2021
Đan sĩ cuối cùng của Tibhirine, chứng nhân vụ sát hại 7 tu sĩ Trappist – qua đời ở tuổi 97
Đan sĩ cuối cùng của Tibhirine, chứng nhân vụ sát hại 7 tu sĩ Trappist – qua đời ở tuổi 97
Giáo hội Marốc ở Rabat cho biết, hôm Chúa Nhật 21/11/2021, sau những năm cuối đời sống âm thầm ẩn dật trong tu viện Midelt ở Marốc, đan sĩ Jean-Pierre Schumacher, người Pháp, dòng Trappist, người sống sót cuối cùng trong vụ bắt cóc và thảm sát tàn bạo 7 tu sĩ dòng Trappist tại đan viện Tibhirine ở Algeria vào năm 1996, đã qua đời cách bình an ở tuổi 97.
Cha Jean Pierre Schumacher gặp ĐTC khi ngài thăm Marốc vào tháng 3/2019
Vào đêm ngày 26 rạng ngày 27/3/1996, khi bọn khủng bố vào đan viện, cha Jean-Pierre đang ở trong phòng của mình ở lối vào đan viện nên chúng đã không tìm thấy cha. Đan sĩ Amedée cũng thoát chết vì bọn khủng bố có thông tin rằng có 7 tu sĩ trong đan viện; nhưng trong những ngày đó, có hai vị tu sĩ đến thăm cộng đoàn, nên có tất cả 9 người. Bọn khủng bố đã bỏ đi cùng với 7 tu sĩ đầu tiên mà chúng tìm thấy.
Ngay lúc đó, không ai tưởng tượng được bọn khủng bố sẽ giết họ. Nhiều người nghĩ rằng chúng sẽ trao đổi họ với một số kẻ khủng bố bị bắt làm tù binh. Việc giết hại họ cũng đã gây chấn động một phần xã hội Algeria.
Đan sĩ bề trên cộng đoàn Christian de Chergé và sáu anh em tu sĩ khác đều bị chặt đầu và hai tháng sau người ta phát hiện đầu của họ ở nơi không xa Tibhirine. Tuy nhiên, thi thể của họ không bao giờ được tìm thấy.
Vào tháng 12/2018 đan sĩ Jean-Pierre lần đầu tiên trở lại Algeria để dự lễ phong chân phước cho các tu sĩ cùng dòng và các Kitô hữu tử đạo khác đã bị những kẻ khủng bố sát hại vào những năm 1990.
Vào dịp ra mắt bộ phim “Những người của Chúa” của đạo diễn người Pháp Xavier Beauvois, đan sĩ Jean-Pierre được thế giới chú ý đến. Bộ phim gợi lại sự hiện diện thinh lặng và cầu nguyện của các đan sĩ Tibhirine, một sự hiện diện bị chìm sâu trong bối cảnh xã hội và tôn giáo của nơi này.
Trung thành với Phúc Âm; dấu chỉ của tình yêu và hy vọng
Trong phim đan sĩ Jean-Pierre mới thuật lại những sự kiện của nhhững ngày bi thảm khi cộng đoàn các đan sĩ Tibhirine chọn ở lại Algeria bất chấp những đe doạ của những kẻ khủng bố và sự thù địch từ quân đội. Cha nói: “Đó là sự lựa chọn mà chúng tôi đã cùng nhau thực hiện: ở lại, bất chấp mọi thứ, để tiếp tục là một cộng đồng cầu nguyện bên cạnh những người hàng xóm Hồi giáo của chúng tôi. Chúng tôi không thể rời đi. Sự hiện diện của chúng tôi trong tu viện là một dấu hiệu của lòng trung thành với Phúc âm, với Giáo hội và với người dân Algeria. Chúng tôi không muốn trở thành những người tử vì đạo, nhưng là những dấu chỉ của tình yêu và hy vọng”.
Ngài cũng cho biết ngài thường tự hỏi tại sao mình lại được phép sống sót sau vụ thảm sát và ngài nhận ra rằng Thiên Chúa đã giao cho ngài sứ mệnh làm chứng về các sự kiện của Tibhirine và “làm cho kinh nghiệm hiệp thông với những người anh em Hồi giáo của chúng tôi, điều chúng tôi tiếp tục ở đây trong tu viện Midelt, được biết đến”. (Asia News 22/11/2021)
Hồng Thủy
2021
Ngoại trưởng Serbia khẳng định sự tốt đẹp và bền vững của tương quan với Toà Thánh
Ngoại trưởng Serbia khẳng định sự tốt đẹp và bền vững của tương quan với Toà Thánh
Ngày 22/11/2021, chia sẻ với giới báo chí sau cuộc gặp với Đức Tổng giám mục Paul Richard Gallagher, Ngoại trưởng Tòa thánh, Ngoại trưởng Nikola Selakovic của Serbia nói rằng quan hệ song phương giữa Serbia và Tòa Thánh là tốt đẹp và ổn định, đồng thời lưu ý rằng Serbia cam kết nuôi dưỡng và thúc đẩy mối quan hệ tổng thể với Vatican trên tinh thần đối thoại và hiểu biết.
Trong tuyên bố, ông Selakovic cho biết ông hài lòng với việc tăng cường quan hệ song phương ổn định và mang tính xây dựng với Tòa thánh.
Lưu ý rằng Đức tổng giám mục Gallagher đã viếng thăm Serbia chỉ một tháng sau khi ông thăm Vatican, Ngoại trưởng Serbia nói: “Chúng tôi coi chuyến thăm này là nền tảng tốt đẹp để hợp tác hơn nữa, phù hợp với lợi ích chung của hai nhà nước. Chúng tôi rất quan tâm đến việc tổ chức vòng tham vấn chính trị song phương tiếp theo và chúng tôi đã kết luận rằng sẽ rất tốt nếu tiếp tục thực hành đó – vốn đã bắt đầu vào tháng 5/2019 – vào nửa đầu năm tới”.
Quan điểm chung về một số vấn đề
Ông Selakovic cho biết Serbia và Tòa thánh có quan điểm giống nhau về một số vấn đề đáng kể có tầm quan trọng quốc tế, chẳng hạn như bảo vệ di sản Kitô giáo và phát triển nhân quyền của Kitô hữu, vấn đề người tị nạn và di cư, cũng như áp dụng Chương trình nghị sự 2030 của Liên Hiệp quốc vì sự phát triển bền vững. Ông cảm ơn Đức tổng giám mục Gallagher về sự hỗ trợ của Tòa thánh đối với Serbia trong quá trình hội nhập châu Âu. (Tanjug 22/11/2021)
Đức tổng giám mục Ngoại trưởng Toà Thánh Paul Gallagher đã thăm Serbia trong hai ngày 21-22/11 vừa qua. Ngài đã gặp các vị lãnh đạo Giáo hội Công giáo địa phương và chủ sự một lễ phong chức giám mục. Ngài cũng dùng cơm tối với Đức Thượng phụ Chính Thống giáo Porfirio.
Trong ngày 22/11 Đức tổng giám mục đã gặp Tổng thống, Thủ tướng và Ngoại trưởng của Serbia trước khi trở về Roma.
Hồng Thủy
2021
ĐTC Phanxicô: Thánh Giuse là gương mẫu và chứng tá cho thời đại chúng ta
ĐTC Phanxicô: Thánh Giuse là gương mẫu và chứng tá cho thời đại chúng ta
Trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ Tư 17/11/2021, Đức Thánh Cha bắt đầu loạt bài giáo lý về thánh Giuse. Ngài nói rằng thánh Giuse nhắc chúng ta rằng Thiên Chúa yêu thương những người ở vùng ngoại vi địa lý cũng như ngoại vi của cuộc sống hơn. Giáo hội được kêu gọi loan báo Tin Mừng cho những người ở những vùng ngoại vi của thế giới chúng ta. Những người nghèo và bị lãng quên ở giữa chúng ta có thể tìm đến thánh Giuse như một người hướng dẫn và người bảo vệ chắc chắn trong cuộc sống của họ.
Loạt bài giáo lý về thánh Giuse được bắt đầu nhân Năm đặc biệt về thánh Giuse, từ ngày 8/12/2020 đến ngày 8/12/2021.
Đức Thánh Cha nhận xét rằng thánh Giuse, người thợ mộc khiêm nhường làng Nadarét, người cha nuôi dưỡng Chúa Giêsu và quan thầy của Giáo hội hoàn vũ, đã sống hoàn toàn tín thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Bêlem và Nadarét, hai thị trấn nhỏ bé gắn liền với cuộc sống của thánh nhân, nhắc chúng ta rằng Thiên Chúa yêu thương những người nghèo và những người bị gạt ra bên lề cuộc sống hơn. Thiên Chúa đã chọn Bêlem, thành của Đa-vít, làm nơi cho Con của Người sinh ra dưới sự chăm sóc cẩn thận của thánh Giuse, thuộc dòng dõi Vua Đa-vít.
Bằng cuộc đời và gương sáng của mình, thánh Giuse nhắc nhở chúng ta rằng, trong thời đại của chúng ta, Giáo hội được kêu gọi để loan báo tin mừng Chúa Kitô đến, bắt đầu từ những vùng ngoại vi cuộc sống của thế giới chúng ta. Những người nghèo và bị lãng quên ở giữa chúng ta có thể tìm đến ngài như một người hướng dẫn và người bảo vệ chắc chắn trong cuộc sống của họ. Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu hãy cầu xin thánh Giuse cầu bầu cho Giáo hội, để chúng ta luôn có thể khởi hành lại từ Bêlem, để nhìn thấy và đánh giá đúng những gì là quan trọng thiết yếu đối với Thiên Chúa.
Chứng tá và gương mẫu của thánh nhân soi sáng chúng ta hơn nữa
Mở đầu bài giáo lý Đức Thánh Cha giải thích lý do ngài sẽ trình bày những bài giáo lý về thánh Giuse: “Ngày 8 tháng 12 năm 1870, chân phước Piô IX đã công bố thánh Giuse là quan thầy của Giáo hội hoàn vũ. 150 năm sau sự kiện đó, chúng ta đang sống năm đặc biệt dâng kính thánh Giuse, và trong Tông thư Patris corde, tôi đã thu thập một số suy tư về con người của ngài. Chưa bao giờ như ngày hôm nay, trong thời điểm được ghi dấu bởi một cuộc khủng hoảng toàn cầu với nhiều khía cạnh khác nhau, thánh nhân có thể là người hỗ trợ, an ủi và hướng dẫn chúng ta. Do đó, tôi đã quyết định dành một loạt bài giáo lý về ngài; tôi hy vọng điều này sẽ giúp chúng ta để mình được mẫu gương và chứng tá của ngài soi sáng nhiều hơn nữa.
Thánh Giuse – người tràn đầy tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa
Và Đức Thánh Cha bắt đầu bài giáo lý với suy tư về bối cảnh Kinh Thánh của cuộc đời thánh Giuse. Ngài nói: “Có hơn mười nhân vật trong Kinh Thánh có tên Giuse. Quan trọng nhất trong số này là người con trai ông Giacóp và bà Rakhen; người này đã trải qua nhiều thăng trầm, từ một nô lệ trở thành người quan trọng thứ hai ở Ai Cập sau vua Pharaô (x. St 37-50). Trong tiếng Do Thái, Giuse có nghĩa là “xin Chúa gia tăng, xin Chúa làm cho tăng trưởng”. Đó là một lời cầu chúc, một lời chúc lành dựa trên sự tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa và đặc biệt là nói đến sự sinh sản và sự gia tăng con cái. Thật vậy, chính tên này đã tỏ lộ cho chúng ta một khía cạnh quan trọng trong tính cách của thánh Giuse thành Nadarét. Ngài là một người tràn đầy niềm tin vào Thiên Chúa, vào sự quan phòng của Người. Mỗi hành động của thánh nhân được Phúc Âm thuật lại đều được xác định bằng sự xác tín rằng Thiên Chúa “làm cho lớn lên”, “gia tăng”, “thêm vào”, nghĩa là Thiên Chúa chuẩn bị để thực hiện chương trình cứu độ của Người. Và, về điều này, Giuse thành Nadarét rất giống với Giuse ở Ai Cập”.
Bêlem và Nadarét – những vùng ngoại vi
Theo Đức Thánh Cha, Bêlem và Nadarét, những tham chiếu địa lý đầu tiên về thánh Giuse, cũng đóng vai trò quan trọng giúp chúng ta hiểu biết về thánh nhân. Đức Thánh Cha giải thích: “Trong Cựu ước, thành phố Bêlem được gọi là Beth Lechem, ‘Nhà bánh mì’, hay còn gọi là Épratha, theo tên bộ lạc định cư ở đó. Tuy nhiên, trong tiếng Ả Rập, tên này có nghĩa là ‘Ngôi nhà của thịt’, có lẽ vì có nhiều đàn cừu và dê ở khu vực này. Thật vậy, không phải ngẫu nhiên mà khi Chúa Giêsu sinh ra, các mục đồng là những người đầu tiên chứng kiến sự kiện này (x. Lc 2,8-20). Dưới ánh sáng của câu chuyện về Chúa Giêsu, những ám chỉ về bánh và thịt nói đến mầu nhiệm Thánh Thể: Chúa Giêsu là bánh hằng sống từ trời xuống (x. Ga 6,51). Người sẽ nói về mình: ‘Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì có sự sống đời đời’ (Ga 6,54)”.
“Bêlem được nhắc đến nhiều lần trong Kinh Thánh, từ ngay trong sách Sáng Thế. Bêlem cũng được liên kết với câu chuyện của bà Rút và bà Naômi, được thuật lại trong sách Rút, một cuốn sách ngắn gọn nhưng tuyệt vời. Bà Rút sinh một người con trai tên là Obed, và người này sinh ra ông Giêsê, cha của Vua Đavít. Và chính từ dòng dõi của Vua Đavít mà thánh Giuse, cha của Chúa Giê-su theo pháp lý, đã được sinh ra. Bấy giờ, tiên tri Mikha đã báo trước những điều tuyệt vời về Bêlem: ‘Phần ngươi, hỡi Bêlem Épratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giuđa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Israel’ (Mk 5,1). Thánh sử Mátthêu sẽ lấy lời tiên tri này và kết nối nó với câu chuyện về Chúa Giêsu như sự ứng nghiệm rõ ràng của nó”.
“Quả thật, Con Thiên Chúa không chọn Giêrusalem làm nơi Người nhập thể làm người, mà là Bêlem và Nadarét, hai làng ở ngoại ô, cách xa tiếng ồn ào của tin tức và những người quyền lực thời bấy giờ. Tuy nhiên, Giêrusalem là thành phố được Chúa yêu thương (x. Is 62,1-12), là ‘thành thánh’ (Dn 3,28), được Chúa chọn làm nơi cư ngụ (x. Dc 3,2; Tv 132,13). Thực ra, đây là nơi cư ngụ của các tiến sĩ Luật, kinh sư và người Pharisêu, các thượng tế và các kỳ lão trong dân (xem Lc 2,46; Mt 15,1; Mc 3,22; Ga 1,19; Mt 26,3)”.
Vùng ngoại vi và bên lề đều được Thiên Chúa ưu ái
Đức Thánh Cha nhận định rằng đây là lý do tại sao việc lựa chọn Bêlem và Nadarét cho chúng ta biết rằng vùng ngoại vi và bên lề đều được Thiên Chúa ưu ái. Chúa Giêsu không sinh ra ở Giêrusalem cùng với toàn thể triều đình … Không: Người sinh ra ở vùng ngoại ô và sống cuộc đời của mình, tới 30 năm, ở vùng ngoại ô đó, làm thợ mộc, giống như thánh Giuse. Đối với Chúa Giêsu, những vùng ngoại vi và những người bị thiệt thòi được ưu tiên hơn. Đức Thánh Cha lưu ý: “Không xem xét sự kiện này một cách nghiêm túc đồng nghĩa với việc không coi trọng Tin Mừng và hoạt động của Thiên Chúa, Đấng tiếp tục tỏ mình ra trong các vùng ngoại vi địa lý và cuộc sống. Chúa luôn hành động âm thầm: Người luôn hành động âm thầm, ở ngoại vi. Ngay cả trong tâm hồn chúng ta, ở những vùng ngoại vi của linh hồn, của những tình cảm, có lẽ những tình cảm khiến chúng ta xấu hổ, nhưng Chúa ở đó để giúp chúng ta tiến bước. Chúa tiếp tục tỏ mình ra ở các vùng ngoại vi, dù là về mặt địa lý hay về cuộc sống”.
Chúa Giêsu đến viếng thăm cả những vùng ngoại vi của tâm hồn
Đặc biệt, Đức Thánh Cha nhấn mạnh: “Chúa Giêsu đi tìm kiếm những người tội lỗi; Người vào nhà họ, nói chuyện với họ, mời gọi họ hoán cải. Chúa Giêsu cũng bị quở trách về điều này: ‘Nhưng hãy nhìn xem vị Thầy này – các tiến sĩ luật nói – hãy nhìn vị Thầy này: ông ăn uống với tội nhân, người ô uế, đi tìm những tội nhân đã làm điều ác và cũng đi tìm những người không làm điều ác nhưng đã phải chịu đựng nó, chẳng hạn như những người bệnh tật, đói khổ, nghèo khó, rốt cùng’. Chúa Giêsu luôn luôn hướng về những vùng ngoại vi. Và điều này phải mang lại cho chúng ta rất nhiều niềm tin, đúng không? Bởi vì, Chúa biết vùng ngoại vi của trái tim chúng ta, vùng ngoại vi của tâm hồn chúng ta, vùng ngoại vi của xã hội chúng ta, của thành phố của chúng ta, của gia đình chúng ta, tức là phần hơi tăm tối, nơi có lẽ chúng ta không thể hiện ra vì xấu hổ, đúng không?”
Giáo hội được kêu gọi loan báo tin mừng đến các vùng ngoại vi
Đức Thánh Cha nhận xét: “Về mặt này, xã hội lúc bấy giờ không khác chúng ta là mấy. Ngay cả ngày nay vẫn có một trung tâm và một vùng ngoại vi. Và Giáo Hội biết rằng mình được kêu gọi để loan báo tin mừng đến các vùng ngoại vi. Thánh Giuse, một thợ mộc từ làng Nadareth và là người tin tưởng vào kế hoạch của Thiên Chúa dành cho vị hôn thê của ngài và cho ngài, nhắc nhở Giáo hội hãy chú ý đến những gì mà thế giới cố tình phớt lờ. Hôm nay thánh Giuse dạy chúng ta: ‘Đừng quá chú trọng vào những điều mà thế gian ca tụng, nhưng hãy nhìn vào những góc khuất, những bóng tối, hãy nhìn ra ngoại vi, những điều thế gian không mong muốn’. Ngài nhắc nhở mỗi chúng ta phải quý trọng đến những người mà người khác loại bỏ”.
Nhận ra điều cốt yếu
Theo nghĩa này, Đức Thánh Cha khẳng định rằng thánh Giuse “thực sự là một bậc thầy về điều cốt yếu: ngài nhắc nhở chúng ta rằng những gì thực sự có giá trị không thu hút sự chú ý của chúng ta, nhưng đòi hỏi sự phân định kiên nhẫn để được khám phá và đánh giá cao”.
Đức Thánh Cha mời gọi cầu xin thánh Giuse cầu bầu “để toàn thể Giáo hội có thể tìm lại được cách nhìn này, khả năng phân định và đánh giá điều cốt yếu này. Chúng ta hãy lại bắt đầu từ Bêlem, chúng ta hãy bắt đầu lại từ Nadarét”.
Thánh Giuse – chứng nhân và người bảo vệ
Cuối cùng Đức Thánh Cha gửi một thông điệp đến tất cả những người sống ở những vùng ngoại vi địa lý hay cuộc sống, bị lãng quên nhất trên thế giới, hoặc những người đang bị gạt ra ngoài lề của cuộc sống. Ngài nói: “Chớ gì anh chị em tìm thấy nơi thánh Giuse chứng nhân và người bảo vệ để mình tìm đến”. Và ngài mời gọi dâng lên thánh nhân lời cầu nguyện này:
Lạy Thánh Giuse,
ngài là người luôn tín thác vào Thiên Chúa,
và đưa ra những chọn lựa theo sự hướng dẫn quan phòng của Người,
xin dạy chúng con đừng quá dựa trên những kế hoạch của mình
nhưng theo kế hoạch tình yêu của Người.
Ngài là người đến từ những vùng ngoại vi,
xin giúp chúng con chuyển đổi cách nhìn
và thích chọn những gì thế giới loại bỏ và những thứ bị gạt ra bên lề hơn.
Xin an ủi những người cảm thấy cô đơn
và nâng đỡ những người làm việc âm thầm để bảo vệ sự sống và phẩm giá con người. Amen.
Hồng Thủy
2021
Hơn 7.000 tội ác oán ghét chống các tín hữu Kitô và tôn giáo khác
Hơn 7.000 tội ác oán ghét chống các tín hữu Kitô và tôn giáo khác
Phúc trình mới của tổ chức an ninh và cộng tác Âu châu, gọi tắt là OSCE cho biết trong năm ngoái (2020) có hơn 7.000 tội ác chống các nhóm thiểu số và tôn giáo. Con số những vụ chống các tín hữu Kitô tăng 70% so với năm 2019 trước đó. Cả các tội ác chống Do thái cũng gia tăng nhiều.
Phúc trình được công bố hôm 16 tháng Mười Một vừa qua, tại thủ đô Ba Lan với tựa đề “Dữ kiện về tội ác oán ghét” (Hate Crime Data). 42 trong số 57 quốc gia thành viên của tổ chức OSCE đã góp phần và cung cấp các dữ kiện cho phúc trình thường niên này.
Phúc trình liệt kê 7.181 vụ chống lại con người và các tổ chức tôn giáo tại 46 quốc gia. Có 980 tội ác chống các tín hữu Kitô và các nơi thờ phượng, biểu tượng và cơ sở của Giáo hội, tức là tăng thêm 70% so với 578 vụ hồi năm 2019. Con số những vụ bài Do thái tăng thêm 600 vụ. Phúc trình cho biết có 333 vụ chống người Hồi giáo, 84 vụ chống những nhóm du mục người Rom và Sinti.
Bà Madeleine Enzlberger, Giám đốc Đài quan sát về sự bất bao dung và kỳ thị chống Kitô hữu (OIDAC) nói rằng sự tăng ồ ạt những tội oán ghét chống Kitô hữu phải mở mắt những giới ưu tú chính trị và văn hóa. “Trong giới truyền thông và chính trị người ta ít coi tội oán ghét Kitô hưu là vấn đề, mặc dù chúng ngày càng hiển nhiên trong xã hội. Phúc trình của tổ chức OSCE chỉ phản ánh một phần nhỏ trong xu hướng mà từ nhiều năm nay chúng tôi quan tâm ghi nhận, và đó là một sự báo động chống lại sự dửng dưng và mạ lỵ các Kitô hữu, coi thái độ này như một mốt thời trang”.
Bà Enzlberger xác tín rằng con số thực sự về những tội ác oán ghét Kitô hữu cao hơn nhiều.
(Kathpress 16-11-2021)
Trần Đức Anh, O.P.