2021
Toàn văn bài giảng của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong đại lễ tôn vinh hiển thánh 117 chân phúc tử đạo Việt Nam
Toàn văn bài giảng của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong đại lễ tôn vinh hiển thánh 117 chân phúc tử đạo Việt Nam
Toàn văn bài giảng của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong đại lễ tôn vinh hiển thánh 117 chân phúcc tử đạo Việt Nam tại Rôma ngày 19-06-1988
Anh chị em thân mến,
1 – “Chúng tôi rao giảng Chúa Giêsu tử nạn Thập Giá” (1Cr 1, 23)
Mượn lời trên đây của Thánh Phaolô, Giáo Hội Rôma hôm nay gửi lời chào Giáo Hội Việt Nam, mặc dầu trùng dương xa cách, nhưng rất gần gũi trong tình thân ái của tôi. Đồng thời, tôi xin chào toàn thể dân tộc Việt Nam và nói lên rằng cả Giáo Hội hoàn vũ hết lòng cầu chúc cho dân tộc quý quốc được trăm phần an lành.
Mối thịnh tình ưu ái đầu tiên xin dành cho người anh em thân yêu Giám Mục Hà Nội, và cho tất cả Giám Mục trong giáo đoàn Việt Nam, mà giờ này tôi ao ước các ngài hiện diện nơi đây. Cùng với hàng Giáo Phẩm, tôi chào tất cả các linh mục, tu sĩ nam nữ, các thành phần giáo dân tham gia công cuộc truyền đạo, và trong toàn thể giáo dân Việt Nam: trong giờ phút này, tôi linh cảm mình hiệp thông với họ một cách sâu xa đặc biệt.
Tôi chào tất cả anh em Giám mục cũng như giáo dân của Tây Ban Nha, Pháp và Phi Luật Tân, những xứ sở mà trong ba thế kỷ đã góp phần vào việc truyền giáo tại Việt Nam. Tất cả tuôn về Rôma hôm nay để tưởng niệm những người anh em trước kia là Thừa Sai xuất xứ từ ba quốc gia này.
Một tư tưởng ưu ái xin gửi đến các linh mục Đaminh thuộc tỉnh dòng Đức Mẹ Mân Côi đã thánh lập từ bốn thế kỷ và Hội Thừa Sai Ba-Lê đã cống hiến một số đông đảo Giám Mục và Linh mục, mà hôm nay chúng ta sùng kính như những vị Tử Đạo vì rao giảng Lời Chúa.
2 – Một cách đặc biệt, tôi gửi lời chào tất cả anh chị em Việt Nam, hiện là giáo đoàn thế giới, hôm nay từ bốn phương trời: Mỹ Châu, Á Châu, Úc Châu và Âu Châu tuôn về địa điểm này. Tôi biết rằng anh em đang ôm nặng ước nguyện tôn vinh các vị Tử Đạo đồng hương, nhưng trong thâm tâm còn tự cảm nhu cầu – đứng chung quanh các vị Thánh – để xe kết tình huynh đệ kết nghĩa, thương mến, hiện đang phập phồng trong đáy lòng vì nghĩ đến giang sơn gấm vóc ở xa. Hướng về quê hương này, anh chị em hoài cảm, luyến ái, nhớ nhung, là vì giữa thời gian phiêu bạt, anh chị em cố tìm ra một giây phút cảm thông với nhau và cùng chung sống niềm hy vọng.
Lên tiếng với anh em để hô vang Chúa Kitô tử nạn Thập Giá, tất cả chúng tôi hôm nay để lời cám ơn anh em vì tấm gương nhân chứng đặc biệt các vị Thánh Tử Đạo của Giáo Hội Việt Nam anh em đã nêu cao, bất cứ các ngài là con dân Việt Nam hay là những vị Thừa Sai, xuất xứ từ những nước đã in sâu mầm mống Đức Tin Chúa Kitô.
Làm sao kể lại cho hết ? Tất cả là 117 vị Tử Đạo, trong số đó 8 vị Giám Mục, 50 Linh mục, 59 giáo dân, trong số đó một phụ nữ, Thánh Agnès Lê Thị Thành, mẹ sáu người con?
Truyền thống còn ghi nhớ lịch sử chết vì đạo của Giáo Hội Việt Nam rất bao quát, phức tạp ngay từ lúc ban đầu. Từ năm 1533, nghĩa từ lúc miền Đông Nam Á Châu vừa đựơc truyền đạo, Giáo Hội Việt Nam đã bị bách hại suốt ba thế kỷ bắt bớ của Giáo Hội Âu Châu thời xưa. Từng ngàn giáo dân tử đạo, từng trăm số người đã chết lưu lạc trên núi, trong rừng sâu nước độc !
Để lấy một ví dụ : Trong các vị Tử Đạo hôm nay, đi tiền phong có Thánh Vinh Sơn Liêm, dòng Đaminh là người Việt tử đạo đầu tiên năm 1733. Rồi tới Linh mục Anrê Dũng Lạc, sinh trưởng trong một gia đình rất nghèo khó, bên lương từ nhỏ đã phải “bán” cho một thầy giảng dậy giáo lý, nhưng rồi Chúa cho tới chức Linh mục năm 1823, đựơc bổ nhiệm chánh xứ và đương nhiên trở thành nhà truyền giáo trong nhiều địa hạt. Nhiều lần đã bị lao tù, nhưng vẫn được giáo dân tốt lành đem tiền chuộc về, trong khi bản thân ngài mong chờ đựơc chết vì Chúa. “Những ngừời chết vì Đức Tin – ngài nói – thì lên Thiên Đàng thẳng rẵng; tại sao chúng ta cứ phải ẩn náu, phải tốn tiền đút lót cho quan quyền : thà để cho chúng tôi bị bắt và rồi tử đạo có phải hơn không ?”. Thực ra, vẫn một ý chí hăng say và được ơn Chúa nâng đỡ, ngài đã anh dũng chịu trảm quyết tại Hà Nội ngày 21-12-1839.
3 – Trong bài Phúc Âm hôm nay nhắc lại những gì Chúa Kitô tiên đoán về sự kiện các Tông Đồ và những ai theo chân các Ngài sẽ bị bách hại : “Họ sẽ lôi chúng con ra tòa Công Nghị, sẽ đánh đập chúng con giữa hội đường, sẽ điệu chúng con trước vua chúa quan quyền vì danh Cha, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại” (Mt 10, 17-18). Chúa tiên báo một cách hết sức rõ rệt, không có úp mở. Chúa không đưa đẩy với những lời hứa hẹn xa gần, nhưng với thói quen nói thẳng lời chân lý toàn diện, Chúa chuẩn bị tâm hồn các ngài trước nguy cơ : “Anh sẽ nộp em, cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên tố cáo làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Cha, chúng con sẽ bị mọi người ghét bỏ, nhưng ai bền chí tới cùng sẽ được cứu độ.” (Mt 10, 21-22)
4 – Tuy nhiên, Thầy Chí Thánh không bỏ rơi các Tông Đồ và các người tin theo các Tông Đồ trong những cơn bách hại : “Khi bị nộp vào tay họ, chúng con đừng lo phải nói thế nào, Vì thực ra không phải chúng con nói, nhưng là Thần Linh của Thân Phụ nói trong chúng con.” (Mt 10, 19-20).
Thần Linh chinh là Thần Linh chân lý. Ngài sẽ là mãnh lực trong thân xác yếu hèn của con người. Nhờ Ngài là mãnh lực mà anh em mới có thể là chứng nhân. Phải, chính sự kiện anh em là chứng nhân cho Chúa Kitô tử nạn, sự kiện đó há chẳng phải là khôn ngoan, là mãnh lực vượt mức loài người đó ư ? Thánh Phaolô hồi xưa đã không nói: “Chính sự kiện Chúa Kitô tử nạn là một ô nhục cho người Do Thái, là một cử chỉ điên rồ” (1Cr 1, 23) đó ư ? Từ thời các Thánh Tông Đồ đã vẫn thế rồi, qua các thế hệ lịch sử vẫn tiếp tục như thế; cũng như qua mấy thế kỷ bách hại tại Việt Nam, sự kiện đó vẫn không thay đổi.
Phải, cần phải có mãnh lực, khôn ngoan từ Thiên Chúa mới có thể tuyên xưng mầu nhiệm tình yêu của Ngài, chính là tình yêu được diễn tả trong cuộc tử nạn trên Thập Giá để cứu chuộc trần gian: quả là mầu nhiệm bao la vượt hẳn sự suy luận loài người. “Là vì cái điên rồ nơi Thiên Chúa còn khôn ngoan hơn cả sự khôn ngoan người đời, và yếu hèn nơi Thiên Chúa còn mạnh sức hơn cả sức lực phàm nhân” (1Cr 1, 25).
Chính vì thế mà Thánh Tông Đồ đã viết : “Chúng tôi rao giảng Chúa Kitô tử nạn Thập Giá : Đức Kitô, trong mầu nhiệm Phục Sinh, đã chứng minh Ngài là mãnh lực của Thiên Chúa, là khôn ngoan của Thiên Chúa” (1Cr 1, 23-24).
5 – Trước mặt chúng ta hôm nay, các vị Tử Đạo Việt Nam giữ vai trò những người đi gặt lúa cho Chúa, như đã ghi trong Thánh Vịnh :
“Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan.
Lúc ra đi phải khóc than, vì công vất vả gieo hạt,
Nhưng khi trở về, lòng thênh thang phấn khởi,
Vì ôm nặng nhiều bông lúa.” (Tv 125-126, 5-6)
Lời huyền diệu trên đây nói lên ý nghĩa cuộc chứng nhân lịch sử nơi các vị Tử Đạo trong Giáo Hội Việt Nam. Trong vũng nước mắt của họ đã gieo xuống hạt giống ân sủng, để rồi trở thánh vô số bông hoa ĐỨC TIN ; “Hạt giống gieo xuống mà không mục đi thì chỉ trơi trọi một mình, nhưng nếu mục đi sẽ sinh nhiều bông lúa.” (Ga 12, 24)
Các vị Tử Đạo Việt Nam “gieo trong lệ sầu”, có nghĩa là các ngài đã khởi sự giữa lớp người đồng hương và giữa nền văn hóa dân tộc một cuộc đối thoại sâu rộng và cởi mở, bằng cách nêu cao chân lý và tin vào Chúa là sự kiện phổ cập tất cả hoàn cầu. Đồng thời, các góp phần vào việc nhận định các giá trị và nghĩa vụ thích hợp với nền văn hóa tôn giáo trong thế giới Đông Phương. Trong cuốn giáo lý đầu tiên bằng tiếng Việt, các ngài đã tuyên xưng nghĩa vụ tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi một bản thể đã tạo dựng trời đất. Ra trước quan quyền tra khảo về ĐỨC TIN, các vị Tử Đạo đã quả quyết mình đựơc tự do tín ngưỡng, và đạo Chúa Trời là đạo duy nhất, nếu mình từ bỏ là bất tuân lệnh Thương Đế, tức là Thiên Chúa. Đồng thời, các ngài đã can đảm nói lên ý chí tôn trọng quyền bính trong nước, nhưng không vì thế mà làm điều gì bất chính. Các ngài đã dậy phải tôn kính Tổ Tiên theo truyền thống dân tộc, và dưới ánh sáng mầu nhiệm Phục Sinh. Do đó, với sự dấn thân và hành động chứng nhân của các vị Tự Đạo, Giáo Hội Việt Nam hiên ngang nói lên sự quyết tâm và tha thiết của mình, không chối bỏ truyền thống văn hóa và các thể chế quốc gia, trái lại, Giáo Hội tuyên xưng và chứng minh rằng : nếu mình nhập cuộc trong truyền thống và văn hóa dân tộc là vì có góp phần vào việc xây dựng quốc gia một cách trung thực hơn.
Và rồi những cuộc đấu tranh, những căng thẳng chính trị hồi xưa, xen lộn vào trong những bang giao giữa giáo dân và nhà cầm quyền, những quan hệ lợi hại giữa các tôn giáo, những lý do kinh tế xã hội, sự kiện người ta không hiểu rằng: Tín ngưỡng bao hàm quan niệm siêu việt và phổ cập toàn thế giới là những yếu tố tạo nên trần gian như một nồi nung nấu, trong đó thanh lọc mọi khía cạnh, để chỉ nổi bật nét khiết bạch và sức dũng mạnh của tấm gương nhân chứng.
6 – Đoàn thể đông đảo các Tử Đạo, những gian lao đau khổ, những giọt nước mắt. . . tất cả đã tạo nên “mùa lúa vàng” của Thiên Chúa. Các ngài là những bậc Thầy, tôi xin mượn dịp hôm nay, để nêu lên trước toàn thể Giáo Hội sức linh hoạt và hình vóc hùng tráng của Giáo Hội Việt Nam: ý chí kiên cường, sự nhẫn nại và khả năng vượt mọi khó khăn để tuyên xưng Chúa Kitô. Chúng ta cảm tạ Thiên Chúa vì tất cả mọi ơn lành mà Thánh Linh của Ngài hiện đang thực hiện một cách dồi dào giữa chúng ta.
Một lần nữa, giữa giáo đoàn Việt Nam, chúng tôi nói lại cho anh em rằng : máu các Tử Đạo là nguồn ân sủng cho anh em trước tiên, để anh em thăng tiến trong ĐỨC TIN. Giữa anh em, Đức tin của Tổ Tiên vẫn tiếp tục và còn truyền tụng sang nhiều thế hệ tương lai. ĐỨC TIN này tồn tại để làm nền tảng xây dựng sự kiên trì cho tất cả những người là Việt Nam thuần túy sẽ trung thành với quê hương đất nước, nhưng đồng thời vẫn còn là người tín hữu của Chúa Kitô. Ai là người tín hữu đều ý thức rằng: Lời kêu gọi của Phúc Âm vẫn là phải tuân phục các thể chế loài người, để tôn thờ tình yêu Thiên Chúa bằng cách làm việc thiện, sống xứng đáng con ngừơi tự do,, kiêng nể tha nhân, yêu thương anh em, kính sợ Thiên Chúa và tôn trọng công quyền và thể chế quốc gia (1Pr 2, 13-17). Do đó, công ích của quốc gia vẫn là điểm người công dân có đạo phải dấn thân, nhưng đồng thời phải đựơc tự do tuyên xưng chân lý của Chúa, được cảm thông với những với các vị Chủ chăn và anh em đồng tín ngưỡng: và như thế là để sống an bình với mọi người và thực tâm xây dựng hạnh phúc cho toàn dân*.
7 – “Máu các Tử Đạo là hạt giống sinh nhiều tín hữu”.
“Hạt giống các tín hữu” : Ngoài con số từng ngàn từng vạn giáo dân trong các thế kỷ trước đây đã đi theo con đường tử nạn của Chúa, ngày nay là tất cả những ai đang lao động trong khắc khoải, trong khó nghèo cực độ về thể chất, kinh tế, trong hy sinh liên tục, nhưng chỉ mang một hoài bão là có thể trung kiên trong vườn nho Thiên Chúa, xứng với danh hiệu những người quản lý trung thành trong nước Trời.
“Hạt giống các tín hữu” là tất cả những ai ngày nay vì chính nghĩa Thiên Chúa và sống giữa những người đồng hương đang cố gắng tìm hiểu ý nghĩa cây Thập Giá của Chúa Kitô: Thánh Giá bài trừ sự nói dối, bài trừ tội ác, nhưng thúc đẩy con người biết thinh lặng, biết tha thứ, biết cầu xin cho nước Cha trị đến trong tâm linh nhân loại, và đặc biệt tại quê hương của họ là môi trường đời sống.
Công tác này: công tác liên tục diễn tiến trong nội tâm vừa gây go vừa trường kỳ vì luôn luôn bị hoàn cảnh đặc thù chế ngự, và âm mưu thử thách ĐỨC TIN, do đó, đòi hỏi rất nhiều nhẫn nại. Phải xác tín rằng: đêm tối rồi cũng qua đi và ánh bình minh đang ló rạng ngoài ngưỡng cửa.
8 – “Những linh hồn lành thánh . . .ở trong tay Thiên Chúa”. (Kn 3, 1)
Chân lý trên đây đựơc đề cao trong sách Khôn ngoan càng là ánh sáng quảng diễn biến cố long trọng hôm nay. Phải, “linh hồn lành thánh ở trong tay Thiên Chúa, không hình khổ nào chạm tới được.” Quả quyết như thế có vẻ là không chính xác với thực tế lịch sử : thực ra hình khổ đã va chạm thân xác các vị Tử Đạo, và va chạm ghê gớm. Tuy nhiên, tác giả Kinh Thánh tiếp tục quảng diễn tư tưởng :
“Một người điên dại cho rằng các ngài đã mệnh một và kết liễu cuộc đời bằng cái chết là một tai họa : Chết đi là một đổ vỡ, tuy nhiên, các ngài vẫn sống trong an bình. Trước mắt trần gian, các ngài đã bị đau khổ, nhưng niềm hy vọng nơi các ngài mang nặng mầm mống trường sinh.” (Kn 3, 2-4)
Các Thánh Tử Đạo : Tử Đạo Việt Nam ! Các ngài là chứng nhân cho Chúa Kitô đã toàn thắng sự chết. Chứng nhân là con người vẫn đựơc kêu gọi về hướng trường sinh. Thay vì hình khổ ngắn ngủi, anh em sẽ đựơc nhiều ơn vĩ đại, là vì Thiên Chúa đã luyện lọc anh em và thấy anh em xứng đáng, Ngài đã thử thách anh em như thử vàng trên lửa và đã chấp nhận anh em như của lễ toàn thiêu. Phải, của lễ toàn thiêu hợp với của lễ hy sinh trên Thập Giá của Chúa Kitô. Là vì kiên cường cho đến chết, anh em đã tuyên xưng Chúa Kitô tử nạn – Ngài là sự khôn ngoan, là quyền năng Thiên Chúa. Chúa Kitô : trong Ngài chúng ta được Thiên Chúa cứu rỗi.
9 – Tất cả những ai tin cậy nơi Ngài – nơi Chúa Kitô tử nạn và phục sinh – họ sẽ được hiểu biết chân lý; những ai trung thành với Ngài sẽ đựơc cùng Ngài sống trong yêu thương, vì là ân sủng và tình thương vẫn đựơc dành cho những người được tuyển chọn. (Kn 3, 9)
ANH EM: dòng giống các vị Tử Đạo, ANH EM: dòng giống những người được kêu gọi. Anh em hãy nghe hết lời sách Khôn ngoan : “Trong ngày phán xét, họ sẽ long lanh như những tia sáng chiếu trên đồng cỏ từ Đông sang Tây.” (Kn 3, 7) Những tia sáng, những ánh đèn phản chiếu nguồn quang minh rực rỡ. Và đây là câu sau cùng trong sách Khôn ngoan : “Các dân tộc sẽ trị vì, họ cai trị dân chúng. Nhưng trên tất cả, Thiên Chúa sẽ thống trị mọi loài.” (Kn 3, 17) Chúa đây, tức là Chúa Kitô tử nạn và phục sinh, Ngài xuống trần gian “không để xét xử thế giới, nhưng để thế giới nhờ Ngài mà đựơc cứu rỗi.” (Ga 3, 17) Chính Chúa Kitô này: anh em đã tham gia vào cuộc thống khổ và tử nạn Thập Giá của Ngài, hôm nay anh em hãy tham gia vào việc cứu độ trần gian mà chính Ngài đã kết liễu. Nguyện Chúa cho mùa lúa vàng của anh em muôn năm tồn tại trong hoan lạc.
Bản dịch của Đức Ông Đức ông Vinh sơn Trần Ngọc Thụ
2021
Vài hàng về Vị Cáo thỉnh viên Vụ Án Phong Thánh các Anh Hùng Tử Đạo Việt Nam
Vài hàng về Vị Cáo thỉnh viên Vụ Án Phong Thánh các Anh Hùng Tử Đạo Việt Nam
Vài hàng về Vị Cáo thỉnh viên Vụ Án Phong Thánh các Anh Hùng Tử Đạo Việt Nam: Đức ông Vinh Sơn Trần Ngọc Thụ
Tiểu sử:
– Ngày 12.5.1918: Chào đời tại họ Đông Hải, xứ Văn Hải, Giáo phận Phát Diệm
– 1928: Vào Tiểu Chủng viện Ba Làng, rồi Phúc Nhạc
– 1937: Đức Cha Nguyễn Bá Tòng gửi đi du học tại Roma
– Ngày 20.12.1942: Thụ phong linh mục tại Roma, năm 24 tuổi
– 1945-46: Tiến sĩ Triết học và Tiến sĩ Thần học tại Roma
– 1946-49: Tốt nghiệp Luật khoa tại Đại học Louvain, Bỉ
– 1951-54: Thư kí Đức Cha Lê Hữu Từ, Giám mục Phát Diệm
– 1954: Di cư vào Sài Gòn
– 1956: Thư kí Văn phòng Viện trợ Công Giáo Hoa Kì (11 tháng)
– 1957: Phụ trách 10 giáo phận di cư tại Sài Gòn (9 tháng)
– 1957 tới 1976: Thư kí Tòa Khâm sứ Tòa Thánh tại Sài Gòn (19 năm)
– Ngày 26.7.1976: Được “mời” ra khỏi Việt Nam, sang Roma
– Ngày 18.9.1976: Nhân viên Bộ Ngoại giao Tòa Thánh Vatican
– Ngày 29.6.1978: Lãnh tước Đức Ông (Monsignor Capellano di Sua Santità)
– Ngày 25.11.1985: Được ĐHY Trịnh Văn Căn giao cho làm Cáo thỉnh viên Vụ Án Phong Thánh 117 Vị Tử Đạo tại Việt Nam
– Ngày 18.12.1985: Giám chức danh dự (Prelato d’Onore di Sua Santità)
– Ngày 07.01.1988: Là người Việt Nam đầu tiên được cử làm Đệ nhị Bí thư của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô I I
– 1996: Được đặc ân hưu trí ở ngay trong thành Vatican
– Ngày 04.02.1996: Kinh sĩ viên (Chanoine) Đền thờ Thánh Phêrô Và Chưởng ấn Tòa Thánh (Protonotaire Apostolique)
Ngày 15.7.2002: Qua đời, thọ 84 tuổi. Lễ an táng cử hành tại Vatican ngày 20.7.2002.
Đức ông Vinh Sơn Trần Ngọc Thụ:
Một người vóc dáng nhỏ bé, trán cao rộng, gương mặt rạng rỡ, nụ cười tươi tắn,
Một người có sức khoẻ thật tốt, trí minh mẫn, nhớ dai, nhớ rõ,
Một người có giọng nói rõ ràng, âm hưởng dõng dạc, trình bày khúc chiết,
Một người nhanh nhẹn, nhạy bén, sắc sảo, tinh khôn, bặt thiệp,
Một nhà học thức, đạo đức, uyên thâm,
Một nhà chuyên ngành ngoại giao, thận trọng, cẩn mật,
Một nhân vật lâu năm kinh nghiệm lịch sử Giáo Hội.
Như một loài chim hiếm qúy,
Như một cánh hoa rực rỡ trong Giáo Hội Việt Nam.
Các tác phẩm đã xuất bản:
Phiên dịch:
– Thông điệp “Mẹ và Thầy” của ĐGH Gioan XXI I I
– Các tài liệu Công Đồng Chung Vatican I I
– Thông điệp “Giáo Hội của Ngài” của ĐGH Phaolô VI
– Thông điệp “Về Nữ Giới” của ĐGH Gioan Phaolô I I
Khảo cứu:
1. La Participation chez M. Louis Lavelle, Luận án Triết học, Pháp ngữ, Roma, 1945
2. De inhabitatione Spiritus Sancti in anima justi, Luận án Thần học, La ngữ, Roma, 1946
3. Thánh Gioan Vianney và Giáo Hội ngày nay, Roma, 1986
4. Giáo Hội Việt Nam: Vụ Án Phong Thánh, Roma, 1987
5. Giáo Hội Việt Nam: 21 Thánh Tử Đạo Thừa Sai, Roma, 1991
6. Giáo Hội Việt Nam: 97 Thánh Tử Đạo Việt Nam, Roma, 2003
7. Đời sống Tu sĩ và Công đồng Vatican I I, Roma, 1988
8. Chân dung Chị Elisabeth Chúa Ba Ngôi, Roma, 1989
9. Đức Chúa Thánh Thần và bảy hồng ân của Ngài, Roma, 1989
10. Comendium Vitae et Martyrii 117 Beatorum Martyrum Việt Nam, La ngữ và Ý ngữ, Roma, 1989
11. Kỷ Yếu Phong Thánh Tử Đạo Việt Nam, cộng tác với Ban biên tập Báo chí Công Giáo Việt Nam Hải ngoại, Roma, 1989
12. Lịch Sử Giáo Phận Phát Diệm (1901 – 2001), Roma – Paris – USA., 2001
13. Les 21 Saints Martyrs Missionaires au Vietnam, Pháp ngữ, Roma – Paris, 2001
14. Bên cạnh Đức Gioan Phaolô I I, Roma – Paris – USA., 2002
Roma, năm 1988
Lm Gioan Trần Công Nghị
2021
Tìm hiểu đôi nét về Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Tìm hiểu đôi nét về Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Trong suốt 300 năm bắt Đạo, trải qua sáu triều Vua: Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Giáo Hội Việt Nam đã có hơn 100 ngàn Đấng Tử Đạo được ghi nhận trong sổ sách, trong số này, có 58 Giám mục và Linh mục ngoại quốc thuộc nhiều nước như Pháp, Tây Ban Nha, Bồ đào Nha, Hà Lan, Italia, 15 Linh mục Việt Nam, 340 Thầy Giảng, 270 Nữ tu Mến Thánh Giá, 99.182 Giáo dân.
Đó là chưa kể con số rất đông các tín hữu bị chết mất tích trong các cơn bắt Đạo vì lưu đày, vì phải trốn tránh vào những nơi hẻo lánh…
Đó là chưa kể rất nhiều tín hữu phải chết do cuộc Phân Sáp bốn trăm ngàn người Công Giáo dưới triều Vua Tự Đức…
Đó còn là chưa kể con số hơn mười mấy vạn người công giáo bị chết khi có Phong trài Văn Thân nổi lên tàn sat người Công Giáo…
Như thế, con số Cha Ông Tử Đạo chúng ta, trong ba trăm năm bị bắt Đạo, phải tính lên đến ba trăm ngàn người trong vòng ba trăm năm. Nếu tính theo tỷ lệ, trong ba trăm năm bắt Đạo, cứ một trăm năm thì có một trăm ngàn Vị Tử đạo. Và theo tỷ lệ này, cứ một năm, có một ngàn Vị Tử Đạo; và đổ đồng, cứ một ngày, có hơn hai Vị Tử Đạo! (x.tonggiaophanhue.net).
- Vài tư liệu.
- Thời gian và con số:
+ Thời gian bắt đầu vào năm 1580 và chỉ kết thúc hoàn toàn vào năm 1888, kéo dài gần 3 thế kỷ.
+ Có khoảng 400.000 người bị lưu đầy, phát lưu và phân sáp. Hơn 100.000 người đã chết vì đạo trong số này đã có 117 vị được Giáo Hội chính thức tôn phong lên hàng hiển thánh vào ngày 19.6.1988.
- Về các hình khổ:Các ngài đã phải chịu mọi thứ cực hình mà người ta có thể nghĩ ra được như:
– Gông cùm, xiềng xích, nhốt trong cũi, đánh đòn, bỏ đói.
– Bị voi giầy, bị trói ném xuống sông, bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng.
– Quyết liệt hơn thì bị trảm quyết tức là bị chặt đầu, bị xử giảo tức là bị thắt cổ, hay bị thiêu sống.
– Vô cùng man rợ và hiểm độc như bị xử lăng trì, phân thây ra từng mảnh hay là xứ bá đao.
- Quá trình Giáo Hội phong thánh
* Ngày 27-5-1900 Đức Thánh Cha Lêo XIII phong 64 vị lên hàng chân phước.
* Ngày 20-5-1906 Đức Thánh Cha Pio X phong thêm 8 vị.
* Ngày 02-5-1909 cũng Đức Thánh Cha Piô X phong thêm 20 vị nữa.
* Ngày 29-4-1951 Đức Thánh Cha Pio XII phong 25 vị.
Trong 117 vị được phong chân phước có :
– 8 Giám mục ( Giám mục thuộc dòng Đaminh và 2 Giám mục thuộc Hội thừa sai Paris)
– 50 Linh mục (Gồm 37 là người Việt Nam, 8 thuộc Hội thừa sai Paris và 5 thuộc dòng Đaminh)
– 15 Thầy giảng
-44 Giáo dân thuộc đủ mọi thành phần xã hội: công chức, thương gia, công nhân, quân nhân, y sĩ, ngư phủ, trùm họ…
- Theo loại hình phạt
* 79 vị bị trảm quyết tức là bị chặt đầu. Như vậy là con số bị trảm quyết nhiều nhất.
* 18 vị bị xử giảo tức là bị thắt cổ.
* 8 vị chết rũ tù
* 6 vị bị thiêu sinh
* 4 vị bị lăng trì tức là phân thây ra từng mảnh
* 1 vị bị tử thương
* 1 vị bị bá đao
- Về thời gian
* 2 vị chịu tử đạo thời Trịnh Doanh
* 2 vị chịu tử đạo thời Trịnh Sâm
* 2 vị chịu tử đạo thời Cảnh Thịnh.
* 57 vị chịu tử đạo thời Minh Mạng
* 3 vị chịu tử đạo thời Thiệu Trị
* 51 vị chịu tử đạo thời Tự Đức
- Những cuộc bắt Đạo trong thế kỷ XVII(1625-1692)
Cũng như Giáo Hội Rôma ngày xưa, Giáo Hội Việt Nam từ giây phút đầu tiên được nghe rao giảng Tin Mừng, đã phải đối phó với những cơn giông tố dữ dội cấm Đạo nổi lên ác liệt.
Trong thế kỷ XVII (1625-1692)
– Dưới thờ Vua Sãi Vương bắt Đạo: cấm người công giáo làm bàn thờ trong nhà, không được mang chuỗi tượng công khai, chịu những hình khổ của tù nhân, không được làm những chức phận gì trong triều đình. Các nhà thờ bị triệt hạ, các linh mục ngoại quốc bị tập trung về Hội An và bị trục xuất ra khỏi nước.
– Dưới thời Vua Thượng Vương bắt Đạo: người công giáo bị bắt bỏ tù, rồi lập hồ sơ đưa ra toà án: nếu là thầy giảng hay linh mục không chịu bỏ đạo thì chém đầu; nếu là giáo dân không chịu bỏ Đạo thì bị đánh bách trượng, bị cạo trọc đầu, bị chặt các đầu mút ngón tay, bị thả về tàn phế như vậy, không được cấp dưỡng gì hết.
– Dưới thời Vua Hiền Vương bắt Đạo: các nhà thờ và các nhà nguyện công, tư bị triệt hạ; các tượng ảnh bị thiêu đốt, các thầy giảng và các chức việc bị bỏ tù; các linh mục ngoại quốc bị trục xuất ra khỏi nước; nhiều hình khổ rùng rợn được áp dụng như giam đói, giam khát, bị chặt đầu, phân thây, treo ngược vào cột để xé xác ra làm sáu phần; cho voi chà nát; đâm gươm vào hông; chặt đứt hai tay, hai chân, chỉ còn đầu và thân mình.
– Dưới thời Vua Vua Ngãi Vương bắt Đạo: cấm ba tội, là tội đánh bạc, tội đá gà và tội theo đạo Công Giáo; các nhà thờ bị triệt hạ; thường dân theo Đạo Công Giáo thì bị bắt bỏ tù, sĩ quan có đạo thì bị truất chức; ai tố cáo người công giáo đi dự lễ thì được thưởng, ai biết mà không chịu đi tố cáo thì bị tội; ai không chịu chối Đạo thì phải mang gông phơi nắng chín ngày, bị thắt cổ, bị treo chân vào cột đánh đòn.
- Những cuộc bắt Đạo trong thế kỷ XVIII (1698-1801)
– Dưới thời Vua Minh Vương: người công giáo chịu thuế nặng gấp ba lần người không công giáo; ai cũng được tự do làm hại người công giáo bất cứ bằng cách nào; áp dụng nhiều hình khổ lạ hơn như xẻo hai tai, vấn dẻ vào các ngón tay rồi đổ dầu mà đốt; lấy dao khắc hình Thánh Giá vào trán người công giáo rồi xiềng hai chân với cổ lại, bắt đi bứt cỏ nuôi voi của Nhà Vua suốt đời, hình phạt nầy được gọi là Thảo tượng chung thân; lập chuồng giam người công giáo như giam súc vật: chuồng lợp lá, chật chội, người công giáo bị giam trong đó, có lính canh đêm ngày không cho họ ra khỏi, nhưng bên ngoài, lại có dọn đồ ăn rất ngon, lính canh đứng ngoài cứ hô to: “Nước đó, cơm cá đó. Cứ bỏ đạo rồi ra mà ăn, mà uống”…
– Dưới thời Vua Võ Vương và Nhà Trịnh: hình khổ được áp dụng thêm, là kẹp các đầu ngón tay cho ra máu; lập nhà giam Sinh Tử, có hai cửa, một cửa gọi là Cửa Sinh, một cửa gọi là Cửa Tử, cửa Sinh có Dấu Thánh Giá, ai bước qua để đi ra thì được sống, cửa Tử có để thanh gươm, ai bước qua là tỏ dấu không muốn bỏ Đạo, thì bị xử tử.
– Trong thời kỳ Nhà Tây Sơn bắt Đạo, đặc biệt tại Thừa Thiên và Quảng Trị, giáo dân phải bị tàn sát dữ dội. Riêng tại Quảng Trị, trong thời kỳ này, nhiều giáo dân phải bỏ nhà cửa, bồng bế con cái chạy trốn vào rừng núi La Vang, và được Đức Mẹ Maria hiện ra an ủi năm 1798.
- Những cuộc bắt Đạo trong thế kỷ XIX (1830-1885)
– Dưới thời Vua Minh Mạng bắt Đạo: các nhà lao xá như Trấn Phủ, Khám Đường được thành lập để giam người công giáo; đày người công giáo đến những nơi rừng thiêng nước độc; áp dụng hình khổ Bá Đao; xử giảo thắt cổ; bắt tám người công giáo phải mang một cái gông dài như cái thang để khỏi phải chạy trốn.
– Dưới thờ Vua Tự Đức bắt Đạo: lệnh ban ra giết các linh mục Việt Nam và các linh mục ngoại quốc; tróc nã các nữ tu Dòng Mến Thánh Giá; quân sĩ nào theo đạo Công Giáo, trước khi ra trận, phải Phạm Ảnh, nghĩa là phải bước qua Thánh Giá; thi hành kế hoạch Phân Sáp để tiêu diệt tận gốc người Công Giáo.
– Cuối thế kỷ XIX, xảy ra nhiều cuộc tàn sát người Công Giáo bởi Phong trào Văn Thân. Thời kỳ Văn Thân này tương đối ngắn, nhưng có đến sáu vạn giáo dân bị thảm sát. Riêng tại một tỉnh Bình Định, có 24.000 giáo dân bị giết. Tại Quảng Trị, chỉ trong vòng một tháng, hơn 8.000 giáo dân bị giết.
- Kế hoạch Phân Sáp để tận diệt người Công Giáo
Kế hoạch Phân Sáp được thi hành trong năm 1851 và 1856. Do sự thi hành kế hoạch này mà 400.000 giáo dân phải bị đi phân sáp, từ 50.000 đến 60.000 giáo dân phải chết nơi phân sáp, 3.500 giáo dân bị xử tử, 100 làng công giáo bị đốt phá bình địa, 2.000 Họ đạo bị tịch thu tài sản ruộng đất, 115 linh mục Việt Nam và 10 giáo sĩ ngoại quốc bị giết, 80 Dòng Mến Thánh Giá bị phá tan, 2.000 nữ tu Mến Thánh Giá phải tan tác, 100 nữ tu Mến Thánh Giá chết vì Đạo.
Kế hoạch Phân Sáp gồm 4 mặt:
- Không cho người công giáo ở trong làng công giáo của mình, nhưng phải đến ở trong các làng bên lương;
- Mỗi người công giáo phải bị 5 người lương canh gác cẩn mật;
- Các làng công giáo bị bị phá huỷ, của cải ruộng đất người công giáo bị tịch thu và giao vào tay những người bên lương, những người này xử dụng và nộp thuế lại cho Nhà Nước;
- Không cho đàn ông công giáo ở với đàn bà công giáo; không cho vợ chồng công giáo ở một nơi với nhau, mỗi người phải đi ở một nơi xa nhau; con cái phải để cho người lương nuôi. (x.tonggiaophanhue.net).
Đức Chân Phước Giáo hoàng Gioan Phaolô đã từng nói: “Giáo hội Việt nam đã phát sinh những nhân chứng, đặc biệt là Các Vị Tử Đạo, lời tiền nhân nói không sai: Máu đào là hạt giống phát sinh Kitô hữu, vì do máu Các Đấng Tử Đạo của dân tộc và Giáo hội Việt nam mà đức tin trong thế hệ trước đã mọc lên, đức tin của thế hệ hiện tại được bảo toàn, và hy vọng đức tin của thế hệ mai sau được gìn giữ”.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
2021
Các Giáo hội Đông Âu đương đầu với làn sóng Covid-19 mới
Các Giáo hội Đông Âu đương đầu với làn sóng Covid-19 mới
Khi các chính phủ trên khắp châu Âu áp đặt lại các biện pháp hạn chế để chống lại sự gia tăng đột biến của virus corona trong mùa đông, các nhà lãnh đạo Giáo hội đang kêu gọi công dân ở các quốc gia Đông Âu hợp tác với các chiến dịch y tế.
Đức Hồng y Giuseppe Versaldi – Tổng trường Bộ Giáo dục Công giáo
Tỷ lệ tử vong tăng 10%, chủ yếu từ biến thể Delta, đã được báo cáo trên khắp châu Âu trong tuần đầu tiên của tháng 11, trong bối cảnh Tổ chức Y tế Thế giới cảnh báo châu lục này có thể có nửa triệu người chết trong những tháng tới. Nhiều tổ chức đòi phải có chứng chỉ 3G – xác nhận đã tiêm vắc-xin, bị nhiễm Covid-19 và đã lành, hay xét nghiệm âm tính – để vào một số nơi.
Rumani
Tại Rumani, nơi có tỷ lệ tử vong do Covid-19, tính trên đầu người, cao nhất thế giới, trong thông cáo hôm 30/10/2021, Tổng giáo phận Bucharest của Chính Thống giáo cho biết đã chấp nhận yêu cầu của Bộ Y tế Rumani và mở các nhà nguyện làm nhà quàn thi hài tạm thời. Trong khi đó, trong thư đề ngày 29/10/2021, các giám mục Công giáo Đông phương của Rumani kêu gọi các tín hữu “hãy cầu nguyện, tiêm phòng và tuân thủ nghiêm ngặt tất cả các biện pháp cần thiết”.
Áo
Tại Áo, hôm 15/11/2021, lệnh phong toả đã được áp dụng đối với tất cả những người trên 12 tuổi không tiêm vắc-xin. Hôm 13/11/2021, Hội đồng giám mục Áo đã thắt chặt các quy tắc của mình, bắt buộc phải đeo khẩu trang cùng với các biện pháp mới về khử trùng, thông gió và giữ khoảng cách.
Dù sắc lệnh mới về các biện pháp bảo vệ Covid-19 của chính phủ Áo miễn trừ “các cuộc tụ họp thực hành tôn giáo”, nhưng bất kỳ ai tham dự các cử hành phải có chứng chỉ 3G, trong khi các quy tắc về ca hát, xưng tội và rước lễ đã được thắt chặt theo hướng dẫn chi tiết của Giáo hội.
Slovakia
Ở nước láng giềng Slovakia, trong thư gửi ngày 14/11/2021, các giám mục kêu gọi công dân tiêm vắc xin như “một biểu hiện cụ thể và trưởng thành của đức tin vào Chúa”. Các ngài viết: “Cộng đồng Kitô giáo chúng ta nên có quan điểm đúng đắn vào thời điểm quan trọng này – như Đức Thánh Cha đã nói, tiêm vắc-xin là biểu hiện của tình yêu thương tha nhân. Chúng tôi kêu gọi các linh mục quảng bá sứ điệp đúng đắn và khuyến khích tiêm chủng, đồng thời tuân thủ các quy tắc vệ sinh. Đây cũng là biểu hiện thực sự của chúng ta về thái độ sống có ý thức và kiên định”.
Ucraina
Tại Ucraina, nơi chưa đến 1/5 trong tổng dân số 43,3 triệu người được tiêm chủng đầy đủ, Giáo hội Công giáo đã mở Nhà thờ chính toà Phục sinh ở Kiev làm trung tâm tiêm chủng vào ngày 7/11/2021 và cung cấp chỗ tại các nhà thờ ở năm thành phố khác làm nơi điều trị.
Croatia
Về phía nam của Croatia, Giám mục nghi lễ Byzantine Milan Stipic của Krizevci đã cảnh báo về sự chia rẽ ngày càng tăng giữa các thành viên Giáo hội về việc tiêm vắc-xin. Ngài kêu gọi người Công giáo đối diện với đại dịch bằng cách “quay trở lại các giá trị sống của Kitô giáo và một lối suy nghĩ thực sự được Phúc Âm hóa”.
Trong khi Toà Thượng phụ Chính Thống Mátxcơva không buộc có chứng chỉ tiêm vắc-xin để vào nhà thờ, thì tại Hy Lạp, nơi những công dân chưa được tiêm chủng phải xuất trình giấy xét nghiệm âm tính để vào các cửa hàng và nhà hàng, Giáo hội Chính Thống đã yêu cầu các giáo sĩ và nhân viên giáo xứ chưa được tiêm vắc-xin phải xét nghiệm 2 lần mỗi tuần và “thúc giục” các Kitô hữu đi xét nghiệm trước khi tham dự các nghi lễ. (Crux 20/11/2021)
Hồng Thủy