2021
Nhà nước Cuba đe dọa các linh mục
Nhà nước Cuba đe dọa các linh mục
Nhà nước cộng sản Cuba đe dọa các linh mục tại nước này trong nhiều ngày vì đã ủng hộ những cuộc biểu tình dân chủ cho Cuba diễn ra tại nhiều nơi trên thế giới, hôm 15 tháng Mười Một vừa qua, với khẩu hiệu “Dân chúng tuần hành đòi thay đổi”.
Un’immagine dai social delle manifestazioni a sud ovest di L’Avana | AFP or licensors
Tin được phổ biến trên nhiều trang mạng cho biết ban tôn giáo chính phủ đã lên tiếng cảnh cáo các linh mục liên quan hoặc ủng hộ các cuộc tuần hành này.
Một trong số các linh mục bị cảnh cáo và đe dọa là cha Alberto Reyes. Tuy nhiên cha nói rằng mặc dù bị đe dọa và đàn áp, các linh mục không do dự ủng hộ cuộc đấu tranh cho tự do tại Cuba. Cha nói: “Chúng tôi là những linh mục công bố Tin mừng của Chúa Giêsu Kitô, và Tin mừng nói về tự do, công lý và sự thật, đó là những điều mà đất nước chúng ta đòi hỏi”.
Hôm 15 tháng Mười Một vừa qua, các cuộc biểu tình phò dân chủ tại Cuba đã diễn ra tại hơn 120 thành phố trên thế giới, trong đó Madrid, Zaragoza bên Tây Ban Nha và Miami bên Mỹ. Đó là một hình thức ủng hộ các cuộc biểu tình phản đối ồ ạt, hôm 11 tháng Bảy năm nay tại Cuba. Các tham dự viên biểu lộ sự bất mãn với tình trạng nạn nghèo đói gia tăng, những khó khăn trong việc tìm kiếm lương thực, thuốc men và vắc xin chống Covid-19.
(Kai 16-11-2021)
Trần Đức Anh, O.P.
2021
Chân phước Lazarus Devasahayam sẽ được phong thánh, “thời khắc lịch sử” của Giáo hội Ấn Độ
Chân phước Lazarus Devasahayam sẽ được phong thánh, “thời khắc lịch sử” của Giáo hội Ấn Độ
Vào ngày 15/5/2022, tại Vatican, chân phước Lazarus Devasahayam của Ấn Độ và 6 chân phước khác sẽ được phong thánh. Đối với các tín hữu Công giáo Ấn Độ, việc một người từng là tín đồ Ấn giáo từ thế kỷ XVIII trở lại Công giáo sắp được phong thánh là một “thời khắc lịch sử” của toàn thể Giáo hội Công giáo ở Ấn Độ.
Chân phước Lazarus Devasahayam
Đức Tổng Giám mục Felix Machado của Tổng Giáo phận Vasai, Tổng Thư ký của Hội đồng Giám mục Ấn Độ nói: “Đối với nhiều người trong chúng tôi, những người đã lãnh nhận đức tin từ các vị tiền bối, chứng tá của chân phước Devasahayam nhắc nhở chúng tôi rằng, Tin Mừng là một kho tàng cần được khám phá và dành trọn cả đời. Chân phước Lazarus, thường được gọi là Devasahayam, đã trở thành người nghèo vì thiện ích và tình thương dành cho người nghèo. Việc chân phước Lazarus được phong thánh sẽ là một sự khích lệ cho chúng tôi cố gắng bắt chước đời sống của chân phước”.
Chân phước Lazarus sẽ là giáo dân và thánh tử đạo đầu tiên người Ấn của Giáo hội Ấn Độ. Ngài sẽ được chính thức tuyên là thánh tử đạo của Giáo hội Công giáo hoàn vũ. Chân phước Lazarus đã được phúc tử đạo vì đức tin cách đây gần 270 năm tại tiểu bang Tamil Nadu.
Vào ngày 03/5/2021, tại Dinh Tông Tòa, Đức Thánh cha đã nhóm công nghị và quyết định tôn phong bảy chân phước lên bậc hiển thánh, trong đó có chân phước Lazarus. Tuy nhiên, ngài không ấn định ngày cho lễ tuyên thánh vì tình trạng khẩn cấp về sức khỏe do đại dịch Covid-19 gây ra. Hôm 09/11 vừa qua, Phòng báo chí Tòa Thánh cho biết Đức Thánh Cha đã ấn định ngày tôn phong hiển thánh cho bảy chân phước, là ngày 15/5/2022, và chính ngài sẽ chủ sự Thánh lễ phong thánh này.
Tiểu sử
Lazarus Devasahayam sinh ngày 23/4/1712 với tên gọi Neelakanda Pillai, tại làng Nattalam. Ông từng phục vụ trong hoàng gia của Vương quốc Hindu ở Travancore, ngày nay thuộc bang Kerala miền nam Ấn Độ. Vương quốc này trải dài từ khu vực Kanyakumari của bang Tamil Nadu, đến tận Cochin ở bang Kerala láng giềng.
Năm 1741, thuyền trưởng Eustachius De Lannoy, một vị chỉ huy hải quân Hà Lan của công ty Đông Ấn Hà Lan, được lệnh đến đánh chiếm cảng Colachel của Travancore. Ông đã không thành công trong nhiệm vụ này, bị bắt làm tù binh. Nhưng sau đó, thuyền trưởng người Hà Lan đã được ân xá và trở thành vị chỉ huy đáng tin cậy của Vương quốc Hindu. Ông đã giành chiến thắng trong một số trận chiến tại Travancore.
Chính trong những vai trò có ảnh hưởng của họ dưới thời vua Travancore, Devasahayam Pillai và De Lannoy đã trở thành bạn thân.
Trở lại và lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy
Devasahayam bắt đầu quan tâm đến đức tin của De Lannoy. Từng bước, thuyền trưởng đã khai mở đức tin cho Devasahayam và vào năm 1745, khi đó 32 tuổi, ông chính thức trở lại Công giáo, lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy.
Devasahayam được cha Bouttari Italus, Dòng Tên, rửa tội tại nhà thờ Công giáo của làng Vadakkankulam, thuộc quận Tirunelveli của Tamil Nadu. Ông lấy tên thánh rửa tội là Lazarus, và trong tiếng địa phương, Devasahayam có nghĩa là “Thiên Chúa là Đấng phù trợ tôi”. Vợ ông, bà Bargavi Ammal ở Travancore, cũng theo chồng và được rửa tội lấy tên là Gnanapoo, nghĩa là Têrêsa.
Bị giết vì thù ghét đức tin
Cuộc trở lại Công giáo của Lazarus Devasahayam gây bất mãn nơi các thủ lãnh tôn giáo địa phương. Họ vu khống ông phản bội và gây nguy hiểm cho vương quốc Hindu.
Việc ông từ chối thờ các vị thần Ấn giáo trong cung điện và từ chối tham dự các lễ hội tôn giáo truyền thống của Ấn giáo đã khiến các quan chức vô cùng tức giận. Họ không thể dung thứ cho ông về những lời rao giảng cho sự bình đẳng đối với mọi người. Thực vậy, trong các lần giảng dạy, ông đặc biệt nhấn mạnh đến sự bình đẳng của tất cả mọi người, bất chấp sự khác biệt về đẳng cấp.
Những kẻ thù ghét vu khống ông về tội phản quốc và tố cáo ông làm gián điệp, đồng thời cách chức và sa thải ông. Devasahayam đã bị bắt giam và bị tra tấn dã man. Ngày 14/01/1752, sau 7 năm trở lại Công giáo, ông đã bị bắn chết trong rừng Aralvaimozhy.
Các địa điểm liên quan đến cuộc đời và cuộc tử đạo của Devasahayam ở giáo phận Kottar, thuộc quận Kanyakumari của bang Tamil Nadu, cũng như phần mộ của ông tại nhà thờ thánh Phanxicô Xavier ở Nagercoil đã thu hút rất nhiều người đến kính viếng và cầu nguyện.
Công nhận tử đạo
Trong Giáo hội Công giáo, việc phong thánh cho một tín hữu là một tiến trình rất nghiêm ngặt kéo dài nhiều năm và thậm chí nhiều thập kỷ. Tiến trình này bắt đầu ở cấp giáo phận nơi ứng viên thuộc về. Trong trường hợp của ông Devasahayam, từ năm 1756 đã bắt đầu có những nỗ lực và lời kêu gọi lẻ tẻ về việc phong thánh và tử đạo cho ông.
Vào ngày 22/12/2003, Giáo phận Kottar đã nhận được sự đồng ý của Toà Thánh cho tiến trình án phong thánh tử đạo của Devasahayam ở cấp địa phương. Từ năm 2006 đến 2008, bắt đầu giai đoạn điều tra ở cấp Giáo phận, và Devasahayam đã được tuyên Tôi Tớ Chúa.
Sau đó, tiến trình này được chuyển đến Vatican dưới sự xem xét của Bộ Phong thánh. Vào ngày 15/11/2011, sau khi đánh giá các tài liệu được đệ trình, các nhà tư vấn lịch sử kết luận rằng các bằng chứng thu thập được là đủ và đáng tin cậy để chứng minh cuộc tử đạo của Devasahayam là xác thực.
Ngày 07/02/2012, một cuộc họp đặc biệt của các nhà tư vấn thần học đã diễn ra, lưu ý đến độ tin cậy lịch sử của các tài liệu thu thập được. Các nhà thần học kết luận rằng nguyên nhân cái chết của Devasahayam là do lòng thù ghét đức tin và chính Devasahayam cũng đã chấp nhận điều này. Sau đó, ngày 08/5/2012, trong một phiên họp thường niên, các hồng y và giám mục đã thông qua việc xác định này.
Đối với một ứng viên không phải tử đạo, trước khi phong chân phước phải có một phép lạ được chứng minh là nhờ lời chuyển cầu của tín hữu này. Tuy nhiên điều này không cần thiết đối với một án phong chân phước cho một tín hữu đã chịu tử đạo, như trường hợp của ông Devasahayam.
Phong chân phước
Vào ngày 28/6/2012, Đức nguyên Giáo hoàng Biển Đức XVI đã ủy quyền cho Bộ Phong thánh ban hành sắc lệnh nhìn nhận sự tử đạo của Devasahayam. Ngày 02/12/2012, Đức Hồng y Angelo Amato, nguyên Tổng Trưởng Bộ Phong Thánh đại diện Đức Giáo Hoàng, chủ sự Thánh lễ phong Chân phước cho ông Devasahayam, tại khuôn viên trường Carmel ở Nagercoil, Giáo phận Kottar.
Trong buổi đọc Kinh Truyền Tin tại quảng trường thánh Phêrô cùng hôm đó Đức nguyên Giáo hoàng Biển Đức XVI đã nói: “Chúng ta cùng hòa niềm vui chung với Giáo hội Ấn Độ và cầu nguyện với tân Chân phước, xin ngài nâng đỡ đức tin của các Kitô hữu của đất nước rộng lớn và cao quý đó”.
Tiến trình phong thánh
Phép lạ qua sự chuyển cầu của chân phước là điều cần thiết để hoàn thành tiến trình phong thánh.
Trong trường hợp của chân phước Devasahayam, một cuộc điều tra đã được thực hiện tại Giáo phận Kottar về một phép lạ. Bộ Phong thánh cho biết đây là trường hợp hồi sinh của một thai nhi mới được 20 tuần của một phụ nữ người Ấn Độ. Hội đồng y khoa đã thẩm tra trường hợp này, vào ngày 28/02/2019 họ đã nhất trí tuyên bố rằng việc chữa bệnh không thể giải thích bằng kiến thức y học hiện tại.
Vào ngày 05/12/2019, một cuộc họp đặc biệt của các nhà tư vấn thần học của Bộ Phong thánh đã thông qua phép lạ. Các hồng y và giám mục đã họp vào ngày 18/02/2020, cũng đã chấp thuận. Ba ngày sau, ngày 21/02, Đức Thánh Cha đã ủy quyền cho Bộ Phong thánh công bố sắc lệnh chính thức nhìn nhận phép lạ, giúp cho tiến trình phong hiển thánh cho Chân phước Devasahayam được hoàn tất.
Niềm vui của Giáo hội Ấn độ
Việc chân phước Devasahayam, một giáo dân Ấn Độ đầu tiên được phong thánh là một sự khích lệ lớn cho Giáo hội tại đây. Điều này càng là một niềm tự hào, vì Devasahayam chịu tử đạo khi đấu tranh cho sự bình đẳng của các giai cấp trong Ấn Độ, một hiện tượng cho đến nay vẫn còn tồn tại.
Xã hội Ấn chia thành 4 giai cấp: giai cấp cao nhất là “Brahmani” gồm các tư tế, các người trí thức, các nhà chú giải các văn bản thánh, dạy dỗ và truyền thụ; giai cấp thứ hai là “Kshatriya” gồm các nhà lãnh đạo quân sự, các chiến sĩ, tức giới thượng lưu quân sự; giai cấp thứ ba là “Vaishya” gồm các thương gia, các nông dân và các người chăn nuôi súc vật; giai cấp thứ tư là “Shudra” gồm các người làm thủ công nghệ, đầy tớ và công nhân thợ thuyền. Ngoài ra, thấp nhất trong bậc thang xã hội là những người “ngoài giai cấp”, thường được gọi là những người “paria” hay ”không thể đụng tới”, vì các công việc ô uế và hèn hạ họ làm như thu dọn vệ sinh và chôn người chết. Ngày nay những người “paria” này được gọi là “Dalit”, những người “bị áp bức”.
Hiến pháp của Ấn Độ độc lập năm 1950 đã chính thức loại bỏ việc phân chia giai cấp. Khoản 15 của Hiến pháp cấm mọi kỳ thị dựa trên tôn giáo, chủng tộc, giai tầng xã hội, phái tính và nơi sinh trưởng. Và khoản 16 thiết định các cơ hội đồng đều cho tất cả mọi công dân liên quan tới công ăn việc làm. Nhưng giữa hai cực đó là sự mập mờ và khuynh hướng xu thời.
Tuy trên lý thuyết việc phân chia giai cấp đã chính thức được hủy bỏ, nhưng trên thực tế, trong tiềm thức và cung cách hành xử của người dân Ấn Độ, việc phân chia và kỳ thị giai cấp vẫn tiếp tục hiện diện và đè nặng trên cuộc sống của các giai cấp thấp kém hơn, đặc biệt là giai cấp cùng đinh.
Trong nhiều thập niên qua, Kitô giáo đã tranh đấu cho quyền được hỗ trợ của các anh chị em cùng đinh Dalit Kitô, nhưng chính quyền Ấn Độ nhất quyết không chấp thuận, viện cớ là họ đã được các Giáo hội Kitô nâng đỡ rồi. Việc theo Kitô giáo giúp người Dalit ra khỏi các ràng buộc truyền thống, nhưng lại khiến cho họ trở thành nạn nhân của bạo lực.
Các nhà truyền giáo đã hỗ trợ vật chất và tinh thần cho các anh chị em Dalit, để họ có được nền giáo dục cao hơn. Các thế hệ sau này theo Kitô giáo vì nhiều lý do khác nhau, đặc biệt vì căn tính Kitô mới mẻ giúp họ sống kinh nghiệm của phẩm giá và sự tự do của bản vị con người.
Tuy vậy, quyền lợi của người Dalit vẫn chưa thực sự được nhìn nhận. Vì vậy Giáo hội Công giáo vẫn không ngừng đấu tranh cho quyền lợi của những người bị thiệt thòi này. Từ năm 2007, hàng năm vào Chúa nhật thứ hai của tháng 11, người Công giáo và Tin lành ở Ấn Độ cử hành “Ngày giải phóng người Dalit”, “những người không có vị trí trong xã hội”. Sáng kiến được Hội đồng Giám mục Ấn Độ đứng ra tổ chức, với sự cộng tác của Hội đồng các Giáo hội Kitô Quốc gia.
Với thực trạng xã hội Ấn, chân phước Devasahayam được phong thánh trong năm tới sẽ là nguồn động viên lớn cho những ai đang dấn thân đấu tranh cho quyền lợi của những người nghèo, những người bị loại ra bên lề ở Ấn Độ.
Ngọc Yến
2021
Lạm dụng tình dục: Các chuyến đi kiểm tra của Rôma ở các giáo phận sẽ diễn ra như thế nào?
Lạm dụng tình dục: Các chuyến đi kiểm tra của Rôma ở các giáo phận sẽ diễn ra như thế nào?
Các giám mục Pháp xin Đức Phanxicô cử một hoặc nhiều đặc sứ đến kiểm việc xử lý lạm dụng ở mỗi giáo phận Pháp. Một quy trình quy mô chưa từng có, dù Tòa Thánh đã có các thủ tục để can thiệp, kiểm tra hoặc phân xử việc xử lý hành vi lạm dụng trong các giáo phận.
Lần can thiệp gần đây của Vatican ở một giáo phận diễn ra từ ngày 28 tháng 5 đến 16 tháng 6 là ở tổng giáo phận Cologne (Đức). Khi đó Đức Phanxicô cử hồng y Anders Arborelius, giáo phận Stockholm, và giám mục Johannes van den Hende, giáo phận Rotterdam làm đặc sứ tông đồ. Nhiệm vụ của họ: “Có được một khái niệm đầy đủ về tình trạng mục vụ phức tạp của tổng giáo phận”.
Được hồng y Rainer-Maria Woelki, tổng giám mục giáo phận Cologne yêu cầu, hai giám chức Vatican đi trước hết là để đánh giá hành động của tổng giám mục và các phụ tá của ngài trong việc xử lý các trường hợp lạm dụng tình dục của các linh mục. Dù có một báo cáo độc lập đã minh oan rất nhiều cho các giám chức giáo phận Cologne, nhưng giáo phận vẫn bị chỉ trích nhiều, hồng y Woelki khó dập tắt được các cuộc tranh luận. Sau khi điều tra, giáo hoàng đã quyết định minh oan cho hồng y, nhưng chấp nhận để hồng y rút lui vài tháng.
Một thủ tục bất thường và tạm thời
Chuyến đi tông đồ theo dạng này là một thủ tục bất thường và tạm thời do Tòa Thánh quyết định và luôn do một cơ quan có thẩm quyền, ngoài nhóm liên hệ, thực hiện. Chuyến đi có thể nhắm một mục đích cụ thể như lần đi kiểm tra Binh đoàn Chúa Kitô năm 2010, lần đến một đền thánh như chuyến đi Đức Mẹ Mễ Du năm 2018, đến một quốc gia như trường hợp năm 2005 đến các chủng viện Mỹ, hoặc năm 2010 đến Ai-len. Chuyến đi không nhắm đến một cách có hệ thống các vấn đề lạm dụng tình dục, nhưng có thể nhắm đến các vấn đề quản trị khác.
Trong trường hợp nước Pháp, một thủ tục như thủ tục áp dụng ở tổng giáo phận Cologne có thể không phù hợp, nước Pháp có tổng cộng 93 giáo phận mà các giám mục Pháp mong được “viếng thăm” tất cả.
Khi được cử đến, các đặc sứ do Vatican chỉ định – một bộ hoặc chính giáo hoàng chỉ định – và có tất cả các quyền lực cần thiết để thực hiện sứ mệnh của họ một cách đúng đắn. Hơn nữa, tất cả những người của giáo phận hoặc của các cộng đồng liên hệ phải hoàn toàn cộng tác với các đặc sứ, không cố tình cản trở công việc điều tra của họ.
Không có “lực lượng đặc nhiệm”
Trong trường hợp nước Pháp, một thủ tục như thủ tục áp dụng ở tổng giáo phận Cologne có thể không phù hợp, nước Pháp có tổng cộng 93 giáo phận mà các giám mục Pháp mong được “viếng thăm” tất cả.
Khi được hỏi, linh mục Dòng Tên Hans Zollner, chuyên gia trong việc chống lạm dụng tình dục ở Rôma cho biết, cha không biết sự can thiệp của Tòa thánh chính xác thực hiện dưới hình thức nào. Ngài hình dung việc thành lập một “nhóm bên ngoài” có khả năng “kiểm tra” xem các quyết tâm có phù hợp và được thực hiện tốt hay không.
Linh mục Zollner, chủ tịch Ủy ban Giáo hoàng bảo vệ trẻ vị thành niên cho biết, Đức Phanxicô sẽ không cần đến một thủ tục can thiệp khác như “Lực lượng đặc nhiệm”. Nhưng nhóm can thiệp đặc biệt này, chống các trường hợp lạm dụng, gần đây đã can thiệp vào Ba Lan và Mexicô sau khi các vụ bê bối được phát hiện ở hai quốc gia này.
Nhưng, như linh mục Zollner giải thích, thực thể này chỉ can thiệp vào các hội đồng giám mục chưa “cập nhật hướng dẫn của họ về việc bảo vệ trẻ vị thành niên”, có nghĩa là các tiêu chuẩn do Đức Phanxicô thiết lập trong tự sắc Các con là ánh sáng thế gian, Vos estis lux mundi năm 2019. “Tự sắc” này của giáo hoàng chính thức thiết lập tất cả các thủ tục mà các giám mục phải thực hiện trong trường hợp có các vụ lạm dụng. Trên điểm này, với báo cáo Ciase và những thông báo gần đây, linh mục Zollner cho rằng “người Pháp đã làm xong việc của họ”.
Được một hồng y hoặc một giám mụcgiám sát
Do đó, sự can thiệp có thể sẽ do một “nhóm độc lập, nhằm đảm bảo các kết quả mang tính khách quan và đáng tin cậy”. Và tiến trình nên được một hồng y hoặc một giám mục giám sát như những lần có chuyến thăm tông đồ đến một giáo phận. Chuyến đi gần đây nhất có lẽ là chuyến đi tông đồ đến Ai-len do Đức Bênêđictô XVI làm năm 2010. Lúc đó ngài đã chỉ định bốn vị “đặc sứ”, hồng y Cormac Murphy-O’Connor, tổng giám mục danh dự giáo phận Westminster, hồng y Sean Patrick O’Malley, tổng giám mục giáo phận Boston. Tuy nhiên, chuyến đi chỉ đến bốn giáo phận Armagh, Dublin, Cashel-Emly, và Tuam để “điều tra sâu hơn” các vấn đề liên quan đến lạm dụng trẻ em.
Cho đến nay chưa ai biết Đức Phanxicô sẽ quyết định chi tiết nào cho nước Pháp và cũng chưa biết khi nào bắt đầu cuộc “kiểm toán” này. Trong trường hợp tổng giáo phận Cologne, hồng y Woelki đã chờ vài tháng trước khi Đức Phanxicô quyết định cử các đặc sứ đi.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
2021
Đức Phanxicô tỏ lòng biết ơn với những người công giáo đã giúp đỡ bệnh nhân AIDS
Đức Phanxicô tỏ lòng biết ơn với những người công giáo đã giúp đỡ bệnh nhân AIDS
Đức Phanxicô đã viết thư cho nhà báo Michael O’Loughlin, tác giả của một tiểu luận và podcast về công việc của một số thành viên Giáo hội trong thời kỳ cao điểm của dịch bệnh AIDS ở Thành phố New York vào những năm 1980 và 1990. Ngài ca ngợi lòng thương xót của những người công giáo đã giúp đỡ các nạn nhân dù phải bị rủi ro nghề nghiệp và danh tiếng của họ.
vaticannews.va, Salvatore Cernuzio, Vatican, 2021-11-16
Đó là “lời cám ơn” sâu sắc Đức Phanxicô gởi đến các linh mục, nữ tu và giáo dân đã giúp đỡ các bệnh nhân AIDS, dù họ phải trả giá bằng mạng sống của chính mình, trong những năm 1980 và 1990, khi dịch bệnh của loại vi-rút này chưa được nhiều người biết đến và tỷ lệ tử vong lúc đó gần như 100%.
Ngài bày tỏ lòng biết ơn trong bức thư gởi nhà báo Michael O’Loughlin, phóng viên của trang America, tác giả của một bài tiểu luận được xuất bản gần đây có tựa đề “Lòng thương xót tiềm ẩn: AIDS, người công giáo và những câu chuyện chưa kể về lòng trắc ẩn khi đối diện với nỗi sợ hãi” (Hidden Mercy : AIDS, Catholics, and the Untold Stories of Compassion in Face of the Fear).
Lòng biết ơn của giáo hoàng
Trong bức thư ngắn, Đức Phanxicô viết: “Cám ơn ông đã soi sáng nhiều cuộc đời và đã làm chứng cho nhiều linh mục, tu sĩ, giáo dân, những người đã đồng hành, hỗ trợ và giúp đỡ anh chị em bị bệnh H.I.V. và AIDS, dù có nguy cơ lớn ảnh hưởng lớn đến nghề nghiệp và danh tiếng của mình.”
Ngài xúc động viết tiếp: “Thay vì thờ ơ, xa lánh và thậm chí lên án, những người này để cho mình xúc động trước lòng thương xót của Chúa Cha và để cho điều này trở thành công việc cho cuộc đời của họ; một lòng thương xót kín đáo, thầm lặng và ẩn giấu, nhưng luôn có khả năng nâng đỡ, phục hồi cuộc sống và đời sống của mỗi chúng ta”.
Các phán đoán và thành kiến
Ngày nay, việc chăm sóc và giúp đỡ – kể cả nâng đỡ về mặt thiêng liêng – cho bệnh nhân AIDS là một phần sứ mệnh của Giáo hội, nhưng trước đây không phải lúc nào cũng được như vậy. Vào đầu những năm 1980, khi lần đầu tiên các nhà khoa học khám phá căn bệnh chết người này nơi một số bệnh nhân ở Hoa Kỳ, họ không có triệu chứng ở giai đoạn đầu và rất dễ lây lan, đã tạo kinh hoàng lan nhanh rộng trong xã hội, kết quả là sự phân biệt đối xử và kỳ thị với những người mắc bệnh này.
Ở New York, nơi căn bệnh AIDS đã tạo một loại rối loạn tâm thần tập thể, những người mắc bệnh thậm chí còn bị các bệnh viện từ chối. Sự từ chối này đặc biệt ảnh hưởng đến những người đồng tính, những người có số trường hợp mắc bệnh cao nhất vào thời điểm đó. Đến nỗi bản thân căn bệnh này mới đầu bị gọi là hội chứng suy giảm miễn dịch liên hệ đến đồng tính. Vì thế, trong một thời gian dài, bệnh AIDS bị cho là bệnh “ung thư đồng tính”, và những người đồng tính bị loại ra khỏi giáo xứ của họ. Nhiều người trong cấp bậc Giáo hội đã gọi vi-rút này là “sự trừng phạt của Chúa với hành vi tình dục trái đạo đức”.
Quan điểm này được duy trì trong nhiều năm, ngay cả sau khi có các trường hợp bệnh không phải đồng tính, những người nghiện ma túy và những người mắc chứng bệnh máu khó đông, vì thế sau đó mới có sự bác bỏ mối liên quan giữa đồng tính và căn bệnh này. Từ viết tắt này đã được thay đổi vào năm 1982 để trở thành Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải AIDS.
Mặc dù bây giờ bệnh dịch này không được báo chí nói nhiều như những năm 1990, nhưng nó vẫn tiếp tục ảnh hưởng đến hơn 36 triệu người trên thế giới. Sự phát triển ba liệu pháp đã giúp giảm tỷ lệ tử vong liên quan đến căn bệnh này ở các nước phát triển nhất, nhưng nạn nhân vẫn còn rất nhiều ở các nước nghèo nhất, đặc biệt là ở châu Phi.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch