2021
ĐTC dâng Thánh lễ tại Sân vận động GSP của Sýp
ĐTC dâng Thánh lễ tại Sân vận động GSP của Sýp
Lúc 10 giờ sáng 3/12, sau cuộc gặp gỡ Thánh Hội đồng Chính Thống giáo, Đức Thánh Cha di chuyển đến sân vận động GSP cách đó 9km để dâng Thánh Lễ với các tín hữu Công giáo.
Lúc 10 giờ sáng thứ Sáu, 3/12, sau cuộc gặp gỡ Thánh Hội đồng Chính Thống giáo, Đức Thánh Cha di chuyển đến sân vận động GSP cách đó 9km để dâng Thánh Lễ với các tín hữu Công giáo.
Sân vận động GSP với 22 ngàn chỗ ngồi được khánh thành năm 1999. Thánh Lễ hôm nay ban đầu dự kiến có 4000 tín hữu tham dự, và thực tế con số này đã lên đến 10 ngàn người tham dự Thánh Lễ với Đức Thánh Cha, trong đó chính quyền đã xin 700 vé, mặc dù đa số các quan chức chính quyền thuộc Chính Thống giáo.
Trước khi bắt đầu Thánh Lễ, Đức Thượng phụ Pierbattista Pizzaballa, Thượng phụ Giêrusalem nghi lễ Latinh đã có lời chào ngắn với Đức Thánh Cha.
© AP
Đức Thánh Cha cử hành Thánh Lễ với phụng vụ kính thánh Phanxicô Xaviê, với bài đọc I được trích từ sách tiên tri Isaia – “trong ngày đó mắt của người mù sẽ được thấy”, và bài Tin Mừng theo thánh Matthêu về việc Chúa Giêsu chữa lành cho hai người mù. Cả hai bài được đọc bằng tiếng Hy Lạp, trong khi Thánh Lễ được cử hành bằng tiếng Latinh, bài giảng bằng tiếng Ý, và nhiều bài hát bằng tiếng Anh.
Bài giảng
Trong bài giảng, Đức Thánh Cha khai triển 3 bước của việc hai người mù gặp gỡ Chúa Giêsu và được chữa lành. Và từ đó, đến lượt mình, trong hành trình Mùa Vọng này, chúng ta chuẩn bị đón mừng Chúa đến.
Bước đầu tiên: đến gặp Chúa Giêsu để được chữa lành. Bản văn nói rằng hai người mù đã kêu lên với Chúa khi họ đi theo Người (xem câu 27). Họ không nhìn thấy Người nhưng họ lắng nghe giọng nói của Người và theo bước Người. Họ tìm kiếm nơi Đức Kitô những gì các tiên tri đã báo trước, đó là những dấu chỉ của việc chữa lành và lòng trắc ẩn của Thiên Chúa giữa dân Người. Về điều này, Isaia đã viết: “Mắt người mù mở ra” (35,5). Và một lời tiên tri khác, trong bài đọc thứ nhất hôm nay: “mắt người mù sẽ thoát cảnh mù mịt tối tăm và sẽ được nhìn thấy” (29,18). Hai người trong Tin Mừng tín thác vào Chúa Giêsu và đi theo Người để tìm kiếm ánh sáng cho đôi mắt của họ.
Đức Thánh Cha đặt câu hỏi: “Tại sao hai người này tín thác vào Chúa Giê-su? Bởi vì họ nhận thức rằng, trong bóng tối của lịch sử, Ngài là ánh sáng soi vào đêm tối của trái tim và của thế giới, đánh tan bóng tối và chiến thắng mọi sự mù loà. Cũng vậy, chúng ta biết, chúng ta mang trong tim mình sự mù loà. Chúng ta cũng như hai anh mù, là những lữ khách thường chìm đắm trong bóng tối của cuộc sống. Việc đầu tiên phải làm là đến với Chúa Giêsu, như chính Người mời gọi: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.” (Mt 11,28). Ai trong chúng ta không cảm thấy vất vả và gánh nặng? Tuy nhiên, chúng ta cưỡng lại việc tiến về phía Chúa Giêsu; nhiều khi chúng ta thích khép mình lại, cô đơn với bóng tối của mình, chấp nhận khóc than và chấp nhận cho nỗi buồn lẻo đẻo bám theo. Chúa Giêsu là bác sĩ: chỉ có Người, là ánh sáng đích thực chiếu soi mọi người (x. Ga 1,9), mới ban cho chúng ta dư tràn ánh sáng, hơi ấm, tình yêu. Chỉ có Người giải thoát trái tim khỏi sự ác. Chúng ta có thể tự hỏi: liệu tôi có đóng chặt mình trong bóng tối u buồn, điều làm cạn kiệt nguồn vui, hay tôi đến với Chúa Giêsu và mang cuộc sống của tôi đến với Người? Tôi có theo Chúa Giêsu, tôi có “đi theo” Người và kêu lên với Người về những nhu cầu của tôi, tôi có dâng cho Người những cay đắng của tôi không? Hãy làm điều đó, chúng ta hãy cho Chúa Giêsu cơ hội để chữa lành trái tim của chúng ta. Đây là bước đầu tiên. Sự chữa lành bên trong còn đòi hỏi hai điều nữa.
Thứ hai là cùng nhau mang lấy những vết thương. Trong trình thuật Tin Mừng, không có việc chữa lành cho một người mù, chẳng hạn như trường hợp của Bartimê (x. Mc 10,46-52) hoặc người mù bẩm sinh (x. Ga 9,1-41). Ở đây là hai người mù. Họ cùng với nhau trên đường. Họ cùng nhau chia sẻ nỗi đau về tình trạng bệnh tật của mình, cùng nhau khao khát một ánh sáng có thể chiếu vào đêm tối trái tim của họ. Bản văn chúng ta đã nghe luôn ở số nhiều, vì cả hai cùng nhau làm mọi việc: cả hai cùng theo Chúa Giêsu, cả hai cùng kêu lên và xin Người chữa lành; không phải mỗi người tự mình, mà là cùng nhau. Điều quan trọng là họ nói với Chúa Kitô: xin thương xót chúng tôi. Họ sử dụng từ “chúng tôi”, họ không nói “tôi”. Mỗi người không nghĩ về sự mù loà của chính mình mà cùng nhau xin giúp đỡ. Đây là dấu hiệu hùng hồn của đời sống Kitô hữu, đây là điểm đặc trưng của tinh thần giáo hội: suy nghĩ, nói năng, hành động như một “chúng ta”, bằng cách thoát ra khỏi chủ nghĩa cá nhân và sự giả định rằng tự mình là đủ, những thứ khiến con tim bệnh hoạn.
Hai người mù, với việc chia sẻ những đau khổ và với tình bạn huynh đệ của họ, đã dạy cho chúng ta rất nhiều điều. Mỗi người chúng ta đều mù lòa theo một cách nào đó do tội lỗi, điều này ngăn cản chúng ta “nhìn thấy” Thiên Chúa là Cha và người khác là anh em. Điều này gây ra tội lỗi, nó bóp méo thực tế: nó khiến chúng ta xem Thiên Chúa là chủ và những người khác là vấn đề. Đó là hành động của kẻ cám dỗ, kẻ làm sai lệch mọi thứ và có xu hướng trình bày mọi thứ dưới dáng vẻ tiêu cực trước mắt chúng ta để ném chúng ta vào tuyệt vọng và cay đắng. Và nỗi buồn xấu xa, vốn nguy hiểm và không đến từ Thiên Chúa, thường ẩn nấp trong sự cô đơn. Do đó, chúng ta không thể một mình đối mặt với bóng tối. Nếu chúng ta tự mình mang lấy sự mù loà bên trong, chúng ta sẽ bị đánh bại. Chúng ta cần đặt mình cạnh người khác, cần chia sẻ những vết thương, và cùng nhau lên đường.
Trước mọi bóng tối cá nhân và những thách đố mà chúng ta gặp phải trong Giáo hội và trong xã hội, chúng ta được mời gọi canh tân tình huynh đệ. Nếu chúng ta vẫn còn chia rẽ, nếu mỗi người chỉ nghĩ đến mình hoặc nhóm của mình, nếu chúng ta không hợp lại với nhau, chúng ta không đối thoại, chúng ta không cùng nhau bước đi, thì chúng ta không thể chữa lành hoàn toàn sự mù loà. Sự chữa lành sẽ đến khi chúng ta cùng nhau mang lấy những vết thương, khi chúng ta cùng nhau đối diện với những vấn đề, khi chúng ta lắng nghe nhau và nói với nhau. Đây là ân sủng của việc sống trong cộng đoàn, hiểu được giá trị của việc cùng nhau, việc trở nên một cộng đoàn. Tôi cầu xin điều đó cho anh chị em: Ước gì anh chị em luôn ở bên nhau, luôn luôn hiệp nhất; tiến bước như thế và với niềm vui: với tư cách là những anh em Kitô hữu, con cái của một người Cha duy nhất.
Bước thứ ba là loan báo Tin Mừng với niềm vui. Sau khi cùng nhau được Chúa Giêsu chữa lành, hai nhân vật chính ẩn danh của Tin Mừng, mà chúng ta có thể nhìn thấy chính mình trong đó, bắt đầu loan tin khắp cả vùng. Có một sự thật hơi trớ trêu: Chúa Giêsu đã khuyên họ đừng nói gì với ai, nhưng họ lại làm hoàn toàn ngược lại (x. Mt 9,30-31). Tuy nhiên, từ câu chuyện, chúng ta hiểu rằng họ không có ý định không vâng lời Chúa; nhưng đơn giản chỉ là họ không thể kiềm nén sự phấn khích vì đã được chữa lành, niềm vui vì những gì họ đã sống trong cuộc gặp gỡ với Người. Và đây là một dấu hiệu đặc biệt khác của Kitô hữu: niềm vui của Tin Mừng, điều không thể kiềm chế được, “lấp đầy trái tim và trọn cuộc đời của những ai gặp gỡ Chúa Giê-su” (Tông huấn Niềm vui Tin Mừng, 1); niềm vui của Tin Mừng giải phóng khỏi nguy cơ của một đức tin hù doạ, hà khắc và ảm đạm, nhưng đưa vào sự năng động của việc làm chứng.
Anh chị em quý mến, thật tuyệt vời khi gặp anh chị em và nhìn thấy anh chị em sống vui tươi với lời loan báo giải phóng của Tin Mừng. Tôi cảm ơn anh chị em vì điều đó. Đây không phải là chiêu dụ tín đồ, mà là làm chứng; không phải chủ nghĩa đạo đức, mà là lòng thương xót; không phải là sự thờ phượng bên ngoài, nhưng là tình yêu được sống. Tôi khuyến khích anh chị em tiếp tục đi trên con đường này: giống như hai người mù trong Tin Mừng, chúng ta cũng hãy làm mới lại cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu và chúng ta hãy ra khỏi chính mình mà không sợ hãi để làm chứng về Người cho những người chúng ta gặp! Hãy ra đi để trao tặng ánh sáng mà chúng ta đã lãnh nhận, hãy bước ra để chiếu sáng màn đêm thường vây quanh chúng ta! Cần có những Kitô hữu được soi sáng nhưng đặc biệt là sáng tỏ, những người có thể chạm đến sự mù loà của anh em mình bằng sự dịu dàng; những người bằng những cử chỉ và lời an ủi có thể thắp lên ánh sáng hy vọng nơi bóng tối; những Kitô hữu gieo mầm Tin Mừng trên cánh đồng khô cằn của cuộc sống hàng ngày; những người có khả năng mang lại sự xoa dịu cho nỗi cô đơn của đau khổ và đói nghèo.
Chúa Giêsu cũng đi qua các đường phố Sýp, Người lắng nghe tiếng kêu của sự mù lòa của chúng ta, Người muốn chạm vào mắt chúng ta và trái tim của chúng ta, mang lại cho chúng ta ánh sáng, sự tái sinh và nâng chúng ta lên từ bên trong. Và Người cũng hỏi chúng ta câu hỏi mà Người đã hỏi hai người mù: “Các anh có tin là tôi làm được điều ấy không?” (Mt 9,28). Chúng ta có tin rằng Chúa Giê-su có thể làm được điều này không? Chúng ta hãy làm mới lại đức tin của chúng ta vào Người! Chúng ta hãy nói với Người: Lạy Chúa Giêsu, chúng con tin rằng ánh sáng của Chúa mạnh mẽ mọi bóng tối của chúng con; chúng con tin rằng Ngài có thể chữa lành chúng con, rằng Ngài có thể làm mới tình huynh đệ của chúng con, rằng Ngài có thể làm cho niềm vui của chúng con được nhân lên; và cùng với toàn thể Giáo hội, chúng con cầu xin Chúa: Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến!
Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu cùng lặp lại với ngài: “Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến!”
Lời chào cuối lễ
Vào cuối thánh lễ, Đức Thánh Cha đã cảm ơn và chào các tín hữu về sự chào đón và tình cảm dành cho ngài. Ngài nói: “Tại đây ở Sýp, tôi đang hít thở một chút bầu khí đặc trưng của Vùng đất Thánh, nơi sự cổ kính và sự đa dạng của các truyền thống Kitô giáo làm phong phú cho người hành hương. Tôi thật vui, thật vui được gặp cộng đoàn tín hữu sống hiện tại với niềm hy vọng, mở ra với tương lai và chia sẻ chân trời này với những người cần nhất. Đặc biệt, tôi nghĩ đến những người di cư để tìm kiếm một cuộc sống tốt đẹp hơn, những người mà tôi sẽ có một cuộc gặp cuối cùng trên đảo này, cùng với các anh chị em thuộc các giáo phái Kitô khác nhau.”
Đức Thánh Cha cũng cảm ơn tất cả những người đã cộng tác trong việc tổ chức chuyến thăm!
Kết thúc Thánh Lễ, ĐTC trở về Toà Sứ Thần cách đó gần 8km để nghỉ trưa. Chương trình buổi chiều bắt đầu vào lúc 4 giờ, với buổi cầu nguyện đại kết với những người di cư tại Nhà thờ giáo xứ Thánh Giá ở Nicosia.
Văn Yên, SJ
2021
Bài giảng Thánh lễ tại “Sân vận động GSP” ở Nicosia
Bài giảng Thánh lễ tại “Sân vận động GSP” ở Nicosia
Bài giảng Thánh lễ tại “Sân vận động GSP” ở Nicosia 3/12/2021
Hai người mù, khi Chúa Giêsu đi ngang qua, đã kêu lên với Người về nỗi khốn cùng và niềm hy vọng của họ: “Lạy con vua Đa-vít, xin thương xót chúng tôi!” (Mt 9,27). “Con vua Đa-vít” là một tước hiệu để chỉ về Đấng Mêsia, mà các lời ngôn sứ đã loan báo về dòng dõi của Đa-vít. Do đó, hai nhân vật chính của bài Tin Mừng hôm nay đều bị mù, nhưng họ lại thấy điều quan trọng nhất: họ nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai đã đến thế gian. Chúng ta hãy xem xét ba bước của cuộc gặp gỡ này. Chúng có thể giúp chúng ta, trong hành trình Mùa Vọng này, để đến lượt mình, chúng ta đón mừng Chúa đến, Chúa bước qua.
Bước đầu tiên: đến gặp Chúa Giêsu để được chữa lành. Bản văn nói rằng hai người mù đã kêu lên với Chúa khi họ đi theo Người (xem câu 27). Họ không nhìn thấy Người nhưng họ lắng nghe giọng nói của Người và theo bước Người. Họ tìm kiếm nơi Đức Kitô những gì các tiên tri đã báo trước, đó là những dấu chỉ của việc chữa lành và lòng trắc ẩn của Thiên Chúa giữa dân Người. Về điều này, Isaia đã viết: “Mắt người mù mở ra” (35,5). Và một lời tiên tri khác, trong bài đọc thứ nhất hôm nay: “mắt người mù sẽ thoát cảnh mù mịt tối tăm và sẽ được nhìn thấy” (29,18). Hai người trong Tin Mừng tín thác vào Chúa Giêsu và đi theo Người để tìm kiếm ánh sáng cho đôi mắt của họ.
Thưa anh chị em, tại sao hai người này tín thác vào Chúa Giê-su? Bởi vì họ nhận thức rằng, trong bóng tối của lịch sử, Ngài là ánh sáng soi vào đêm tối của trái tim và của thế giới, đánh tan bóng tối và chiến thắng mọi sự mù loà. Cũng vậy, chúng ta biết, chúng ta mang trong tim mình sự mù loà. Chúng ta cũng như hai anh mù, là những lữ khách thường chìm đắm trong bóng tối của cuộc sống. Việc đầu tiên phải làm là đến với Chúa Giêsu, như chính Người mời gọi: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.” (Mt 11,28). Ai trong chúng ta không cảm thấy vất vả và gánh nặng? Tất cả. Tuy nhiên, chúng ta cưỡng lại việc tiến về phía Chúa Giêsu; nhiều khi chúng ta thích khép mình lại, cô đơn với bóng tối của mình, chấp nhận khóc than và chấp nhận cho nỗi buồn lẻo đẻo bám theo. Chúa Giêsu là bác sĩ: chỉ có Người, là ánh sáng đích thực chiếu soi mọi người (x. Ga 1,9), mới ban cho chúng ta dư tràn ánh sáng, hơi ấm, tình yêu. Chỉ có Người giải thoát trái tim khỏi sự ác. Chúng ta có thể tự hỏi: liệu tôi có đóng chặt mình trong bóng tối u buồn, điều làm cạn kiệt nguồn vui, hay tôi đến với Chúa Giêsu và mang cuộc sống của tôi đến với Người? Tôi có theo Chúa Giêsu, tôi có “đi theo” Người và kêu lên với Người về những nhu cầu của tôi, tôi có dâng cho Người những cay đắng của tôi không? Hãy làm điều đó, chúng ta hãy cho Chúa Giêsu cơ hội để chữa lành trái tim của chúng ta. Đây là bước đầu tiên. Sự chữa lành bên trong còn đòi hỏi hai điều nữa.
Thứ hai là cùng nhau mang lấy những vết thương. Trong trình thuật Tin Mừng, không có việc chữa lành cho một người mù, chẳng hạn như trường hợp của Bartimê (x. Mc 10,46-52) hoặc người mù bẩm sinh (x. Ga 9,1-41). Ở đây là hai người mù. Họ cùng với nhau trên đường. Họ cùng nhau chia sẻ nỗi đau về tình trạng bệnh tật của mình, cùng nhau khao khát một ánh sáng có thể chiếu vào đêm tối trái tim của họ. Bản văn chúng ta đã nghe luôn ở số nhiều, vì cả hai cùng nhau làm mọi việc: cả hai cùng theo Chúa Giêsu, cả hai cùng kêu lên và xin Người chữa lành; không phải mỗi người tự mình, mà là cùng nhau. Điều quan trọng là họ nói với Chúa Kitô: xin thương xót chúng tôi. Họ sử dụng từ “chúng tôi”, họ không nói “tôi”. Mỗi người không nghĩ về sự mù loà của chính mình mà cùng nhau xin giúp đỡ. Đây là dấu hiệu hùng hồn của đời sống Kitô hữu, đây là điểm đặc trưng của tinh thần giáo hội: suy nghĩ, nói năng, hành động như một “chúng ta”, bằng cách thoát ra khỏi chủ nghĩa cá nhân và sự giả định rằng tự mình là đủ, những thứ khiến con tim bệnh hoạn.
Hai người mù, với việc chia sẻ những đau khổ và với tình bạn huynh đệ của họ, đã dạy cho chúng ta rất nhiều điều. Mỗi người chúng ta đều mù lòa theo một cách nào đó do tội lỗi, điều này ngăn cản chúng ta “nhìn thấy” Thiên Chúa là Cha và người khác là anh em. Điều này gây ra tội lỗi, nó bóp méo thực tế: nó khiến chúng ta xem Thiên Chúa là chủ và những người khác là vấn đề. Đó là hành động của kẻ cám dỗ, kẻ làm sai lệch mọi thứ và có xu hướng trình bày mọi thứ dưới dáng vẻ tiêu cực trước mắt chúng ta để ném chúng ta vào tuyệt vọng và cay đắng. Và nỗi buồn xấu xa, vốn nguy hiểm và không đến từ Thiên Chúa, thường ẩn nấp trong sự cô đơn. Do đó, chúng ta không thể một mình đối mặt với bóng tối. Nếu chúng ta tự mình mang lấy sự mù loà bên trong, chúng ta sẽ bị đánh bại. Chúng ta cần đặt mình cạnh người khác, cần chia sẻ những vết thương, và cùng nhau lên đường.
Anh chị em thân mến, trước mọi bóng tối cá nhân và những thách đố mà chúng ta gặp phải trong Giáo hội và trong xã hội, chúng ta được mời gọi canh tân tình huynh đệ. Nếu chúng ta vẫn còn chia rẽ, nếu mỗi người chỉ nghĩ đến mình hoặc nhóm của mình, nếu chúng ta không hợp lại với nhau, chúng ta không đối thoại, chúng ta không cùng nhau bước đi, thì chúng ta không thể chữa lành hoàn toàn sự mù loà. Sự chữa lành sẽ đến khi chúng ta cùng nhau mang lấy những vết thương, khi chúng ta cùng nhau đối diện với những vấn đề, khi chúng ta lắng nghe nhau và nói với nhau. Đây là ân sủng của việc sống trong cộng đoàn, hiểu được giá trị của việc cùng nhau, việc trở nên một cộng đoàn. Tôi cầu xin điều đó cho anh chị em: Ước gì anh chị em luôn ở bên nhau, luôn luôn hiệp nhất; tiến bước như thế và với niềm vui: với tư cách là những anh em Kitô hữu, con cái của một người Cha duy nhất. Và tôi cũng cầu xin điều đó cho chính mình.
Và đây là bước thứ ba: loan báo Tin Mừng với niềm vui. Sau khi cùng nhau được Chúa Giêsu chữa lành, hai nhân vật chính ẩn danh của Tin Mừng, mà chúng ta có thể nhìn thấy chính mình trong đó, bắt đầu loan tin khắp cả vùng. Có một sự thật hơi trớ trêu: Chúa Giêsu đã khuyên họ đừng nói gì với ai, nhưng họ lại làm hoàn toàn ngược lại (x. Mt 9,30-31). Tuy nhiên, từ câu chuyện, chúng ta hiểu rằng họ không có ý định không vâng lời Chúa; nhưng đơn giản chỉ là họ không thể kiềm nén sự phấn khích vì đã được chữa lành, niềm vui vì những gì họ đã sống trong cuộc gặp gỡ với Người. Và đây là một dấu hiệu đặc biệt khác của Kitô hữu: niềm vui của Tin Mừng, điều không thể kiềm chế được, “lấp đầy trái tim và trọn cuộc đời của những ai gặp gỡ Chúa Giê-su” (Tông huấn Niềm vui Tin Mừng, 1); niềm vui của Tin Mừng giải phóng khỏi nguy cơ của một đức tin hù doạ, hà khắc và ảm đạm, nhưng đưa vào sự năng động của việc làm chứng.
Anh chị em quý mến, thật tuyệt vời khi gặp lại anh chị em và nhìn thấy anh chị em sống vui tươi với lời loan báo giải phóng của Tin Mừng. Tôi cảm ơn anh chị em vì điều đó. Đây không phải là chiêu dụ tín đồ, – xin vui lòng, đừng bao giờ chiêu dụ tín đồ! – mà là làm chứng; không phải chủ nghĩa đạo đức, mà là lòng thương xót; không phải là sự thờ phượng bên ngoài, nhưng là tình yêu được sống. Tôi khuyến khích anh chị em tiếp tục đi trên con đường này: giống như hai người mù trong Tin Mừng, chúng ta cũng hãy làm mới lại cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu và chúng ta hãy ra khỏi chính mình mà không sợ hãi để làm chứng về Người cho những người chúng ta gặp! Hãy ra đi để trao tặng ánh sáng mà chúng ta đã lãnh nhận, hãy bước ra để chiếu sáng màn đêm thường vây quanh chúng ta! Anh chị em thân mến, cần có những Kitô hữu được soi sáng nhưng đặc biệt là sáng tỏ, những người có thể chạm đến sự mù loà của anh em mình bằng sự dịu dàng; những người bằng những cử chỉ và lời an ủi có thể thắp lên ánh sáng hy vọng nơi bóng tối; những Kitô hữu gieo mầm Tin Mừng trên cánh đồng khô cằn của cuộc sống hàng ngày; những người có khả năng mang lại sự xoa dịu cho nỗi cô đơn của đau khổ và đói nghèo.
Thưa anh chị em, Chúa Giêsu cũng đi qua các đường phố Sýp của chúng ta, Người lắng nghe tiếng kêu của sự mù lòa của chúng ta, Người muốn chạm vào mắt chúng ta và trái tim của chúng ta, mang lại cho chúng ta ánh sáng, sự tái sinh và nâng chúng ta lên từ bên trong. Và Người cũng hỏi chúng ta câu hỏi mà Người đã hỏi hai người mù: “Các anh có tin là tôi làm được điều ấy không?” (Mt 9,28). Chúng ta có tin rằng Chúa Giê-su có thể làm được điều này không? Chúng ta hãy làm mới lại đức tin của chúng ta vào Người! Chúng ta hãy nói với Người: Lạy Chúa Giêsu, chúng con tin rằng ánh sáng của Chúa mạnh mẽ hơn mọi bóng tối của chúng con; chúng con tin rằng Ngài có thể chữa lành chúng con, rằng Ngài có thể làm mới tình huynh đệ của chúng con, rằng Ngài có thể làm cho niềm vui của chúng con được nhân lên; và cùng với toàn thể Giáo hội, tất cả chúng con cầu xin Chúa: Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến!
(Vatican News 03.12.2021)
2021
ĐTC gặp các linh mục, tu sĩ, phó tế, giáo lý viên của Giáo hội Sýp (02-12-2021)
ĐTC gặp các linh mục, tu sĩ, phó tế, giáo lý viên của Giáo hội Sýp (02-12-2021)
Đức Thánh Cha mời gọi các linh mục, tu sĩ, phó tế, giáo lý viên của Giáo hội Sýp, theo gương thánh Barnaba: Trong khi thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng cần sự kiên nhẫn và sống tình huynh đệ.
Sau khi được chào đón chính thức tại sân bay quốc tế Larnaca, vào lúc 16 giờ thứ Năm 02/12/2021, Đức Thánh Cha đến Nhà thờ chính toà Maronite Đức Mẹ Ban Ơn ở Nicosia, để gặp các linh mục, tu sĩ nam nữ, phó tế, giáo lý viên, các hiệp hội và phong trào của Giáo hội Sýp.
Nhà thờ chính toà Maronite Đức Mẹ Ban Ơn
Thành phố Nicosia
Nicosia là thủ đô của của Sýp, nằm ở đồng bằng Mesoria, giữa những ngọn núi của Kyrenia ở phía bắc, cao nguyên Troodos ở phía nam và dọc theo sông Pedieos. Thành phố trung tâm của đảo Sýp, đảo lớn thứ ba ở Địa Trung Hải. Năm 1974, sau cuộc xâm lược của người Thổ Nhĩ Kỳ, thành phố bị chia cắt thành hai, một phần thuộc Sýp và một phần thuộc Thổ Nhĩ Kỳ.
Ngày nay Nicosia, thủ đô bị chia cắt cuối cùng trên lục địa châu Âu, là một trong những trung tâm kinh tế và tài chính quan trọng của Đông Địa Trung Hải. Ngoài những điểm chính liên quan đến lịch sử, Nicosia được bao quanh bởi các bức tường thành bằng đá sa thạch do người Venice xây dựng vào thế kỷ XVI. Các bức tường được gia cố bởi mười một pháo đài hình trái tim và được bảo vệ bởi một con hào rộng 80 mét. Bên trong, có khu phố truyền thống của Laiki Geitonia, với các quán rượu, cửa hàng, nhà hàng và các phòng trưng bày. Các bức tường xung quanh có ba cổng lịch sử. Những con hào xung quanh khu phức hợp từ lâu đã được chuyển đổi thành một công viên.
Nhà thờ chính toà Maronite Đức Mẹ Ban Ơn
Khi tới Nhà thờ chính toà Maronite Đức Mẹ Ban Ơn ở Nicosia, Đức Thánh Cha được Đức Tổng Giám mục Maronite đón tại lối vào chính và cả hai cùng tiến vào nhà thờ.
Nhà thờ chính toà Maronite Đức Mẹ Ban Ơn ở Nicosia được xây dựng vào thế kỷ XVII, và được trùng tù và khánh thành vào ngày 28/10/1961. Những lần trùng tu tiếp theo có liên quan đặc biệt đến bàn thờ, theo các tiêu chuẩn của phụng vụ Maronite; rồi các cửa sổ kính màu nghệ thuật được lắp đặt mô tả theo cuộc đời của các vị thánh Maronite và đã được thực hiện khảm ở mặt ngoài. Đức nguyên Giáo hoàng Biển Đức XVI đã đến thăm nhà thờ vào ngày 06/6/2010.
Buổi gặp gỡ
Buổi gặp gỡ được bắt đầu với bài hát, lời chào mừng của Đức Hồng y Béchara Boutros Raï, Thượng phụ của Antiochia của các tín hữu Maronite, lời chứng của hai nữ tu đại diện.
Trong bài diễn văn trước những người hiện diện, Đức Thánh Cha cám ơn các linh mục, tu sĩ, phó tế, giáo lý viên và các thành viên của các hiệp hội, phong trào về thừa tác vụ và sự phục vụ họ đang thực hiện. Ngài đặc biệt cám ơn các nữ tu về hoạt động giáo dục mà các chị đang thực hiện trong các trường học, nơi có nhiều trẻ em trên đảo tham gia. Đây là nơi gặp gỡ, đối thoại và học biết nghệ thuật xây những cây cầu.
ĐTC gặp các linh mục, tu sĩ, phó tế, giáo lý viên của Giáo hội Sýp
Hành hương theo vết chân thánh Barnaba
Đức Thánh Cha nói ngài đến đây như một người hành hương theo vết chân Tông đồ vĩ đại Barnaba, người con của dân tộc này, môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến và một người loan báo Tin Mừng dũng cảm. Ngài giải thích: “Khi đến thăm các cộng đoàn mới được khai sinh, thánh Tông đồ đã thấy ân sủng Chúa đang hoạt động; ngài vui mừng và “khuyên nhủ mọi người bền lòng gắn bó cùng Chúa” (Cv 11, 23). Tôi đến đây cùng với ước muốn đó: thấy ân sủng Chúa đang hoạt động trong Giáo hội và trong vùng đất của anh chị em, để vui mừng với anh chị em về những điều kỳ diệu Chúa đã thực hiện, và mời gọi anh chị em luôn kiên trì, không mệt mỏi hay nản lòng”.
Chào hai cộng đoàn Giáo hội
Tiếp đến, Đức Thánh Cha chào hai cộng đoàn Giáo hội hiện diện tại đây: Giáo hội Maronite, với nhiều thử thách, nhưng vẫn kiên vững trong đức tin. Ngài cám ơn các tín hữu vì những gì đang thực hiện tại đây tại Sýp. Đức Thánh Cha nói: “Cây tùng tuyết của Libăng được nhắc đến nhiều lần trong Kinh Thánh như một ví dụ về vẻ đẹp và sự hùng vĩ. Nhưng ngay cả cây tùng tuyết vĩ đại cũng mọc lên từ rễ và từ từ đâm chồi. Anh chị em là những gốc rễ đó, được bứng trồng ở Sýp để lan tỏa hương thơm và vẻ đẹp Tin Mừng”.
Với Giáo hội Latinh, Đức Thánh Cha nói: “hiện diện ở đây hàng thiên niên kỷ, theo thời gian, đã chứng kiến lòng nhiệt thành đức tin, cùng với sự tăng trưởng của con cái Giáo hội. Ngày nay, nhờ sự hiện diện của nhiều anh chị em di cư, đã thể hiện như một dân tộc ‘đa sắc’, một nơi gặp gỡ thực sự giữa các dân tộc và nền văn hóa khác nhau.”. Ngài giải thích: “Giáo hội cũng vậy, công giáo, nghĩa là phổ quát, là một không gian rộng mở, trong đó tất cả mọi người đều được chào đón và quy tụ bởi lòng thương xót và lời mời gọi yêu thương của Chúa. Trong Giáo hội Công giáo không có những bức tường. Vì Giáo hội là ngôi nhà chung, là nơi của những tương quan, là sự chung sống trong đa dạng”.
ĐTC gặp các linh mục, tu sĩ, phó tế, giáo lý viên của Giáo hội Sýp
Mẫu gương thánh Barnaba: Kiên nhẫn trong sứ vụ
Đức Thánh Cha nói về thánh Barnaba, đấng bảo trợ của các tín hữu tại đảo Sýp, bằng những từ mô tả cuộc đời và sứ vụ của ngài:
Đầu tiên là sự kiên nhẫn. Thánh Barnaba được Giáo hội Giêrusalem chọn đến thăm một cộng đoàn mới, Antiôkhia, được tạo thành từ một số người mới trở lại. Đến nơi, ngài thấy những người đến từ một thế giới, một nền văn hóa khác, một sự nhạy cảm tôn giáo khác. Những người có một đức tin đầy nhiệt thành, nhưng vẫn còn mong manh. Trong hoàn cảnh này, thái độ của thánh Barnaba là sự kiên nhẫn. Đó là sự kiên nhẫn không ngừng lên đường, để bước vào cuộc sống của những người chưa biết, để chấp nhận những gì là mới, không vội vàng phán xét. Kiên nhẫn phân định, biết nắm bắt những dấu hiệu hoạt động của Chúa ở khắp mọi nơi; kiên nhẫn để “nghiên cứu” các nền văn hóa và truyền thống khác. Đặc biệt, thánh Barnaba có sự kiên nhẫn đồng hành: ngài không áp đặt đức tin mong manh của những người mới đến bằng thái độ khắt khe và thiếu linh hoạt, hoặc bằng cách đưa ra những đòi hỏi quá nhiều về việc tuân thủ các giới luật. Ngài đồng hành và đối thoại với họ.
Chúng ta cần một Giáo hội kiên nhẫn. Một Giáo Hội không để cho mình bị xáo trộn và bối rối trước những thay đổi, nhưng thanh thản đón nhận tính mới lạ và phân định những tình huống dưới ánh sáng Tin Mừng. Trên hòn đảo này, công việc anh chị em làm trong việc chào đón những anh chị em mới đến từ những bờ biển khác của thế giới thật là quý giá. Giống như thánh Barnaba, anh chị em cũng được kêu gọi để vun trồng một cái nhìn kiên nhẫn và chú ý, để trở thành những dấu hiệu dễ thấy và đáng tin cậy của sự kiên nhẫn của Chúa, Đấng không bao giờ để bất cứ ai bên ngoài ngôi nhà, ngoài vòng tay yêu thương của Người.
Mời gọi các giám mục và linh mục kiên nhẫn trong sứ vụ
Tới đây, Đức Thánh Cha mời gọi các Giám mục: “Hãy là những mục tử kiên nhẫn trong sự gần gũi, không mệt mỏi tìm kiếm Chúa trong cầu nguyện, gặp gỡ các linh mục, các anh chị em của các hệ phái Kitô khác với sự tôn trọng và ân cần, các tín hữu nơi họ đang sinh sống”. Và ngài mời gọi các linh mục: “hãy kiên nhẫn với các tín hữu, luôn sẵn sàng khuyến khích họ, hãy là những thừa tác viên không biết mệt mỏi về sự tha thứ và lòng thương xót của Chúa. Đừng bao giờ là những quan toà khắt khe, nhưng luôn là những người cha yêu thương. Công trình của Chúa hoàn thành nơi mỗi người là một ‘lịch sử thánh thiêng’: chúng ta hãy say mê hoạt động này”.
ĐTC gặp các linh mục, tu sĩ, phó tế, giáo lý viên của Giáo hội Sýp
Mẫu gương thánh Barnaba: Sống tình huynh đệ trong sứ vụ
Đức Thánh Cha nói tiếp về điểm thứ hai nơi con người của thánh Barnaba: Cuộc gặp gỡ giữa ngài với Phaolô thành Tarsô và tình bạn huynh đệ của họ, giúp họ cùng nhau thực hiện sứ vụ. Sau khi Phaolô trở lại, “mọi người đều sợ ông, vì họ không tin ông là một môn đệ” (Cv 9,26), vì trước đây ông là kẻ bắt bớ các tín hữu. Ở đây Sách Công Vụ Tông đồ cho chúng ta biết một điều rất hay: “Barnaba đưa Phaolô đi cùng với ông” (c. 27), đưa ông đến với cộng đoàn, thuật lại những gì đã xảy ra với ông và bảo lãnh cho ông. Chúng ta hãy lắng nghe những lời đó, “ông đưa Phaolô đi cùng với ông”. Điều này gợi lên sứ vụ của chính Chúa Giêsu, vì Người đã đưa các môn đệ đi theo Người qua các đường phố của Galilê và mang lấy nhân loại của chúng ta bị thương tích bởi tội lỗi. Đó là thái độ của tình bạn và chia sẻ cuộc sống. Đưa đi cùng có nghĩa là cùng mang lấy lịch sử của người khác, dành thời gian để hiểu biết họ, không dán nhãn, mang họ trên vai khi họ mệt mỏi hoặc bị thương, như người Samari nhân hậu đã làm (Lc 10, 25-37). Đây là tình huynh đệ.
Barnaba và Phaolô, như hai anh em, cùng đi loan báo Tin Mừng. Lời Chúa tăng trưởng và lớn mạnh, không chỉ vì phẩm chất con người của hai ông, nhưng trên hết vì hai ông là anh em trong danh Chúa, và tình huynh đệ của họ làm giới răn yêu thương được toả sáng. Sau đó, như đã xảy ra trong cuộc sống, một sự kiện không mong đợi đã xảy ra: có sự bất hoà và chia tay nhau (Cv 15, 39). Giữa anh chị em cũng có những lần tranh luận và cãi nhau. Tuy nhiên, Phaolô và Barnaba không chia tay nhau vì lý do cá nhân, nhưng vì họ đang tranh luận về thừa tác vụ. Đây là tình huynh đệ trong Giáo hội: chúng ta có thể tranh luận về những quan điểm, những ý tưởng khác nhau. Trong một số trường hợp, thẳng thắn nói ra có thể mang lại ích lợi, vì đó là cơ hội để trưởng thành và thay đổi. Tuy nhiên, chúng ta hãy luôn nhớ rằng: chúng ta tranh luận không phải vì để gây chiến hay áp đặt ý kiến riêng của mình, nhưng để bày tỏ và sống sức sống của Thần Khí, là tình yêu và sự hiệp thông.
ĐTC gặp các linh mục, tu sĩ, phó tế, giáo lý viên của Giáo hội Sýp
Đức Thánh Cha mời gọi: “Chúng ta cần một Giáo hội huynh đệ, một Giáo hội là khí cụ tình huynh đệ cho thế giới. Ở đây, ở Sýp có rất nhiều sự nhạy cảm về tâm linh và Giáo hội, nguồn gốc, lịch sử, các lễ nghi và truyền thống khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta không được coi sự đa dạng như một mối đe dọa đối với căn tính; chúng ta không được ghen tị hoặc bận tâm đối với các vấn đề khác. Nếu chúng ta rơi vào cám dỗ này, thì nỗi sợ hãi sẽ lớn dần lên, và rồi sinh ra sự hoài nghi và rồi sớm muộn gì cũng dẫn đến chiến tranh”.
Đức Thánh Cha kết thúc bài diễn văn với lời mời gọi: “Với tình huynh đệ, anh chị em có thể nhắc nhở mọi người, và toàn thể châu Âu rằng, để xây dựng một tương lai xứng đáng với nhân loại, cần phải cùng nhau làm việc, vượt lên trên những chia rẽ, phá bỏ các bức tường, vun trồng ước mơ hiệp nhất. Chúng ta cần chào đón và hòa nhập, cùng nhau bước đi như những anh chị em!”.
Ngọc Yến
2021
ĐTC đến đảo Sýp, chặng thứ nhất của chuyến tông du
ĐTC đến đảo Sýp, chặng thứ nhất của chuyến tông du
Sau chuyến bay kéo dài 3 giờ từ Roma, chiếc máy bay A320 của hãng hàng không mới ITA Airways của Ý chở Đức Thánh Cha đã đáp xuống sân bay Larnaca ở Sýp lúc 3 giờ chiều giờ địa phương.
Theo truyền thống, giám mục đầu tiên của thành phố Lanarca là thánh Ladarô, người bạn làng Bêtania đã được Chúa Giêsu cho sống lại.
Khi máy bay chở Đức Thánh Cha dừng lại tại sân dành cho các nguyên thủ, nơi dành cho nghi lễ tiếp đón chính thức, Sứ thần Toà Thánh tại Sýp, Đức tổng giám mục Adolfo Tito Yllana, và trưởng ban Nghi lễ của Sýp đã lên máy bay chào Đức Thánh Cha.
Bước xuống thang máy bay, Đức Thánh Cha được Chủ tịch Quốc hội của Sýp, bà Annita Demetriou, chào đón tại chân thang máy bay.
Chủ tịch Quốc hội của Sýp, bà Annita Demetriou, chào đón ĐTC
3 thiếu nhi trong trang phục truyền thống tặng hoa cho Đức Thánh Cha.
Các thiếu nhi tặng hoa cho ĐTC
Sau khi duyệt qua hàng quân danh dự, Đức Thánh Cha và Chủ tịch Quốc hội của Sýp giới thiệu hai phái đoàn của Vatican và đảo Sýp.
ĐTC đi qua hàng quân danh dự
Kết thúc nghi lễ tiếp đón, Đức Thánh Cha và bà Chủ tịch Quốc hội đến phòng VIP hội kiến riêng.
ĐTC và Chủ tịch Quốc hội hội kiến riêng
Sau cuộc hội kiến ngắn với Chủ tịch Quốc hội, Đức Thánh Cha di chuyển bằng xe hơi đến thủ đô Nicosia và viếng thăm nhà thờ chính toà Đức Mẹ Ban ơn của Giáo hội Công giáo Maronite để gặp gỡ các linh mục, tu sĩ, phó tế, giáo lý viên, các hội đoàn và các phong trào của Giáo hội Sýp.
Chào đón ĐTC tại phi trường Lanarca
Hồng Thủy