng vay 50 triệu tiền Ý (tương đương 30 ngàn Mĩ kim). Kí giấy vay tiền mà tay run cậm cập vì đã 3 đêm lo lắng không ngủ!
Quả thật, từ ngày cha sinh mẹ đẻ, chúng tôi chưa bao giờ dám táo bạo đến thế. Kí xong, chúng tôi lủi thủi đi ra chưa tới cửa Ngân hàng thì Đức ông De Bonis, người Ý (bây giờ đã làm Giám mục) từ đâu đuổi theo. Đức ông hỏi: “Cha làm gì mà tiêu xài với số tiền lớn như vậy?”. Hơi chạm tự ái, chúng tôi ngập ngừng chưa kịp trả lời, thì ngài lại nhấn mạnh: “Cha làm gì? Cha đừng dại lấy tiền ra vội, vì lấy ngày nào cha phải trả tiền lãi ngày đó, mượn 50 triệu ngày 1 đầu tháng thì 30 cuối tháng cha phải trả 53 triệu!”.
Chúng tôi buộc lòng phải dẹp tự ái thưa: “Dạ, đây không phải tiêu xài cá nhân con, nhưng là để lo chuyện tổ chức Đại lễ Phong Thánh 117 Chân Phúc Tử Đạo mà HĐGMVN đã trao phó cho con, và nay vụ án đã xong, đã được Đức Giáo Hoàng châu phê và tháng 6 sắp tới sẽ cử hành long trọng”. Đức Ông de Bonis nói: “Trước, tôi tưởng cha lo việc cá nhân, chứ bây giờ biết là chuyện phong thánh. Vậy cha cứ việc làm, tốn phí bao nhiêu, tôi sẽ chịu cho!”. Thật sự, ngài đã cho một số quan trọng.
Quả thực là một giấc mơ! Nhưng nếu mơ thì phải mơ ban đêm, chứ đâu có chuyện mơ giữa thanh thiên bạch nhật! Trước đấy ba bốn đêm, chúng tôi không ngủ vì lo sợ, bây giờ cũng ba bốn đêm, chúng tôi không ngủ vì ngỡ ngàng, như còn đang trong ảo mộng. Làm sao có chuyện kì diệu đến thế!
Ngày vinh quang
Từ sáng sớm, Quảng trường Thánh Phêrô đã đen nghịt dân chúng. Từ ba quốc gia, từng ngàn giáo dân tập trung về đây. Trước kia, họ không quen biết nhau, nhưng giờ phút này họ chào nhau, bắt tay nhau, vui cười với nhau, vì trong thâm tâm họ cùng một cảm nghĩ: tự hào vì tấm gương anh dũng, trung kiên, thành tín của tổ tiên mình.
Đúng chương trình, 8 giờ 30, Đức Thánh Cha và đoàn tháp tùng (28 Hồng Y, Giám mục, Linh mục) mặc đại phục màu đỏ đồng tế, từ trong Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô tiến ra quảng trường vĩ đại, giữa muôn vàn tiếng vỗ tay. Đức Gioan Phaolô I I luôn luôn giơ tay chào đón và chúc lành. Ca đoàn Sistina của Tòa Thánh hát Kinh Nhập lễ bằng La ngữ. Trước đó, Ca đoàn Tổng hợp VN từ Mĩ qua đã hát bài Ngày Vinh Thắng của Lm. Ngô Duy Linh, rồi trong thánh lễ bài Ca Khúc Trầm Hương của Dao Kim, cuối lễ bài Tiếng Nhạc Oai Hùng của Hải Linh. Những bản nhạc này vang dội hôm ấy ở giữa Thủ đô Giáo Hội có một ý nghĩa đặc biệt, vì được hát bằng tiếng Việt, tiếng nước ta.
Một sự kiện kì lạ là thánh lễ đang cử hành đẹp đẽ trang nghiêm thì tự nhiên bầu trời thay đổi. Một vài cơn mây đen nghịt từ đâu kéo tới và mưa bắt đầu nhỏ giọt. Từ trong thánh đường, người ta đã khiêng lọng ra để che phủ bàn thờ. Cả ngàn con tim, nhất là giáo dân VN, như thể đã bị ngừng đập, tất cả trăm người như một, thầm thĩ kêu van: Lậy Chúa, cả Giáo Hội chúng con, từ ba bốn trăm năm, đã mong chờ ngày hôm nay và mong được trông thấy ngày này huy hoàng trọng thể, xin Chúa cất mọi trở ngại, để danh Chúa được thể hiện nơi các Thánh Tử Đạo chúng con! Quả thật, đám mây đen sau mấy phút đã bị luồng gió thổi đi xa, và trời thanh quang lại xuất hiện như trước.
Lễ nghi phonh thánh bắt đầu sau Kinh Thương Xót. Đức Hồng Y Palazzini, Bộ trưởng Bộ Phong Thánh, cùng với luật sư của Bộ và 3 Cáo thỉnh viên Việt, Pháp, Tây Ban Nha ra trước bàn thờ chính thức xin Đức Thánh Cha cử hành đại lễ. Toàn thể cử tọa, theo lệnh viên chức nghi lễ, đều quỳ hát Kinh Cầu Các Thánh, xin sự trợ giúp của Thần Thánh trên trời trước khi nghe tuyên xưng 117 Vị Thánh mới.
Sau đó Đức Hồng Y Palazzini trở lại trước bàn thờ và tuyên đọc:
Kính thưa Đức Thánh Cha, Giáo Hội là Mẹ, xin Đức Thánh Cha ghi tên các vị sau đây:
Chân Phúc Anrê Dũng lạc, Linh mục,
Tôma Thiện và Emmanuelê Phụng, Giáo dân.
Girolamô Hermosilla và Valentinô Berrio – Ochoa, hai Giám mục Đa Minh và 6 Giám mục khác,
Teophan Vénard, Linh mục Hội Thừa Sai Ba Lê, và 105 Bạn Tử Đạo Việt Nam, vào sổ bộ Các Thánh và được các giáo hữu kêu cầu bằng danh xưng Hiển Thánh.
Kính thưa Đức Thánh Cha,
Trên mảnh đất gieo nhiều hạt giống đẫm máu, mảnh đất đó càng phát sinh nhiều Vị Tử Đạo, và rồi hạt giống đó sẽ kết thành mùa lúa vàng cho Giáo Hội. Các Thánh Tử Đạo chết đi càng là chứng nhân cho Chúa Kitô hơn là lúc còn bình sinh. Ngày nay các ngài vẫn còn đang nói, vẫn còn giảng thuyết. Miệng lưỡi tuy im bặt, nhưng bao nhiêu sự việc còn đang vang dội sâu xa.
Lời suy niệm trên đây của Thánh Augustinô áp dụng trong niên lịch phụng vụ Ngày 19 Tháng 6, lễ kính hai Thánh Gervasiô và Protasiô, tử đạo Thành Milan, hôm nay có thể trưng lại vì rất thích hợp với niên hiệu và lễ nghi, để tôn vinh 117 Vị Thánh khác cũng là huynh đệ trong Đức Tin và trong tử nạn: trước đây, suốt thời gian từ 1745 tới 1862, đã hi sinh tính mạng tại Việt Nam trong vùng Đông Nam Á châu, hồi đó gọi là Tonkin, An Nam và Cocincina. Máu của các ngài, cũng như máu của từng ngàn anh chị em khác, hôm nay đã kết thành mùa luá vàng cho Giáo Hội Việt Nam.
Là cha mẹ trong Đức Tin, 8 Vị Giám mục Pháp và Tây ban Nha đã sinh các vị khác trong Chúa Kitô, y như lời Thánh kinh (1Cr.4,15), các vị đã là nhân chứng xứng đáng theo lời mình rao giảng bằng khổ hình, bằng Thập giá, và theo gương Chúa Kitô, vị mục tử tối cao nhân hậu, các ngài thật là gương mẫu cho đoàn chiên (1Ph.5).
50 linh mục, 13 Âu châu, 37 VN, cùng đứng trong hàng ngũ chăn chiên thuyết giảng lời Chúa và cùng chịu xiềng xích lao tù, đã lấy xương máu để hoàn tất nghĩa vụ thi hành các bí tích, đúng là những cộng tác viên của hàng Giám mục (LG, số 28), tức là những người phân phát máu Con Chiên vô tội, cũng là máu đã thánh hoá bản thân các ngài. Sau hết, 59 giáo dân thuộc nhiều tầng lớp xã hội, hầu hết là những gia trưởng, một số là thầy giảng giáo lí, hồi xưa trong các gia đình, trong các cộng đoàn đã sống tốt lành, đã là những chứng nhân cho Bí tích Thanh tẩy bằng nước, bằng Thánh Linh và bằng lửa (Mt.3,11).
Kính thưa Đức Thánh Cha,
Con số 117 vị này sắp được Đức Thánh Cha nghị quyết đưa lên hàng danh dự và được tôn phong phẩm hàm Các Thánh Tử Đạo, được toàn thể Giáo Hội tôn kính. Với các ngài, cũng như với con cháu các ngài, giờ đây văng vẳng dội lại lới Thánh Phêrô khuyên nhủ: Nếu ai trong anh em phải chịu khổ hình, vì mình là Kitô hữu, thì đừng có xấu hổ thẹn thùng, nhưng phải hiên ngang tôn vinh Thiên Chúa vì danh hiệu đó (1Ph.4,16).
Trong quảng trường linh thiêng này, bên cạnh mồ vị Tiên chủ các Thánh Tông đồ đang hiện diện hơn 8 ngàn giáo dân Việt Nam từ khắp năm châu bốn bể tập trung về đây, họ như đang cầm cành thiên tuế ngước mắt nhìn lên các vị đồng hương tiên tổ sắp đón nhận vòng hoa chiến thắng dành cho các vĩ nhân anh tài. Chung quanh họ còn có gần 10 ngàn giáo dân tây Ban Nha và hơn 3 ngàn giáo dân Pháp. Tất cả là anh em kết nghĩa trong Chúa Kitô, cũng như giáo dân hai quốc gia này là anh em của những vị Thừa sai hồi xưa đã mang danh Chúa Giesu có thần lực cứu vớt nhân loại (Cv.4,12) rao giảng trên khắp lãnh thổ xa xăm Việt Nam. Trong số đó, có những người con của Thánh Đa Minh, 34 vị vừa Tây Ban Nha vừa VN hồi xưa đã nhập Dòng Anh Em Thuyết Giáo theo đúng danh xưng của họ. Ngoài ra, còn có 10 thành viên của Hội Thừa Sai Ba Lê.
Trên những địa hạt hồi xưa được trao phó cho hai hội dòng thừa sai nói trên, từ năm 1960 đã thành lập 25 giáo phận. Số người Công Giáo hiện nay xấp xỉ 7 triệu giáo dân. Tất cả cộng đoàn này, trong cũng như ngoài nước, đang tiến bước hùng mạnh, sát cánh bên nhau, họ phấn khởi đi về Tổ quốc trường sinh vĩnh cửu. Là vì họ xác tín vào lời giáo huấn của Thánh Phaolô: Từ nay được cả khối chứng nhân đông đảo như thế nâng đỡ, họ kiên trì chấp nhận cuộc thi đua đã bắt đầu. Từ nay nhìn lên Chúa Giêsu, vị tiên phong ban phát Đức Tin hoàn hảo, thay vì hưởng niềm hoan lạc vẫn có, Ngài đã giang tay ôm lấy Thánh Giá và hiện giờ đang ngự bên hữu Tòa Thiên Chúa (Heb,12,1-2).
Đức Hồng Y vừa đọc xong lời thỉnh nguyện, và Kinh Cầu Các Thánh vừa chấm dứt, toàn thể dân chúng đứng lên hợp ý với Đức Thánh Cha, ngài kết thúc Kinh Cầu Các Thánh bằng lời nguyện: Lậy Chúa nhân từ, xin nghe lời dân Chúa cầu xin và xin chiếu dọi ánh sáng của Thần Linh Chúa vào tâm trí chúng con, để việc phụng thờ cùa chúng con làm đẹp lòng Chúa và cho Giáo Hội được thêm phát triển. Nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.
Toàn thể cộng đoàn dân Chúa vẫn đứng nghiêm chỉnh. Đức Thánh Cha lại ngồi trên ngai và long trọng đọc công thức phong thánh:
Để tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi chí thánh, để phát huy đức tin Công Giáo và củng cố đời sống Kitô hữu, với quyền lực của Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta, của hai Thánh Tông đồ Phêrô, Phaolô và của riêng tôi, sau khi đã suy nghĩ chin chắn, cũng như đã nhiều lần cầu xin ơn trợ giúp của Thiên Chúa, đã tham khảo ý kiến của nhiều Chư huynh Giám mục, tôi quyết định tuyên bố:
Các Chân Phúc: Anrê Dũng Lạc, Linh mục,
Tôma Thiện và Emmanuelê Phụng, Giáo dân,
Girolamô Hermosilla và Valentinô Berriô – Ochoa, hai Giám mục Dòng Đa Minh và 6 Giám mục khác,
Têophan Vénard, linh mục Hội Thừa Sai Ba lê và 105 Bạn Tử Đạo Việt Nam.
là những Vị Thánh và các ngài được liệt kê vào sổ các Thánh. Tôi cũng quyết định rằng giáo hữu trong toàn thể Giáo Hội sốt sắng mừng kính các Ngài như các Thánh Tử Đạo. Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen.
Từ trên cao mặt tiền Vương Cung Thánh đường Thánh Phêrô, một bức tranh thật lớn, dài 4 thước, rộng 3 thước 20, đã họa đủ số 117 Thánh Tử Đạo, từ từ được mở ra giữa muôn vàn tiếng vỗ tay hò vang. Đại phong cầm của Ca đoàn Sistina cử bài nhạc rộn rã ca ngợi và tri ân Thiên Chúa. Từ Quảng trường Thánh Phêrô, lễ nghi phong thánh được tiếp vận trực tiếp về Việt Nam. Đài Vô tuyến Truyền thanh Truyền hình của Chính phủ Ý, liên tục trong 3 tiếng đồng hồ, đã tường thuật tất cả nghi lễ đi khắp lãnh thổ nước Ý. Nhiều người trong đoàn giáo dân Việt Nam, nhất là các cụ già, đã xúc động và rút khăn lau nước mắt, vì cảm thấy vinh hạnh, sung sướng được là con cháu các vị anh hùng. Trong suốt thời gian lưu lại Roma, Chúa Quan Phòng cũng đã ban ơn lành, gìn giữ hơn 8 ngàn giáo dân Việt Nam, không một ai đau ốm hay bị tai nạn nào; ai cũng tươi cười, vui vẻ và phấn khởi.
Kết
Phần chúng tôi, trong tư thế Cáo thỉnh viên Vụ Án Phong Thánh, sau khi hồi tưởng lại:
– Việc được ủy nhiệm làm Cáo thỉnh viên từ ĐHY Giuse Trịnh Văn căn, Chủ tịch HĐGMVN,
– Việc hoàn tất các tài liệu cần thiết và việc chuyển giao mọi tài liệu lên Bộ Phong Thánh với đầy đủ các thủ tục theo Giáo luật,
– Việc được Cơ Mật Viện bỏ phiếu “Thuận” và việc được Đức Giáo Hoàng, với thẩm quyền tối cao, châu phê,
– Việc được Chúa Quan Phòng, cuối cùng, đã cho phương tiện tài chánh để trang trải chi phí tổ chức ngày đại lễ,
Chúng tôi đi đến kết luận nghiêm chỉnh và thành tín rằng: Thiên Chúa muốn cho các Chân Phúc Tử Đạo Việt Nam được vinh danh trong thời đại này, chứ không phải thời đại nào khác.
Thật vậy, từ trời cao thăm thẳm, từ ngàn ngày xa xưa, cũng như mỗi ngày thường xuyên hiện tại, tấm gương can trường hi sinh của các tiền nhân tử đạo VN ví như những ngọn đèn hải đăng vĩnh viễn, vượt không gian và thời gian, tỏa sáng trên khắp các nẻo đường đất nước Việt Nam.
Gương sáng về sự can trường và lòng hi sinh của các tiền nhân Tử Đạo VN đã soi chiếu tới:
– Các Tòa Giám mục, nơi đây, phần đông các vị chủ chăn, trong một quá khứ chưa xa, đã bị quản thúc tại gia, không có thể đi kinh lí, thăm hỏi các giáo đoàn trong giáo phận của mình. Nhưng các vị đã là những tảng đá sắt kiên cố, dù cho sóng biển có đập mạnh, gầm thét, các ngài vẫn trung kiên bền vững.
– Các xứ đạo, nơi đây, các linh mục, là những đàn em trong dòng giống Dũng Lạc, Lê bảo Tịnh, đêm ngày vẫn kiên cường trong phận sự phục vụ dân Chúa.
– Các tu viện, thuộc đủ mọi màu áo và đường lối tu hành (vì thời cuộc, đôi khi phải đã đơn giản hóa tu phục), nhưng tất cả vẫn quyết tâm đóng góp tích cực trong công cuộc truyền giáo và phục vụ đồng bào.
– Các gia đình Công Giáo, trong khí phách con cháu các Thánh Tử Đạo anh dũng, đã duy trì bàn thờ trong nhà, tối sớm tập họp kinh nguyện, xin ơn kiên trì trong đời sống đức Tin, Cậy, Mến và trở thành những công dân lương thiện. Họ là những người đã lấy tên cácThánh Tử Đạo để đặt cho chính mình, cho con cái mình, với hoài bão là tiếp tục bảo tồn cái nền giáo dục linh thiêng đạo đức và truyền thống cao đẹp của những anh hùng Emmanuel Lê Văn Phụng, những Tôma Trần Văn Thiện, những bà hiền mẫu Lê Thị Thành.
Roma 1998
Đức ông Vinh sơn Trần Ngọc Thụ
2021
Những Phép Lạ nhờ lời cầu bầu của các Thánh Tử Đạo Việt Nam được Tòa Thánh công nhận
Những Phép Lạ nhờ lời cầu bầu của các Thánh Tử Đạo Việt Nam được Tòa Thánh công nhận
Những Phép Lạ được trình bày sau đây không phải do mỗi cá nhân từng vị Thánh Tử Ðạo đã làm, nhưng là khi giáo dân, Việt Nam cũng như ngoại quốc, cầu khẩn, họ cầu một cách tổng quát: “Vì công nghiệp các Thánh Tử Ðạo Việt Nam” hay là “Các Thánh Tử Ðạo Việt Nam, cầu cho chúng tôi”. Do đó những phép lạ nói đây mang tính cách tập thể, và giá trị được tuyên bố là giá trị chung cho toàn khối các Thánh Tử Ðạo Việt Nam.
Ba phép lạ đầu tiên (số 1, 2, 3 dưới đây) là những phép lạ chính thức, nghĩa là đã được Tòa Thánh nghiên cứu với các Ủy Ban Bác Sĩ liên hệ, và đã công nhận: do đó có giá trị cho toàn khối 90 vị Tử Ðạo (được phong Chân Phước trong đợt I: 1900; đợt II: 1906; đợt III: 1909). Còn lại 27 vị (2 vị đợt I: 1900 và 25 vị đợt IV: 1951), vì đã có bằng chứng hiển nhiên các ngài đã chết vì đức Tin: vì vậy Tòa Thánh đã tha việc đòi hỏi phép lạ trước khi tôn phong Chân Phước.
Còn một số phép lạ khác (số 4) và các phép lạ do một vài cá nhân Tử Ðạo (hai Giám Mục Valentinô Berrio Ochoa và Melchor Garcia Samedro), mặc dầu không được Tòa Thánh lập Ủy Ban điều tra chính thức và công nhận, tuy nhiên vẫn là những sự kiện siêu nhiên vì đã cứu chữa rất nhiều bệnh nhân một cách lạ thường, và còn tiếp tục trong thời gian hiện tại.
- Phép Lạ: Bà Margarita Maria Goldsmit, người Anh, được khỏi bệnh: ngày 4/04/1853:
Năm 1849, sau một lần đi tắm, bà Margarita Maria Goldsmit tự nhiên bị lạnh cả người và cảm thấy đau đớn suốt trong mấy tháng trời. Sang năm 1850, thấy có phần thuyên giảm, bà theo chồng sang Paris. Nhưng rồi chính ở Paris cơn bệnh trở lại trầm trọng. Bác sĩ Skrimpton, Bác sĩ tư của gia đình, từ London sang hiệp lực với 3 vị Bác sĩ người Pháp, nhưng không làm sao cho bà đi trong nhà. Nằm trên giường không thèm ăn, không thèm ngủ mãi cho tới cuối năm 1852 phải áp dụng cả đến phương pháp dùng quang tuyến đốt một phần tế bào bên trong, nhưng càng làm cho bệnh nhân suy nhược!
Bà Goldsmit là một thiếu phụ ngoan đạo, năng xin rước lễ. Sau cùng, bỏ tất cả các thứ thuốc trần gian, bà nghe lời cha giải tội làm tuần 9 ngày kính các vị Tử Ðạo thuộc nhóm Thừa Sai Paris, trong đó có nhiều vị Việt Nam, mà Ðức Gregorio XVI vừa mới tuyên bố đưa lên bậc Ðáng Kính (năm 1840 và 1843). Trong suốt thời gian 9 ngày đặc biệt đó, bà đeo trên mình mẫu ảnh, trong đó đựng hài cốt mấy vị Tử Ðạo, bắt đầu từ hôm 27/03/1853. Ðêm sau cùng bệnh tình càng gia tăng, nhưng sáng hôm sau, ngày 4/04/1853, sau khi rước lễ, bà cầm trí tạ ơn Chúa, trong tay nắm chặt mẫu ảnh mang di tích các vị Tự Ðạo.
Tự nhiên bà cảm thấy nôn nao, nghe như có tiếng bên trong thúc bà ngồi dậy, bà nhận chuông gọi y tá, rồi bà đòi ăn vì cảm thấy đói sau bao nhiêu ngày tháng kiêng cử. Cô y tá bưng thịt, bưng bánh đưa cho bà ăn. Ăn xong bà đòi lấy xe đưa bà đến nhà thờ dự lễ: trên xe bà không còn thấy diễn lại những lần chân tay co rút đau đớn và nhức nhói như hồi nào! Trong nhà thờ bà đứng lên ngồi xuống một cách bình thản như mọi người khác. Về tới nhà bà không cảm thấy mệt mỏi: cuộc đời đã tươi sáng trở lại, vì từ đó cơn bệnh đã hết hẳn!
- Phép Lạ: Nữ Tu Saint Bernard, nhũ danh Eleonore Rogé được chữa lành ngày 23/08/1854:
Là một nữ tu chuyên nghề y tá trong bệnh viện thành phố Reims bên Pháp, năm 32 tuổi chị mắc chứng bệnh trẹo xương bên chân trái. Từ tháng 5 năm 1850 cho tới tháng 4 năm 1854, chị bị giải phẫu tất cả 7 lần, và lần thứ 8 (9/04/1854) là trầm trọng hơn cả. Bác sĩ bắt chị phải đi một thứ giầy ống, và sau đó còn phải bó bột ống chân. Ngày 25/05/1854 chị mệt hẳn người, và chứng đau gân nơi ống chân trái lan tới cả bộ gân trên đầu, đau nhức đến mức độ chị lịm đi một hồi lâu, ai cũng tưởng là chị đã chết! Thực ra chị phải nằm suốt 15 ngày đêm trong tình trạng đó. Chính lẽ, phải đưa chị ra khỏi bệnh viện, đem về nhà Dòng để chuẩn bị ra đi vĩnh biệt, nhưng chị năn nỉ ở lại chờ vận mệnh Chúa sẽ gửi tới.
Ðúng thế! Tự nhiên một Linh Mục bạn gia đình đến thăm và từ giã vì sắp sửa tới ngày nhập chủng viện Hội Thừa Sai Paris và lên đường truyền giáo. Một tháng sau vị Linh Mục đó viết thư đưa tin cho chị: trong Hội Thừa Sai đang vận động cuộc phong Chân Phước cho các vị Tử Ðạo thuộc Hội Dòng xưa kia ở Trung Hoa và Việt Nam, và đề nghị chị nên làm tuần 9 ngày cầu xin, Linh Mục đó hứa sẽ hợp ý cùng với Hội Dòng Thừa Sai cầu nguyện cho chị. Tuần cửu nhật bắt đầu hôm 15/08/1854, kính Ðức Mẹ Nữ Vương các Thánh Tử Ðạo và kính tất cả những vị Thừa Sai và Giáo Dân đã chết vì đức tin.
Trong khi đó chân của chị mỗi ngày càng sưng phồng lên và người ta thấy rõ nốt bầm máu lan rộng, bệnh nhân không ngủ được. Nhưng sáng hôm 23 tháng 8/1854, ngày cuối cùng tuần cửu nhật, chị Saint Bernard đòi xuống nhà thờ, một bên nách chống nạng, còn bên kia nhờ một chị em nâng đỡ, chứ không dám để chân trái chạm tới đất. Chị ngồi vào chỗ, nhìn thẳng lên nhà tạm và tượng Ðức Mẹ, chị cảm thấy có một biến chuyển trong mình, nhưng không làm sao diễn tả cho chính xác, rồi chị tự nhủ: “Có lẽ nào mà mình được khỏi, nhờ lời cầu khẩn của bằng ấy vị Tử Ðạo: Lạy Chúa, vì Chúa mà các ngài đó đã đổ hết máu đào, lạy Mẹ, chính Con Mẹ mà các ngài đã chịu cực hình”. Xong lễ, chị ra khỏi nhà thờ lúc 8 giờ sáng: một mình chị chống nạng hai bên nách và thử lê chân trái chạm tới đất. Chị tiếp tục làm hết tuần cửu nhật. Vào buổi trưa, thay vì nạng, chị di chuyển bằng một cây gậy.
Lúc 15g30, chị đi hát kinh chiều với cộng đoàn, ngồi bên bà Giám Ðốc. Về cuối giờ kinh chị cảm thấy nơi ống chân tự nhiên giật mạnh một cái đau nhói, nhưng rồi êm luôn. Chị Saint Bernard một mình đứng dậy, hai tay không mang gì hết, chị tiến thẳng về tượng Ðức Mẹ xa cách đó chừng 20 thước và quỳ tạ ơn. Toàn thể cộng đoàn ngơ ngác nhìn chị với vẻ ngạc nhiên, nhưng hết sức vui mừng phấn khởi, tất cả đều đứng lên theo bà Giám Ðốc Tu Viện và đồng nhịp họ lớn tiếng hát bài Magnificat tạ ơn Thiên Chúa!
- Phép Lạ: Cô Dolores Conflans được chữa khỏi chứng bệnh tê liệt xương sống: 8/06/1888, tại VIC (Tây Ban Nha):
Cô Dolores Conflans, quê tại thành VIC, năm 18 tuổi, bị tê liệt xương sống phải nằm suốt trong 11 năm liền. Ðau tới mức độ lan ra cả xương bả vai và hai cánh tay. Con người gầy còm, vì không ăn uống được nhiều chỉ còn da bọc xương. Mỗi lần mệt mỏi cô muốn cử động mấy đầu ngón tay là cả một công trình, vì phải mất lâu thời giờ. 5 bác sĩ thay nhau khám bệnh và điều trị, tuy nhiên không làm sao cho bệnh nhân có khả năng tiến đi được mấy bước. Bác sĩ Torres, năm1879, khi mới bắt đầu đến chữa đã tuyên bố: thân cô Dolores là “một vết thương cụ thể”, nói trúng hơn là “một huỷ bại toàn diện cơ thể” (leione materiale, o distruzione dell’ organo).
Do người ta khuyến cáo, cô yêu cầu được chở tới đền các vị Tử Ðạo Việt Nam, đang được chuẩn bị tôn phong Chân Phước đợt II (1906), nơi đây cô cầu xin ráo riết, nhất là cầu xin Thánh Linh Mục Amato, là vị đã sinh trưởng tại VIC, và trong đền các vị Tử Ðạo nói trên còn giữ hài cốt của ngài. Cô dự thánh lễ: vào lúc Linh Mục chủ tế chịu Mình Thánh Chúa, cô cảm thấy trong mình thoải mái dễ chịu, tự nhiên cô quỳ xuống đất, lúc ban đầu tay còn vịn vào chiếc ghế đằng trước, cô quỳ gối làm dấu Thánh Giá, và rồi cũng tự mình đứng lên cho tới hết giờ đọc Phúc Âm sau cùng.
Cô Dolores Conflans còn ở lại trong đền các vị Tử Ðạo, dự thêm một thánh lễ thứ hai, nghe giảng, rước lễ, rồi sang tu viện các Nữ Tu Ða Minh bên cạnh đền thờ, cô ăn sáng tại đây, và ở mãi cho tới 8 giờ tối. Buổi chiều hôm đó, cô đi lại thăm tu viện, và còn cầm đèn nến trong tay tham dự cuộc rước kiệu Thánh Thể hôm đó, 8/06/1888, được tổ chức trong sân tu viện như bất cứ một nữ tu bình thường khác vậy.
Bác sĩ Pellegrini, một trong 5 bác sĩ điều trị bệnh nhân, đã trở lại khám nghiệm các phần thân thể đau yếu hồi trước của cô Dolores Conflans, đã minh chứng: “Sau khi hội kiến với 4 Bác sĩ khác, chúng tôi không thể giải thích theo phương pháp y khoa tình trạng khỏi bệnh bất thường của cô Dolores Conflans”.
- Phép Lạ: Cô Adela Mac Master, ngày 4/09/1959, tại Mexicô D.F.:
Bị ung thư ở ngón tay giữa bàn tay trái: đầu tiên như một cái mụn mọc lên ở đốt cuối cùng ngón tay, mỗi ngày cứ phồng lên to như quả nhãn, cô Adela Mac Master cảm thấy nhức nhói lan ra khắp bàn tay, và là một cực hình mỗi lần phải cử động, hay lỡ ra bị va chạm vào đâu. Các Bác Sĩ công nhận chỉ còn một cách giải phẫu và cưa hẳn ngón tay. Nghe đến chuyện giải phẫu bệnh nhân rùng mình kêu khóc.
Ðể trấn an cô con gái cưng, ông thân sinh tự xuất thân làm “bác sĩ” bằng cách lấy thứ dầu Bengué thoa bóp ngón tay, rồi ông tự ý, khi băng bó, gói cả trên vết thương miếng vải di tích của Thánh Giám Mục Valentino Berrio Ochoa, tử đạo năm 1861 tại Hải Dương.
Sáng hôm 4/09/1959, cả gia đình đi nhà thờ dòng Ða Minh có ý xin lễ cầu cho cô “vì công nghiệp vị Thánh Tử Ðạo” nói trên. Nhưng Cha Giám Ðốc Tu Viện chỉ định ngày 27 tháng 9/1959 mới có thể dâng thánh lễ theo ý muốn gia đình, vì suốt thời gian trước đó đã có người khác dành chỗ cả rồi! Tuy nhiên, ngay chiều hôm đó cô Adela (23 tuổi) nhỏm dậy chạy đi tìm mẹ và cô em gái, cô la ó ầm ĩ: “Mẹ ơi, xem ngón tay con, hết đau rồi nè”. Cục ung thư biến đâu mất, và ngón tay trở về bình thường không thấy dấu vết gì nữa. Các Bác sĩ được mời đến khám nghiệm đều ngơ ngác trước sự kiện lạ lùng do quyền phép Chúa làm.
- Thánh Giám Mục Valentino Berrio Ochoa vẫn còn tiếp tục thi ân trong rất nhiều trường hợp các bệnh nhân được chữa lành mạnh:
Một đặc điểm là Thánh Giám Mục Valentino Berrio Ochoa vẫn còn tiếp tục thi ân trong rất nhiều trường hợp các bệnh nhân được chữa lành mạnh. Tại thành phố Bilbao (Tây Ban Nha) người ta đã mở cả một “Văn phòng Tôi Tớ Chúa: Berrio Ochoa” (Secretariado Berrio Ochoa Dominicos) và đã công bố một tài liệu về những phép lạ đã nhận được do sự bảo trợ của “Thánh Valentino Berrio Ochoa và các Bạn Tử Ðạo” nhân dịp kỷ niệm 100 năm sinh nhật của Ngài 1827-1927.
Trong tập tài liệu nói trên, có ghi lại một vài sự kiện như sau:
– Tính theo số những đơn đã xin đích danh và một mình Thánh Valentino Berrio Ochoa, từ tháng 6 năm 1908 tới tháng 5 năm 1985: được 116 phép lạ chữa lành bệnh nhân;
– Theo số đơn đã xin Thánh Valentino Berrio Ochoa và các Bạn Tử Ðạo: từ tháng 12 năm 1978 tới tháng 2 năm 1986: được 21 phép lạ tập thể (miraculum globale);
– Sau cùng, hai phép lạ được khỏi bệnh qua sự bảo trợ của Thánh Melchor Garcia Sampedro (Tử Ðạo tại Nam Ðịnh, 28/07/1858).
Trên thực tế là những bệnh nhân đã được lành mạnh và đã trở lại tri ân và ghi tên tuổi của mình, nhưng các phép lạ được nhắc tới trong mục số 4, và 5 không lập thành bản án điều tra theo thể thức giáo luật, như mấy phép lạ kể trên số 1, 2, và 3. Tuy nhiên sự kiện vẫn minh chứng lòng tôn sùng sâu rộng của giáo đoàn, nhất là giới bệnh nhân, dành cho các Thánh Tử Ðạo tại Việt Nam, cũng như minh chứng sự kiện Chúa Quan Phòng bảo đảm uy thế các ngài trước tòa thiên Chúa.
(Trích tập sách Vụ Án Phong Thánh
của tác giả Ðức Ông Vinh Sơn Trần Ngọc Thụ, xuất bản năm 1987, Hoa Kỳ)
2021
Bài giảng của Thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolo 2 trong đại lễ phong thánh Tử đạo Việt Nam
Bài giảng của Thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolo 2 trong đại lễ phong thánh Tử đạo Việt Nam
S.Giovanni Paolo II canonizza 117 martiri del Vietnam – 19.06.1988
BÀI GIẢNG
CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN-PHAOLÔ II
TRONG ĐẠI LỄ TÔN VINH HIỂN THÁNH
117 CHÂN PHƯỚC TỬ ĐẠO VIỆT NAM
TẠI RÔMA
NGÀY 19-06-1988
1- “Chúng tôi rao giảng Đức Ki-tô bị đóng đinh” (1Cr 1,23)
Mượn lời ấy của Thánh Phaolô Tông đồ, Giáo Hội Rôma hôm nay xin chào Giáo Hội tại Việt Nam, mà dẫu xa cách về địa lý, vẫn rất ư gần gũi với trái tim chúng tôi; đồng thời cũng xin chào toàn thể đất nước Việt Nam, và với tất cả lòng thương mến, cầu chúc quý quốc được mọi sự lành.
Tư tưởng đầu tiên, thân tình và âu yếm của tôi xin gởi đến hiền đệ quý yêu, Hồng y Giuse Maria Trịnh Văn Căn, Tổng Giám Mục Hà Nội và đến tất cả Giám Mục đoàn của Giáo hội Việt Nam, mà tôi cảm thấy là đang kết hiệp cách thiêng liêng với tôi trong lúc này. Cùng với các ngài, tôi xin chào các linh mục, các tu sĩ nam nữ, các giáo dân đang dấn thân vào hoạt động truyền giáo, mọi Ki-tô hữu của quốc gia mà trong lúc này, tôi cảm thấy gần gũi cách sâu xa và đặc biệt.
Tôi cũng ao ước kính chào các anh em thân yêu trong hàng Giám mục cùng đến với những nhóm tín hữu từ Tây Ban Nha, Pháp và Phi Luật Tân, các xứ sở mà qua họ, đã kết hợp với nhau trong ba thế kỷ phúc âm hóa những vùng đất ấy. Họ đang ở đây để tưởng niệm vô số huynh đệ thừa sai xuất xứ từ các quốc gia của họ.
Ngoài ra tôi cũng gởi lời chào đến các cha Đaminh thuộc tỉnh dòng Đức Mẹ Mân Côi, thành lập cách đây 400 năm, đến Hội Thừa sai Hải ngoại Paris; thuộc về hai gia đình dòng tu này là nhiều vị trong số các Giám mục và Linh mục mà hôm nay chúng ta tôn kính như những vị Tử đạo vì đức tin và vì rao giảng Tin Mừng.
2- Trong đại cộng đoàn Giáo Hội, tôi đặc biệt chào mừng các anh chị em Việt Nam thân yêu đến từ mọi phần của thế giới, từ Mỹ Châu và Á Châu, từ Úc Châu và từ mọi xứ Âu Châu. Tôi biết rằng anh chị em đang được thúc đẩy bởi ước vọng tôn vinh các huynh đệ tử đạo của mình nhưng cũng bởi nhu cầu tái xây dựng -chung quanh ký ức về họ- tình huynh đệ, mối thân hữu, niềm thương mến đang tràn ngập trái tim anh chị em, bởi lẽ tất cả anh chị em đều xuất phát từ cùng một tổ quốc. Trong các kỷ niệm được làm sống lại của mình, quê hương anh chị em đúng là cái mà anh chị em đang hướng về với tình yêu, nhung nhớ, với ước vọng được sống ở đây -nơi anh chị em đang cảnh kiều cư lưu tán- một giây phút hiệp thông chan chứa niềm hy vọng. Cùng với anh chị em công bố Đức Kitô chịu đóng đinh, hôm nay chúng tôi muốn tạ ơn Thiên Chúa vì chứng tá đặc biệt mà các vị Tử Đạo của Giáo Hội anh chị em đã bày tỏ với Người, dù họ là đông đảo con dân nước Việt hay là các vị thừa sai đến từ những xứ sở trong đó đức tin vào Chúa Kitô đã đâm rễ sâu rồi.
Truyền thống của anh chị em nhắc cho chúng tôi nhớ lại rằng câu chuyện tử đạo của Giáo Hội Việt Nam từ nguồn gốc rất bao quát và phức tạp. Từ năm 1533, nghĩa từ khởi thủy việc rao giảng Ki-tô giáo tại Đông Nam Á, Giáo Hội Việt Nam suốt ba thế kỷ đã chịu nhiều cuộc bách hại khác nhau vốn xảy ra liên tiếp, với một vài lúc ngưng nghỉ, y như những cuộc bách hại từng giáng xuống Giáo Hội tại Tây phương trong ba thế kỷ đầu. Đã có hàng ngàn Ki-tô hữu bị đưa tới pháp trường tử đạo, và nhiều hơn thế là những kẻ đã chết trên núi, trong rừng, nơi những vùng đất độc hại mà họ đã bị đày đến.
Làm sao nhớ tới tất cả họ? Cho dẫu có giới hạn vào những vị được phong thánh hôm nay, chúng ta cũng không thể dừng lại nơi mỗi một trong họ. Họ là 117 vị, trong đó có 8 Giám mục, 50 Linh mục, 59 giáo dân, giữa số này có một phụ nữ, A-nê Lê Thị Thành, mẹ của sáu người con.
Nhắc lại một hay hai khuôn mặt là đủ, như khuôn mặt của cha Vinhsơn Liêm, dòng Đaminh, chịu tử đạo năm 1773; ngài là người đầu tiên trong số 92 vị tử đạo có quốc tịch Việt Nam. Rồi một Linh mục khác, Anrê Dũng Lạc, có cha mẹ rất nghèo khổ và ngoại đạo; ngay từ nhỏ được giao cho một thầy giảng, ngài đã trở thành Linh mục năm 1823, làm quản xứ và thừa sai trong nhiều địa điểm khác nhau của xứ sở. Được cứu khỏi nhà tù hơn một lần, nhờ những món tiền chuộc được các tín hữu quảng đại trả, ngài vẫn nhiệt tâm mong chịu tử đạo. “Ai chết vì Đức tin –ngài nói– thì lên trời; trái lại chúng tôi cứ ẩn náu liên tục, tốn tiền đút lót cho những kẻ bách hại! Tốt hơn nên để cho chúng tôi bị bắt và chết”. Được một lòng nhiệt thành lớn lao và ân sủng Chúa nâng đỡ, ngài đã chịu trảm quyết tử đạo tại Hà Nội ngày 21-12-1839.
3- Bài Tin Mừng hôm nay đã nhắc cho chúng ta nhớ những lời Đức Kitô Giê-su đã dùng để loan báo cho các môn đệ mình về những cuộc bách hại mà họ sẽ chịu: “Hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết” (Mt 10,17-18). Đức Giê-su đã nói cho các Tông đồ và cho các môn đệ mọi thời; Người đã nói một cách hết sức thẳng thắn! Người đã không làm hiện ra trước mắt họ những hứa hẹn giả trá, nhưng trong sự toàn vẹn của chân lý vốn luôn đặc trưng cho các lời nói của mình, Người đã chuẩn bị họ đón nhận điều tồi tệ nhất: “Em sẽ nộp anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ” (Mt 10,21-22).
4- Tuy nhiên, Thầy Chí Thánh/Vị Thần Sư đã không để các môn đệ và các tín hữu của mình vô phương bảo vệ trước những cơn bách hại lớn lao: “Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói gì; không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em” (Mt 10,19-20).
Thần Khí thánh. Thần Khí sự thật. Người sẽ là sức mạnh cho sự yếu đuối của anh em. Với sức mạnh của Người, anh em sẽ nêu chứng tá.
Chính sự kiện anh em nêu chứng tá về Đức Kitô chịu đóng đinh, phải chăng không cần một sự khôn ngoan và một sức mạnh vượt trên các sức mạnh loài người?
Và phải chăng Thánh Tông Đồ đã không viết về Đức Ki-tô rằng Người bị “dân Do Thái coi là ô nhục và dân ngoại cho là điên rồ” (1Cr 1,23) ?
Đã xảy ra như thế thời các Tông Đồ. Điều ấy cũng đã lặp lại như thế trong các thời đại khác nhau của lịch sử, ở nhiều lúc và nhiều chỗ khác nhau. Cũng đã xảy ra như thế vào những thời kỳ bách hại tôn giáo nhắm đến các Ki-tô hữu Việt Nam.
Thành ra đã cần có sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa để công bố mầu nhiệm tình yêu ấy của Thiên Chúa, nghĩa là việc cứu rỗi thế gian nhờ Thập Giá: mầu nhiệm lớn lao và cùng lúc không thể hiểu được đối với loài người.
“Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1Cr 1,25).
Vì thế Thánh Tông Đồ đã viết: “Chúng tôi rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh”: Đấng Kitô -cụ thể trong mầu nhiệm Vượt qua của Người- là “sức mạnh và khôn ngoan của Thiên Chúa” (1Cr 1,23-24).
5- Chính vì thế hôm nay, chúng ta có trước mắt các vị Tử Đạo Việt Nam như những thợ gặt của Thiên Chúa mà Thánh Vịnh đã ám chỉ: “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 126[125], 5-6).
Dưới ánh sáng của những lời mầu nhiệm ấy, chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa đích thực của chứng tá lịch sử nơi các vị Tử Đạo của Giáo Hội Việt Nam. Với nước mắt của họ, hạt giống Tin Mừng và ân sủng đã có nơi mà ơn huệ Đức tin trổ sinh dồi dào: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24)
Các vị Tử Đạo Việt Nam khi “gieo trong nước mắt”, thật ra đã khởi sự một cuộc đối thoại sâu xa và mang tính giải thoát với dân chúng và văn hóa của quốc gia họ, bằng cách công bố trước tiên sự thật và tính phổ quát của niềm tin vào Thiên Chúa, ngoài ra còn đề xướng một bậc thang các giá trị và nghĩa vụ đặc biệt thích hợp với nền văn hóa tôn giáo của cả thế giới Đông phương. Dưới sự hướng dẫn của cuốn giáo lý tiếng Việt đầu tiên, các ngài đã làm chứng cho sự kiện là cần phải tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất, như vị Thiên Chúa độc nhất đã tạo dựng đất trời. Đứng trước các quy định cưỡng bức của chính quyền đối với việc thực hành Đức Tin, họ đã quả quyết mình có tự do tin, bằng cách khẳng định với lòng can đảm khiêm tốn rằng Ki-tô giáo là chính nghĩa duy nhất mà họ không thể rời bỏ, vì không thể bất tuân đấng chủ tể tối thượng: Đức Chúa. Ngoài ra các ngài còn mạnh mẽ tuyên bố ý chí của mình là trung thực đối với quyền bính của xứ sở, không chống lại tất cả những gì là công chính và lương thiện; các ngài đã dạy phải tôn trọng và thờ kính Tổ Tiên, theo phong tục của vùng đất mình, dưới ánh sáng mầu nhiệm Phục Sinh. Giáo hội Việt Nam, với các vị Tử đạo của mình và qua chứng tá đặc thù, đã có thể công bố nghĩa vụ riêng và ý chí riêng là không từ khước truyền thống văn hóa và các định chế pháp lý của xứ sở; trái lại, Giáo Hội đã tuyên bố và đã chứng tỏ rằng mình muốn nhập thể vào đó, bằng cách trung tín góp phần vào sự tăng trưởng đích thật của quê hương.
Do đó, những tranh chấp và những căng thẳng chính trị vốn đã nổi lên trong các quan hệ giữa Ki-tô hữu với chính quyền, những mối lợi của các tôn giáo khác, những lý do kinh tế và xã hội, việc không thấu hiểu tính siêu việt và tính phổ quát của đức tin, tất cả đã làm nên hỏa lò trần gian ấy, nơi đã bày tỏ sự thuần khiết và sức mạnh của chứng tá lạ lùng này.
6- Nhưng từ đoàn rước dài các vị Tử Đạo, từ những đau khổ và nước mắt của họ, “mùa gặt của Chúa” đã đến. Chính các ngài, những bậc thầy của chúng ta, đang cho tôi cơ hội thuận lợi lớn lao là được trình bày trước toàn thể Giáo Hội sinh lực và sự vĩ đại của Giáo Hội Việt Nam, sức mạnh, lòng kiên nhẫn và khả năng của Giáo Hội này để đương đầu với các khó khăn đủ loại và để công bố Đức Kitô. Chúng ta cảm tạ Chúa vì những gì mà Thần Khí đã sinh ra cách dồi dào giữa chúng ta!
Một lần nữa, chúng tôi có thể nói rẳng đối với anh chị em, những Ki-tô hữu Việt Nam, máu các Tử Đạo là nguồn ân sủng để tiến lên trong Đức Tin. Trong anh chị em, đức tin của Tổ Tiên chúng ta còn tiếp tục truyền sang các thế hệ mới. Đức Tin này vẫn là nền tảng cho sự kiên trì của tất cả những ai đích thực cảm thấy mình là người Việt Nam, trung thành với đất nước của họ, đồng thời vẫn muốn làm môn đệ chân chính của Đức Kitô. Mọi Ki-tô hữu đều biết rằng Tin Mừng kêu gọi tuân phục các định chế của loài người vì tình yêu đối với Chúa, kêu gọi làm điều thiện, ứng xử như những cá nhân tự do, tôn trọng mọi người, yêu thương anh em, kính sợ Thiên Chúa, tôn trọng chính quyền và và các định chế công cộng (x. 1Pr 2,13-17). Do đó, việc tìm kiếm thiện ích chung của quê hương là một nghĩa vụ chân thành của công dân Ki-tô hữu, trong niềm tự do công bố sự thật của Thiên Chúa, trong sự hiệp thông với các mục tử và các anh em cùng đức tin, trong ước vọng sống an bình với mọi người khác để thành tâm xây dựng thiện ích cho tất cả.
7- “Máu các Tử Đạo là hạt giống sinh Ki-tô hữu”.
“Hạt giống các Ki-tô hữu”: Ngoài hàng ngàn hàng vạn tín hữu trong các thế kỷ trước đã theo bước chân Đức Ki-tô, hôm nay còn có những người làm việc, đôi khi trong khắc khoải và quên mình, với tham vọng duy nhất là có thể bền gan trong vườn nho của Chúa như những tôi trung nắm được các của cải Nước Trời.
“Hạt giống các Ki-tô hữu”, họ là tất cả những ai mà hôm nay cũng thế, giữa dân tộc họ và vì chính nghĩa Thiên Chúa, đang cố gắng tìm hiểu ý nghĩa của Tin Mừng Đức Kitô và của thập giá Người, với bổn phận mà điều này bao hàm là làm việc và cầu nguyện cho Nước Cha trị đến trong mọi tâm hồn, và đặc biệt trong xứ sở, nơi mà Chúa đã kêu gọi họ sinh sống. Bổn phận ấy, hoạt động nội tâm thường xuyên và nghiêm ngặt ấy, đòi hỏi sự kiên trì và lòng trung thành chờ đợi của những kẻ biết rằng Thiên Chúa Quan Phòng đang làm việc với họ để khiến cho các nỗ lực và cả những khổ đau của họ nên hữu hiệu.
8- “Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa”. (Kn 3,1)
Sách Khôn ngoan đã công bố sự thật huy hoàng ấy, một sự thật đang tràn ngập với biết bao ánh sáng cái biến cố mà chúng ta cử hành hôm nay.
Phải! “Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa và chẳng cực hình nào động tới được nữa”. Xem ra những lời ấy không tương ứng với thực tế lịch sử: thật vậy, các vị Tử Đạo đã chịu những cực hình và cả đến mức khủng khiếp!
Nhưng tác giả được linh ứng đã quảng diễn rộng rãi tư tưởng của mình:
“Bọn ngu si coi họ như đã chết rồi; khi họ ra đi, chúng cho là họ găp phải điều vô phúc. Lúc họ xa rời chúng ta, chúng tưởng là họ bị tiêu diệt, nhưng thực ra họ đang hưởng an bình. Người đời nghĩ rằng họ đã bị trừng phạt, nhưng họ vẫn chứa chan hy vọng được trường sinh bất tử” (Kn 3,2-4).
Hỡi các Thánh Tử Đạo! Hỡi các Tử Đạo Việt Nam! Hỡi các chứng nhân cho chiến thắng của Đức Kitô trên tử thần! Hỡi các chứng nhân cho ơn gọi của con người là được bất tử!
Sách Khôn ngoan tiếp tục: “Sau khi chịu khổ đôi chút, Các Vị sẽ được hưởng ân huệ lớn lao, vì Thiên Chúa đã thử thách Các Vị và thấy Các Vị xứng đáng với Người. Người đã tinh luyện Các Vị như người ta luyện vàng trong lò lửa, và đón nhận Các Vị như của lễ toàn thiêu” (x. Kn 3,5-6)
Phải! Như của lễ toàn thiêu, kết hợp với hy tế Thập Giá của Đức Kitô. Thật thế, quả vậy, hỡi các Tử đạo Việt Nam, Các Vị đã công bố –đến hậu quả cùng cực– Đức Kitô bị đóng đinh, khôn ngoan và sức mạnh của Thiên Chúa. Chúng ta hãy hướng về Đức Kitô, Đấng làm cho chúng ta đạt được ơn Thiên Chúa cứu độ.
9- “Những ai trông cậy vào Người – vào Đức Kitô chịu đóng đinh và sống lại – sẽ am tường sự thật; những ai trung thành sẽ được Người yêu thương và cho ở gần Người, vì Người ban ân phúc và xót thương những ai Người tuyển chọn”. (x. Kn 3, 9)
Hỡi Các Vị – những người chịu tuẫn giáo! Hỡi Các Vị – những người được tuyển chọn!
Xin hãy nghe cho hết những gì sách Khôn ngoan nói về Các Vị: “Trong ngày phán xét, họ sẽ rực sáng như những tia lửa bén nhanh khắp rừng sậy” (Kn 3,7).
Như những tia lửa, như những chớp sáng chiếu soi… Xin hãy nghe cho hết những gì sách Khôn ngoan nói về Các Vị: “Họ sẽ xét xử muôn dân và thống trị muôn nước. Và Đức Chúa sẽ là vua của họ đến muôn đời” (Kn 3,17).
“Đức Chúa… Đức Kitô chịu đóng đinh và sống lại. Đấng đã đến thế gian…” – không phải “để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Người mà được cứu độ” (Ga 3,17).
Đức Kitô ấy! Các Vị đã tham gia vào thống khổ và thập giá của Người, như thế Các Vị đã thông phần vào việc cứu độ trần gian do Người thực hiện.
Ước gì mùa gặt của Các Vị kéo dài mãi trong hân hoan!
(Linh mục Phê-rô Phan Văn Lợi dịch từ nguyên văn tiếng Ý).
CANONIZZAZIONE DI 117 MARTIRI VIETNAMITI
OMELIA DI GIOVANNI PAOLO II
Domenica, 19 giugno 1988
http://w2.vatican.va/content/john-paul-ii/it/homilies/1988/documents/hf_jp-ii_hom_19880619_martiri.html
1. “Noi predichiamo Cristo crocifisso” (1 Cor 1, 23).
Con queste parole di san Paolo apostolo la Chiesa di Roma saluta oggi la Chiesa in Vietnam, che, se pur geograficamente lontana, è tanto vicina al nostro cuore; e saluta, nello stesso tempo, l’intera nazione vietnamita, alla quale, con tutto l’affetto, augura ogni bene.
Il mio primo, cordiale ed affettuoso pensiero va al caro fratello, il Cardinale Josep Marie Trinh Van Can, Arcivescovo di Ha Nòi ed a tutto il collegio episcopale della Chiesa vietnamita, che mi è caro sentire riunito spiritualmente intorno a me in questo momento. Con loro saluto i sacerdoti, i religiosi e le religiose, i laici impegnati nell’attività missionaria, tutti i fedeli cristiani di quella nazione alla quale mi sento, in questo momento, profondamente e particolarmente vicino.
Desidero anche salutare i cari fratelli nell’episcopato provenienti assieme a gruppi di fedeli della Spagna, dalla Francia e dalle Filippine, Paesi tra loro uniti da tre secoli nell’evangelizzazione di quelle terre. Sono qui per ricordare i numerosi fratelli missionari originari delle loro nazioni.
Invio inoltre un saluto ai padri domenicani della provincia del santo Rosario, fondata 400 anni fa, e all’Istituto delle Missioni Estere di Parigi; a queste due famiglie religiose appartengono molti tra i vescovi e i sacerdoti che oggi veneriamo come martiri della fede e della predicazione del Vangelo.
2. Nella grande comunità della Chiesa io vi saluto in modo speciale cari fratelli e sorelle vietnamiti venuti qui da tutte le parti del mondo, dall’America e dall’Asia, dall’Australia e da tutti i Paesi d’Europa. So che siete animati dal desiderio di onorare i vostri fratelli martiri ma anche dal bisogno di ricostruire attorno alla loro memoria la fraternità, l’amicizia, l’affetto di cui i vostri cuori sono colmi, dal momento che voi tutti siete originari dalla stessa patria. Ravvivando i vostri ricordi, è verso la vostra patria che voi rivolgete con amore, con nostalgia, con il desiderio di vivere qui, voi che vi trovate nella diaspora, un istante di comunione ricco di speranza. Proclamando con voi il Cristo crocifisso, vogliamo oggi rendere grazie a Dio per la particolare testimonianza che gli hanno offerto i martiri della vostra Chiesa, siano essi stati i molti figli e figlie del Vietnam o i missionari venuti da Paesi nei quali la fede in Cristo aveva già posto le sue radici.
La vostra tradizione ci ricorda che la storia del martirio della Chiesa vietnamita dalle sue origini è ben più ampia e più complessa. Dal 1533, cioè dall’inizio della predicazione cristiana nel sud-est asiatico, la Chiesa in Vietnam ha subito, nel corso di tre secoli, diverse persecuzioni che si sono succedute, con qualche tregua, come quelle che hanno colpito la Chiesa in Occidente nei primi tre secoli di vita. Ci furono migliaia di cristiani mandati al martirio, e moltissimi sono coloro che sono morti sulle montagne, nelle foreste, nei territori insalubri dove erano stati esiliati.
Come ricordarli tutti? Anche se ci limitassimo a quelli canonizzati oggi, non potremmo soffermarci su ciascuno di loro. Sono 117, tra cui otto vescovi, cinquanta sacerdoti, cinquantanove laici, e tra di essi troviamo una donna, Agnese Le Thi Thành, madre di sei bambini.
È sufficiente richiamare una o due figure, come quella del padre Vincent Liem, domenicano, mandato al martirio nel 1773; è il primo di 96 martiri di nazionalità vietnamita. E poi un altro sacerdote, Andrè Dung-Lac, i cui genitori, pagani, erano poverissimi; affidato dall’infanzia ad un catechista, diventa prete nel 1823, e fu parroco e missionario in diverse località del Paese. Salvato dalla prigione più di una volta, grazie ai riscatti generosamente pagati dai fedeli, desiderava ardentemente il martirio. “Chi muore per la fede” diceva “sale in cielo; al contrario, noi che ci nascondiamo continuamente, spendiamo del denaro per sottrarci ai persecutori! Sarebbe molto meglio lasciarci arrestare e morire”. Sostenuto da un grande zelo e dalla grazia del Signore, subì il martirio della decapitazione ad Hanoi il 21 dicembre 1839.
3. Il Vangelo di oggi ci ha ricordato le parole con le quali Cristo Gesù ha annunciato ai suoi discepoli le persecuzioni che avrebbero subito: “Guardatevi dagli uomini, perché vi consegneranno ai loro tribunali e vi flagelleranno nelle loro sinagoghe; e sarete condotti davanti ai governatori e ai re per causa mia, per dare testimonianza a loro e ai pagani” (Mt 10, 17-18). Gesù ha parlato agli apostoli e ai discepoli di tutti i tempi; ha parlato con grande franchezza! Non ha fatto baluginare davanti a loro delle false promesse ma, nella pienezza della verità che caratterizzava sempre le sue parole, li ha preparati al peggio: “II fratello darà a morte il fratello e il padre il figlio, e i figli insorgeranno contro i genitori e li faranno morire. E sarete odiati da tutti a causa del mio nome; ma chi persevererà sino alla fine sarà salvato” (Mt 10, 21-22).
4. Tuttavia il divino Maestro non ha lasciato i suoi discepoli e i suoi fedeli indifesi di fronte alle grandi persecuzioni: “Quando vi arresteranno non preoccupatevi di ciò che direte; non sarete voi a parlare; lo Spirito di vostro Padre parlerà per voi” (Mt 10, 19-20).
Lo Spirito santo. Lo Spirito della verità. Egli sarà la forza per la vostra debolezza. Con la sua forza voi darete testimonianza.
Il fatto stesso che dobbiate dare testimonianza di Cristo crocefisso, non necessita forse una saggezza e una forza superiori alle forze umane?
E non è forse a proposito di Cristo che l’Apostolo scrive che è considerato “scandalo secondo gli ebrei, stolto secondo i greci?” (1 Cor 1, 23).
Così avvenne ai tempi degli apostoli. Così ciò si ripete nelle diverse epoche della storia, in tempi e luoghi diversi. Così avvenne anche ai tempi della persecuzione religiosa contro i cristiani vietnamiti.
Era dunque necessaria la forza e la saggezza di Dio per proclamare questo mistero dell’amore di Dio, cioè, la redenzione del mondo per mezzo della croce: il mistero più grande ed, allo stesso tempo, umanamente inconcepibile.
“Poiché ciò che è stolto in Dio è più saggio degli uomini, e ciò che è debole in Dio è più forte degli uomini” (1 Cor 1, 25).
Proprio per questo l’Apostolo scrive: “Noi predichiamo Cristo crocefisso”: Cristo che – concretamente nel suo mistero pasquale – è “forza e saggezza di Dio” (1 Cor 1, 23-24).
5. Così dunque oggi, abbiamo davanti agli occhi i martiri vietnamiti come quei mietitori di Dio a cui si riferisce il salmo:
“Coloro che seminano con le lacrime
raccolgono tra i cantici.
Partendo piangono
portando con sé i semi;
tornando cantano portando con sé il loro raccolto” (Sal 126 [125], 5-6).
Alla luce di queste misteriose parole possiamo comprendere il vero significato della testimonianza storica dei martiri della Chiesa vietnamita. Con le loro lacrime ha avuto luogo quella semina del Vangelo e della grazia, da cui è ampiamente sgorgato il dono della fede: “Se il chicco di grano non cade in terra e muore, rimane infecondo; ma se muore dà molti frutti” (Gv 12, 24).
I martiri vietnamiti “seminando fra le lacrime”, in realtà iniziarono un dialogo profondo e liberatore con la popolazione e la cultura della loro nazione, proclamando prima di tutto la verità e l’universalità della fede in Dio, proponendo inoltre una gerarchia di valori e di doveri particolarmente adeguata alla cultura religiosa di tutto il mondo orientale. Sotto la guida del primo catechismo vietnamita, diedero testimonianza del fatto che è necessario adorare un solo Dio, come Dio unico che ha creato cielo e terra. Di fronte alle disposizioni coattive delle autorità riguardo alla pratica della fede, essi affermarono la propria libertà di credo, sostenendo con umile coraggio che la religione cristiana era l’unica cosa che non potevano abbandonare, poiché non potevano disobbedire al supremo sovrano: il Signore. Inoltre proclamarono con forza la loro volontà di essere leali nei confronti delle autorità del Paese, senza contravvenire a tutto ciò che fosse giusto e onesto; insegnarono a rispettare ed a venerare gli antenati, secondo gli usi della propria terra, alla luce del mistero della resurrezione. La Chiesa vietnamita, con i suoi martiri e mediante la propria testimonianza, ha potuto proclamare il proprio impegno e la propria volontà di non rifiutare la tradizione culturale e le istituzioni legali del Paese; al contrario ha dichiarato e dimostrato che vuole incarnarsi in questa, contribuendo con fedeltà alla vera crescita della patria.
In seguito, i conflitti e le tensioni politiche che sorsero nelle relazioni dei cristiani con le autorità, gli interessi di altre confessioni religiose, le ragioni economiche e sociali, l’incomprensione riguardo la trascendenza e l’universalità della fede, formarono quel crogiolo terreno in cui venne offerta la purezza e la forza di questa straordinaria testimonianza.
6. Ma dalla lunga teoria dei martiri, delle loro sofferenze, delle loro lacrime viene la “mietitura del Signore”. Sono loro, i nostri maestri, che mi danno la grande opportunità di presentare alla Chiesa intera la vitalità e la grandezza della Chiesa vietnamita, il suo vigore, la sua pazienza, la sua capacità di affrontare le difficoltà d’ogni sorta e di proclamare Cristo. Rendiamo grazie al Signore per ciò che lo Spirito genera con abbondanza in mezzo a noi!
Ancora una volta possiamo dire che il sangue dei martiri è per voi, cristiani del Vietnam, una fonte di grazia per progredire nella fede. In voi la fede dei nostri padri continua a trasmettersi ancora alle nuove generazioni. Questa fede resta il fondamento della perseveranza di tutti coloro che, sentendosi autenticamente vietnamiti, fedeli alla loro terra, vogliono al tempo stesso continuare ad essere dei veri discepoli di Cristo. Tutti i cristiani sanno che il Vangelo chiede di essere sottomessi alle istituzioni degli uomini per l’amore verso il Signore, di fare il bene, di comportarsi da uomini liberi, di rispettare tutti, di amare i fratelli, di avere timor di Dio, di onorare le autorità e le pubbliche istituzioni (cf. 1 Pt 2, 13-17). La ricerca del bene comune della patria è dunque un dovere sincero per il cittadino cristiano, nella libertà di proclamare la verità di Dio, in comunione con i pastori e con i fratelli nella fede, nel desiderio di vivere in pace con gli altri uomini per costruire con coscienza il bene di tutti.
7. “Sanguis martyrum, semen christianorum”. “Semen christianorum”. Oltre alle migliaia di fedeli che, nei secoli passati, hanno camminato sui passi di Cristo, vi sono ancora oggi coloro che lavorano, talvolta nell’angoscia e nell’abnegazione, con la sola ambizione di poter perseverare nella vigna del Signore come fedeli che comprendono i beni del Regno di Dio.
“Semen chrstianorum”, sono tutti coloro che, ancora oggi, in mezzo al loro popolo e per la causa di Dio si sforzano di comprendere il senso del Vangelo di Cristo e della sua croce, con il dovere che ciò comporta di lavorare e di pregare per la venuta del Regno del nostro Padre in tutte le anime, e particolarmente nel Paese dove il Signore li ha chiamati a vivere. Questo dovere, questa attività interiore costante e rigorosa, esigono la pazienza e l’attesa fiduciosa di chi sa che la Provvidenza di Dio lavora con loro per rendere efficaci i loro sforzi e anche le loro sofferenze.
8. “La vita dei giusti è nella mani di Dio” (Sap 3, 1).
Il libro della Sapienza proclama questa splendida verità che inonda con tanta luce l’avvenimento che oggi celebriamo.
Sì. “La vita dei giusti è nella mani di Dio e non patiranno tormenti”. Potrebbe sembrare che queste parole non corrispondano alla realtà storica: in effetti i martiri patirono tormenti, e in che misura!
Ma l’autore ispirato sviluppa maggiormente il suo pensiero:
“La gente insensata pensava che morissero,
consideravano il loro trapasso come una disgrazia,
la loro dipartita da noi come una distruzione;
ma loro sono in pace.
La gente pensava che fossero stati castigati;
ma loro aspettavano sicuri l’immortalità” (Sap 3, 2-4).
Santi martiri! Martiri vietnamiti! Testimoni della vittoria di Cristo sulla morte! Testimoni della vocazione dell’uomo all’immortalità.
Il libro della Sapienza continua: “Avete un poco sofferto; riceverete grandi doni, perché Dio vi ha messo alla prova e vi ha trovati degni di lui: vi ha provati come l’oro nel crogiolo, vi ha ricevuti come sacrificio di un olocausto” (cf. Sap 3, 5-6).
Sì. Come in olocausto, uniti al sacrificio della croce di Cristo. Effettivamente, proprio voi, martiri del Vietnam, avete proclamato fino alle estreme conseguenze Cristo crocifisso, saggezza e forza di Dio. Rivolgiamoci a Cristo, grazie al quale raggiungiamo la salvezza in Dio.
9. “Quanti confidano in lui – in Cristo crocifisso e risorto – comprenderanno la verità; coloro che gli sono fedeli vivranno presso di lui nell’amore, perché grazia e misericordia sono riservate ai suoi eletti” (cf. Sap 3, 9).
Voi – martirizzati! Voi – eletti!
Ascoltate fino alla fine ciò che dice di voi il libro della Sapienza: “Nel giorno del loro giudizio risplenderanno come scintille nella stoppia, correranno qua e là” (Sap 3, 7).
Come scintille, come fiammelle di una luce che illumina e accende . . . Ascoltate fino alla fine ciò che dice di voi il libro della Sapienza: “Governeranno le nazioni, avranno potere sui popoli e il Signore regnerà per sempre su di loro” (Sap 3, 8).
Il Signore . . .
Cristo crocifisso e risorto.
Colui che è venuto nel mondo – non per “giudicare il mondo, ma perché il mondo si salvi per mezzo di lui” (Gv 3, 17).
Questo Cristo!
Come avete partecipato alla sua sofferenza e alla sua croce, così abbiate parte nella salvezza del mondo, da lui operata.
La vostra messe duri nella gioia!
© Copyright 1988 – Libreria Editrice Vaticana