2021
Diễn văn của ĐTC Phanxicô với các linh mục, tu sĩ, phó tế, giáo lý viên của Giáo hội Sýp (02-12-2021)
Diễn văn của ĐTC Phanxicô với các linh mục, tu sĩ, phó tế, giáo lý viên của Giáo hội Sýp (02-12-2021)
Đức Thánh Cha mời gọi các linh mục, tu sĩ, phó tế, giáo lý viên của Giáo hội Sýp, theo gương thánh Barnaba: Trong khi thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng cần sự kiên nhẫn và sống tình huynh đệ.
Tôi rất vui được ở đây giữa anh chị em. Tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn Đức Hồng y Béchara Boutros Raï về những lời tốt đẹp của ngài dành cho tôi, và gửi lời chào thân ái đến Đức Thượng Phụ Pierbattista Pizzaballa. Cám ơn tất cả anh chị em về thừa tác vụ và sự phục vụ anh chị em đang thực hiện, đặc biệt cám ơn các nữ tu, về hoạt động giáo dục mà các chị đang thực hiện trong các trường học, nơi có nhiều trẻ em trên đảo tham gia. Đây là nơi gặp gỡ, đối thoại và học biết nghệ thuật xây những cây cầu. Cám ơn tất cả anh chị em vì sự gần gũi của anh chị em với mọi người, đặc biệt trong bối cảnh xã hội và công việc có nhiều khó khăn.
Tôi xin chia sẻ với anh chị em niềm vui khi đến thăm vùng đất này và hành trình như một người hành hương theo vết chân vị Tông đồ vĩ đại Barnaba, người con của dân tộc này, môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến và một người loan báo Tin Mừng dũng cảm. Khi đến thăm các cộng đoàn mới được khai sinh, thánh Tông đồ đã thấy ân sủng Chúa đang hoạt động; ngài vui mừng và “khuyên nhủ mọi người bền lòng gắn bó cùng Chúa” (Cv 11, 23). Tôi đến đây cùng với ước muốn đó: thấy ân sủng Chúa đang hoạt động trong Giáo hội và trong vùng đất của anh chị em, để vui mừng với anh chị em về những điều kỳ diệu Chúa đã thực hiện, và mời gọi anh chị em luôn kiên trì, không mệt mỏi hay nản lòng. Thiên Chúa vĩ đại hơn những mâu thuẫn của chúng ta.
Khi nhìn anh chị em, tôi thấy sự đa dạng phong phú của anh chị em. Xin chào Giáo hội Maronite, trong nhiều thế kỷ đã đến đảo nhiều lần và thường trải qua nhiều thử thách, đã kiên vững trong đức tin. Khi nghĩ về Libăng, tôi rất lo ngại cho cuộc khủng hoảng mà đất nước đang phải đối mặt. Tôi cảm nhận những đau khổ của một dân tộc mệt mỏi và bị thử thách bởi bạo lực và đau khổ. Tôi cầu nguyện cho khát vọng hòa bình trỗi dậy từ trái tim của đất nước đó. Cám ơn anh chị em vì tất cả những gì anh chị em đang làm ở đây tại Sýp. Cây tùng tuyết của Libăng được nhắc đến nhiều lần trong Kinh Thánh như một ví dụ về vẻ đẹp và sự hùng vĩ. Nhưng ngay cả cây tùng tuyết vĩ đại cũng mọc lên từ rễ và từ từ đâm chồi. Anh chị em là những gốc rễ đó, được bứng trồng ở Sýp để lan tỏa hương thơm và vẻ đẹp Tin Mừng. Cám ơn anh chị em!
Tôi cũng xin chào Giáo hội Latinh, hiện diện ở đây hàng thiên niên kỷ, theo thời gian, đã chứng kiến lòng nhiệt thành đức tin, cùng với sự tăng trưởng của con cái Giáo hội. Ngày nay, nhờ sự hiện diện của nhiều anh chị em di cư, đã thể hiện như một dân tộc “đa sắc”, một nơi gặp gỡ thực sự giữa các dân tộc và nền văn hóa khác nhau. Khuôn mặt Giáo hội này phản ánh vai trò của Sýp trong lục địa châu Âu: một vùng đất của những cánh đồng vàng, một hòn đảo được sóng biển vỗ về, nhưng trên hết là lịch sử của các dân tộc gắn bó nhau, một bức tranh của những cuộc gặp gỡ. Giáo hội cũng vậy, công giáo, nghĩa là phổ quát, là một không gian rộng mở, trong đó tất cả mọi người đều được chào đón và quy tụ bởi lòng thương xót và lời mời gọi yêu thương của Chúa. Trong Giáo hội Công giáo không có những bức tường. Không được quên điều này. Không có ai trong chúng ta được gọi đến đây để lôi kéo như những người thuyết giáo. Lôi kéo người khác là sự khô cằn, không trao ban sự sống. Tất cả chúng ta đều được kêu gọi bởi lòng thương xót của Chúa, Đấng không bao giờ mệt mỏi kêu gọi, ở gần, tha thứ. Nguồn gốc ơn gọi Kitô của chúng ta ở đâu? Trong lòng thương xót Chúa, đừng bao giờ quên điều đó. Chúa không thất vọng; Lòng thương xót của Người không làm chúng ta thất vọng. Người luôn chờ đợi chúng ta. Xin đừng bao giờ có bức tường trong Giáo hội Công giáo. Giáo hội là ngôi nhà chung, là nơi của những tương quan, là sự chung sống trong đa dạng. Và trong sự đa dạng đó có sự phong phú của hiệp nhất. Và ai làm nên sự hiệp nhất? Chúa Thánh Thần. Và ai làm nên sự đa dạng? Chúa Thánh Thần, Đấng làm cho chúng ta hiểu được. Thánh Thần là tác giả của sự đa dạng và là tác giả của sự hài hòa. Thánh Thần là Đấng tạo nên sự đa dạng của các hồng ân và sự hiệp nhất hài hòa của Giáo hội.
Anh chị em thân mến, giờ đây tôi muốn chia sẻ với anh chị em đôi điều về thánh Barnaba, người anh và đấng bảo trợ của anh chị em, bằng những từ mô tả cuộc đời và sứ vụ của ngài.
Đầu tiên là kiên nhẫn. Về thánh Barnaba, chúng ta nói ngài là một người vĩ đại của đức tin và quân bình được chọn bởi Giáo hội ở Giêrusalem – có thể nói Giáo hội Mẹ, là người thích hợp nhất để đến thăm một cộng đoàn mới, cộng đoàn Antiôkhia, được hình thành từ một số người mới trở lại. Thánh Barnaba được cử đi xem chuyện gì đang xảy ra. Ở đó, ngài thấy những người đến từ một thế giới, một nền văn hóa khác, một sự nhạy cảm tôn giáo khác. Họ là những người vừa có một trải nghiệm thay đổi cuộc đời, có một đức tin đầy nhiệt thành, nhưng vẫn còn mong manh. Trong hoàn cảnh này, thái độ của thánh Barnaba là sự kiên nhẫn: đó là sự kiên nhẫn không ngừng lên đường; kiên nhẫn để bước vào cuộc sống của những người cho đến nay chưa được biết đến; kiên nhẫn để chấp nhận những gì là mới, không vội vàng phán xét; kiên nhẫn của sự phân định, biết nắm bắt những dấu hiệu hoạt động của Chúa ở khắp mọi nơi; kiên nhẫn để “nghiên cứu” các nền văn hóa và truyền thống khác. Trên hết, thánh Barnaba có sự kiên nhẫn đồng hành: ngài không áp đặt đức tin mong manh của những người mới đến bằng thái độ khắt khe và thiếu linh hoạt, hoặc bằng cách đưa ra những đòi hỏi quá nhiều về việc tuân thủ các giới luật. Ngài đồng hành cùng họ, cầm tay và đối thoại với họ. Thánh Barnaba không bị tai tiếng, như một người cha và một người mẹ không bị tai tiếng bởi con cái. Cha mẹ đồng hành, giúp những người con lớn lên. Đừng bao giờ có trong tâm trí sự chia rẽ, và trong Giáo hội không được có sự lôi kéo, chiêu dụ. Hãy để Giáo hội phát triển và đồng hành. Nếu anh chị em phải khiển trách một ai đó thì sao? Hãy làm với tình yêu, với bình an. Con người của sự kiên nhẫn.
Chúng ta cần một Giáo hội kiên nhẫn. Một Giáo Hội không để cho mình bị xáo trộn và bối rối trước những thay đổi, nhưng thanh thản đón nhận tính mới lạ và phân định những tình huống dưới ánh sáng Tin Mừng. Trên hòn đảo này, công việc anh chị em làm trong việc chào đón những anh chị em mới đến từ những bờ biển khác của thế giới thật là quý giá. Giống như thánh Barnaba, anh chị em cũng được kêu gọi để vun trồng một cái nhìn kiên nhẫn và chú ý, để trở thành những dấu hiệu dễ thấy và đáng tin cậy của sự kiên nhẫn của Chúa, Đấng không bao giờ để bất cứ ai bên ngoài ngôi nhà, ngoài vòng tay yêu thương của Người. Giáo hội Sýp cũng có những vòng tay rộng mở này: chào đón, hội nhập và đồng hành. Đây cũng là một sứ điệp quan trọng đối với Giáo hội khắp châu Âu, nơi được đánh dấu bằng cuộc khủng hoảng đức tin. Không cần phải bốc đồng và nóng nảy, hoài cổ hoặc than phiền, nhưng tốt hơn hãy tiến về phía trước, đọc các dấu hiệu của thời đại cũng như các dấu hiệu của cuộc khủng hoảng. Cần phải bắt đầu lại việc loan báo Tin Mừng với lòng kiên nhẫn, trên hết là cho thế hệ sau.
Các Giám mục, tôi muốn nói với anh em: hãy là những mục tử kiên nhẫn trong sự gần gũi, không mệt mỏi tìm kiếm Chúa trong cầu nguyện, gặp gỡ các linh mục, các anh chị em của các hệ phái Kitô khác với sự tôn trọng và ân cần, các tín hữu nơi họ đang sinh sống.
Các linh mục thân mến, tôi muốn nói với anh em: hãy kiên nhẫn với các tín hữu, luôn sẵn sàng khuyến khích họ, hãy là những thừa tác viên không biết mệt mỏi về sự tha thứ và lòng thương xót của Chúa. Đừng bao giờ là những quan toà khắt khe, nhưng luôn là những người cha yêu thương. Khi tôi đọc dụ ngôn về người con hoang đàng … Người anh cả là một quan tòa nghiêm khắc, nhưng người cha nhân hậu, là hình ảnh của người Cha luôn tha thứ: luôn chờ đợi để tha thứ cho chúng ta! Năm ngoái, một nhóm bạn trẻ thực hiện một buổi trình diễn, nhạc pop, về câu chuyện dụ ngôn người con hoang đàng … Rất hay! Nhưng hay nhất là cuộc thảo luận cuối cùng, khi người con hoang đàng đến gặp một người bạn và nói: “Tôi không thể tiếp tục như thế này. Tôi muốn quay trở về nhà nhưng tôi sợ cha tôi đóng cửa lại, xua đuổi tôi. Và nỗi sợ hãi này, tôi không biết phải làm thế nào… Hãy viết thư cho cha bạn và nói với ông rằng bạn muốn trở về nhưng bạn sợ cha bạn sẽ không đón nhận bạn. Hãy nói với cha bạn rằng nếu ông muốn đón nhận bạn thì hãy treo một chiếc khăn ở cửa sổ cao nhất của ngôi nhà”. Rồi người con lên đường trở về. Khi gần tới nhà, anh thấy ngôi nhà đầy những chiếc khăn màu trắng. Đây là Chúa chúng ta. Người không bao giờ mệt mỏi tha thứ. Và khi người con bắt đầu nói, thì người cha đã không để anh nói tiếp. Xin các linh mục đừng khắt khe trong việc xưng tội. Khi anh em thấy một người nào đó đang gặp khó khăn hãy nói: “Tôi hiểu. Tôi hiểu rồi”. Đây là “trái tim của cha”, như trái tim của người cha là Thiên Chúa. Công trình của Chúa hoàn thành nơi mỗi người là một “lịch sử thánh thiêng”: chúng ta hãy say mê hoạt động này. Trong muôn vàn hình thức khác nhau của dân chúng, sự kiên nhẫn cũng có nghĩa là anh em có đôi tai và trái tim rộng mở để đón nhận những nhạy cảm tâm linh khác nhau, những cách thể hiện đức tin, những nền văn hóa khác nhau. Giáo hội không đồng nhất hoá, nhưng hòa nhập với sự kiên nhẫn. Đây là điều với ân sủng Chúa, chúng ta muốn đạt được trên tiến trình hiệp hành: cầu nguyện kiên nhẫn và kiên nhẫn lắng nghe, cho một Giáo hội ngoan nguỳ với Chúa và mở ra với nhân loại.
Trong lịch sử của thánh Barnaba, có một khía cạnh quan trọng thứ hai mà tôi muốn nhấn mạnh: cuộc gặp gỡ giữa ngài với Phaolô thành Tarsô và tình bạn huynh đệ của họ, giúp họ cùng nhau thực hiện sứ vụ. Sau khi Phaolô trở lại, “mọi người đều sợ ông, vì họ không tin ông là một môn đệ” (Cv 9,26), vì trước đây ông là kẻ bắt bớ các tín hữu. Ở đây Sách Công Vụ Tông đồ cho chúng ta biết một điều rất hay: “Barnaba đưa Phaolô đi cùng với ông” (c. 27), đưa ông đến với cộng đoàn, thuật lại những gì đã xảy ra với ông và bảo lãnh cho ông. Chúng ta hãy lắng nghe những lời đó, “ông đưa Phaolô đi cùng với ông”. Điều này gợi lên sứ vụ của chính Chúa Giêsu, vì Người đã đưa các môn đệ đi theo Người qua các đường phố của Galilê và mang lấy nhân loại của chúng ta bị thương tích bởi tội lỗi. Đó là thái độ của tình bạn và chia sẻ cuộc sống. Đưa đi cùng có nghĩa là cùng mang lấy lịch sử của người khác, dành thời gian để hiểu biết họ, không dán nhãn, mang họ trên vai khi họ mệt mỏi hoặc bị thương, như người Samari nhân hậu đã làm (Lc 10, 25-37). Đây là tình huynh đệ.
Barnaba và Phaolô, như hai anh em, cùng đi loan báo Tin Mừng, ngay cả khi bị bách hại. Tại Antiôkhia, “trong suốt một năm, họ đã gặp gỡ Giáo hội và giảng dạy cho rất nhiều người” (Cv 11, 26). Sau đó, theo ý muốn Thánh Thần, cả hai được dành riêng cho một sứ vụ lớn lao hơn, và vì vậy “họ đáp tàu đi đảo Sýp” (Cv 13,4). Lời Chúa tăng trưởng và lớn mạnh, không chỉ vì phẩm chất con người của hai ông, nhưng trên hết vì hai ông là anh em trong danh Chúa, và tình huynh đệ của họ làm cho giới răn yêu thương được toả sáng. Anh chị em khác biệt, giống như các ngón tay của một bàn tay, nhưng tất cả đều có cùng phẩm giá. Tất cả đều là anh chị em. Sau đó, như đã xảy ra trong cuộc sống, một sự kiện không mong đợi đã xảy ra: Sách Công vụ Tông đồ cho chúng ta biết hai người có sự bất hoà và chia tay nhau (Cv 15,39). Giữa anh chị em cũng có những lần tranh luận và cãi nhau. Tuy nhiên, Phaolô và Barnaba không chia tay nhau vì lý do cá nhân, nhưng vì họ đang tranh luận về thừa tác vụ, về cách thi hành sứ vụ của họ, và họ có những cái nhìn khác nhau. Thánh Barnaba muốn đưa thánh Máccô đi loan báo Tin Mừng, nhưng Phaolô thì không muốn. Hai ông tranh luận, nhưng ở một số thư sau này của Phaolô, chúng ta thấy không còn sự oán giận giữa hai ông. Phaolô thậm chí còn viết thư cho Timôthê, người sau đó phải đến theo Phaolô: “Anh hãy mau mau đến với tôi… Anh hãy đem Máccô đi với anh, vì anh ấy rất hữu ích cho công việc phục vụ của tôi”(2 Tm 4, 9. 11). Đây là tình huynh đệ trong Giáo hội: chúng ta có thể tranh luận về những quan điểm, sự nhạy cảm và những ý tưởng khác nhau. Trong một gia đình, anh em thảo luận, thay đổi quan điểm. Tôi nghi ngờ những người không bao giờ tranh luận, bởi vì họ luôn luôn che giấu các chương trình nghị sự. Tình huynh đệ của Giáo hội là: chúng ta có thể thảo luận về quan điểm, sự nhạy cảm, những ý tưởng khác nhau. Trong một số trường hợp, thẳng thắn nói ra có thể hữu ích, vì đó là cơ hội để trưởng thành và thay đổi. Không nói sau lưng, điều này chẳng đem lại ích lợi gì. Tuy nhiên, chúng ta hãy luôn nhớ rằng: chúng ta tranh luận không phải vì để gây chiến hay áp đặt ý kiến riêng của mình, nhưng để bày tỏ và sống sức sống của Thần Khí, là tình yêu và sự hiệp thông. Chúng ta có thể tranh luận, nhưng chúng ta vẫn là anh chị em. Tôi nhớ khi còn nhỏ. Mỗi ngày, chúng tôi tranh luận gay gắt với nhau, và sau đó chúng tôi cùng ngồi vào bàn ăn. Cuộc thảo luận của một gia đình của một người mẹ: mẹ Giáo hội, những người con tranh luận.
Anh chị em thân mến, chúng ta cần một Giáo hội huynh đệ, một Giáo hội là khí cụ tình huynh đệ cho thế giới. Ở đây, ở Sýp có rất nhiều sự nhạy cảm về tâm linh và Giáo hội, nguồn gốc, lịch sử, các lễ nghi và truyền thống khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta không được coi sự đa dạng như một mối đe dọa đối với căn tính; chúng ta không được ghen tị hoặc bận tâm đối với các vấn đề khác. Nếu chúng ta rơi vào cám dỗ này, thì nỗi sợ hãi sẽ lớn dần lên, và rồi sinh ra sự hoài nghi và rồi sớm muộn gì cũng dẫn đến chiến tranh. Chúng ta là anh chị em, được yêu thương bởi một người Cha duy nhất. Anh chị em hoà mình trong Địa Trung Hải, một vùng biển giàu lịch sử, đã là cái nôi của nhiều nền văn minh, một vùng biển mà ngày nay nhiều người, nhiều dân tộc và nền văn hóa từ mọi nơi trên thế giới vẫn đến. Với tình huynh đệ, anh chị em có thể nhắc nhở mọi người, và toàn thể châu Âu rằng, để xây dựng một tương lai xứng đáng với nhân loại, cần phải cùng nhau làm việc, vượt lên trên những chia rẽ, phá bỏ các bức tường, vun trồng ước mơ hiệp nhất. Chúng ta cần chào đón và hòa nhập, cùng nhau bước đi như những anh chị em!
Xin cám ơn anh chị em về những gì anh chị em là và những gì anh chị em làm, về niềm vui khi anh chị em loan báo Tin Mừng và về những vất vả và hy sinh mà anh chị em gắng chịu và làm cho nó tiến triển. Đây là con đường được các thánh Tông đồ Phaolô và Barnaba chỉ ra. Tôi ước mong anh chị em sẽ luôn là một Giáo hội kiên nhẫn phân định, đồng hành và hội nhập, một Giáo hội huynh đệ dành chỗ cho những người khác, tranh luận nhưng vẫn luôn hiệp nhất. Tôi chúc lành cho anh chị em và tôi xin anh chị em tiếp tục cầu nguyện cho tôi! Efcharistó! [Cám ơn!]
Ngọc Yến
2021
ĐTC thăm hữu nghị Tổng thống Sýp
ĐTC thăm hữu nghị Tổng thống Sýp
Lúc sau 5 giờ chiều ngày 2/12/2021, Đức Thánh Cha di chuyển bằng xe hơi từ nhà thờ Đức Mẹ ban ơn đến Dinh Tổng Thống cách đó gần 3km để chào thăm hữu nghị Tổng thống Cộng hoà Sýp.
Dinh Tổng thống nằm gần trung tâm thành phố Nicosia. Dưới thời cai trị của Anh (1878-1960), nơi này là Trụ sở Chính quyền. Sau khi đảo Sýp được độc lập, toà nhà trở thành Dinh Tổng thống và là nơi cư ngụ chính thức và nơi làm việc chính của Tổng thống.
Tổng thống Cộng hoà Sýp, ông Nicos Anastasiades, sinh năm 1946. Ông tốt nghiệp ngành luật tại Đại học Athens vào năm 1969 và tốt nghiệp Luật Hàng hải ở Đại học Luân Đôn vào năm 1971. Từ năm 1972 ông bắt đầu hành nghề luật sư. Từ năm 1976 ông nằm trong số những người thành lập đảng trung tả Nhóm Dân chủ, và làm phó chủ tịch và chủ tịch của đảng từ năm 1997-2006. Ông đã từng giữ chức Chủ tịch Bộ Giáo dục, Chủ tịch Uỷ ban liên quốc hội về ngoại vụ. Ông được bổ nhiệm làm phó chủ tịch hạ viện từ năm 1996-2001. Ngày 24/2/2013 ông được bầu làm Tổng thống Cộng hoà Sýp. Ông đã lập gia đình và có hai người con.
Đến Dinh Tổng thống, Đức Thánh Cha được Tổng thống đón tại lối vào Dinh Tổng thống, cạnh tượng tổng giám mục Makarios, Tổng thống đầu tiên của Sýp. Tại đây bắt đầu nghi thức chào đón.
Sau khi Đức Thánh Cha cùng Tổng thống Sýp duyệt qua hàng quân danh dự, quốc thiều của Vatican và Sýp được đoàn quân nhạc tấu lên và quốc kỳ của hai nước cũng được kéo lên. Kế đến Đức Thánh Cha và Tổng thống đã giới thiệu các thành phần của hai phái đoàn.
Sau nghi lễ chào đón, Tổng thống Sýp đã cùng Đức Thánh Cha vào tiền sảnh của Dinh Tổng thống và chụp hình chung, và hai vị đã hội kiến riêng tại phòng làm việc của Tổng thống.
Đức Thánh Cha đã tặng Tổng thống Sýp một mề đay lưu niệm. Mề đay này một mặt có huy hiệu và tên Đức Giáo hoàng Phanxicô, một mặt có hình hai thánh tông đồ Phaolô và Barnaba, những nhân vật chính của việc loan báo Tin Mừng ở Sýp.
Thánh Barnaba được điêu khắc đứng bên trái, tay cầm sách Tin Mừng và tay kia cầm cây gậy, biểu tượng cho cuộc hành hương của ngài để loan báo Lời Chúa. Phía sau ngài là nhà thờ Chrysopolitissa ở Paphos, hình ảnh biểu tượng của lịch sử lâu đời của Kitô giáo ở Sýp và ngày nay cũng là nơi gặp gỡ của các hệ phái Kitô khác nhau.
Ở bên phải là hình thánh Phaolô, tay cầm bút và cuộn giấy, diễn tả việc viết các thư nổi tiếng của ngài. Phía sau ngài là một khung cảnh mang tính biểu tượng về Hy Lạp cổ đại, nơi được ngài đến và loan báo Tin Mừng; nổi bật là cuộc gặp gỡ của ngài tại đồi Areopagus ở Athens.
Tổng thống Cộng hoà Sýp cũng giới thiệu gia đình của ông với Đức Thánh Cha.
Sau cuộc gặp gỡ riêng, Đức Thánh Cha và Tổng thống cùng đi đến Phòng Nghi lễ để gặp gỡ các cấp chính quyền dân sự và xã hội và ngoại giao đoàn.
Hồng Thủy
2021
ĐTC gặp đại diện Chính quyền, Xã hội dân sự và Ngoại giao đoàn
ĐTC gặp đại diện Chính quyền, Xã hội dân sự và Ngoại giao đoàn
Tại Phòng Nghi lễ, Đức Thánh Cha gặp khoảng 125 vị đại diện các lãnh đạo chính trị và tôn giáo, Ngoại giao đoàn, doanh nhân, đại diện xã hội dân sự và văn hoá. Bắt đầu cuộc gặp gỡ, tổng thống Nicos Anastasiades của Cộng hoà Sýp đã có diễn văn chào mừng Đức Thánh Cha.
Trong diễn văn đáp lời, trước hết Đức Thánh Cha cảm ơn về sự chào đón của Tổng thống nhân danh toàn thể người dân Sýp. Đức Thánh Cha nhận mình là một người hành hương, “đến một đất nước bé nhỏ về địa lý nhưng vĩ đại về lịch sử; trên một hòn đảo mà qua nhiều thế kỷ đã không làm cho người dân thành ốc đảo, nhưng đã kết nối họ; ở một vùng đất có biên giới là biển; ở nơi đánh dấu cửa ngõ phía Đông với Châu Âu và phía Tây với Trung Đông.”
Các Mối Phúc
Điểm đầu tiên Đức Thánh Cha nhấn mạnh trong bài diễn văn của ngài là “Các Mối Phúc” của Tin Mừng trên miền đất mà Kitô giáo gắn liền từ xa xưa. “Các Mối phúc là hiến chương vĩnh viễn của Kitô giáo. Việc sống Các Mối Phúc cho phép Tin Mừng luôn tươi trẻ và lấp đầy hy vọng cho xã hội. Các Mối Phúc là chiếc la bàn để định hướng, ở mọi vĩ độ, chỉ ra những lộ trình mà người Kitô hữu phải đi trong hành trình cuộc sống.”
Với đặc tính địa lý mình, Sýp trở thành “nơi Châu Âu và Phương Đông gặp nhau, cuộc hội nhập văn hóa vĩ đại đầu tiên của Tin Mừng trên lục địa này đã bắt đầu và tôi thật cảm động khi đi lại bước chân của các nhà truyền giáo vĩ đại của Giáo hội tiên khởi, đặc biệt là các thánh Phaolô, Barnaba và Máccô.” Vì vậy, Đức Thánh Cha nói: “tôi ở đây, một người hành hương giữa quý vị, để cùng đi với quý vị, những người Sýp thân yêu, tất cả quý vị, với mong ước rằng tin tức tốt lành của Tin Mừng có thể mang đến cho Châu Âu một sứ điệp của niềm vui, ngang qua dấu chỉ của Các Mối Phúc. Sýp tỏa sáng với vẻ đẹp trên lãnh thổ của mình, lãnh thổ phải được bảo vệ và giữ gìn bằng các chính sách môi trường thích hợp đã được nhất trí cùng với các nước láng giềng. Vẻ đẹp ấy còn tỏa sáng trong kiến trúc, nghệ thuật, đặc biệt trong nghệ thuật thánh, và trong các nghề thủ công tôn giáo, trong nhiều kho tàng khảo cổ học.”
Đảo Sýp là một viên ngọc trai quý
Đức Thánh Cha gọi đảo Sýp là “một viên ngọc trai quý giá giữa lòng Địa Trung Hải.” Từ hình ảnh của viên ngọc trai “phải mất nhiều năm để các lớp khác nhau trở nên rắn chắc và sáng bóng”, Đức Thánh Cha liên tưởng đến đất nước Sýp phong phú với “nhiều nền văn hóa được gặp gỡ và pha trộn qua nhiều thế kỷ. Ngay cả ngày nay, ánh sáng của Sýp có nhiều góc cạnh: có nhiều dân nhiều nước, với những màu sắc khác nhau, tạo nên gam màu của cộng đồng này. Tôi cũng nghĩ đến sự hiện diện của nhiều người nhập cư, với tỷ lệ đáng kể nhất trong số các quốc gia thuộc Liên minh Châu Âu. Giữ được vẻ đẹp đa sắc tộc, đa diện của tổng thể chẳng hề dễ dàng. Như trong việc hình thành một viên ngọc trai, nó đòi hỏi thời gian và sự kiên nhẫn, nó đòi hỏi một cái nhìn bao quát có khả năng ôm lấy sự đa dạng của nhiều nền văn hóa và hướng về tương lai với tầm nhìn xa. Theo nghĩa này, điều quan trọng là phải bảo vệ và thăng tiến mọi thành phần xã hội, đặc biệt là những nhóm thiểu số theo thống kê.”
Cách thức một viên ngọc trai được hình thành cũng cho thấy nhiều bài học. Vẻ đẹp của viên ngọc trai được tạo nên từ những hoàn cảnh khó khăn. Nó được sinh ra trong sự tối mờ, khi con hàu “đau đớn” vì bất ngờ gặp phải một đe doạ đến sự an toàn của nó, chẳng hạn như một hạt cát khiến nó khó chịu. Để bảo vệ bản thân, con hàu phản ứng bằng cách đồng hóa mình với những gì làm tổn thương nó: nó ngậm vật lạ và nguy hiểm và biến nó thành vẻ đẹp, thành một viên ngọc trai. Viên ngọc trai của Sýp đã bị mờ đi bởi đại dịch, khiến nhiều du khách không thể đến và chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nó. Tại đây, cũng như ở những nơi khác, điều này đã gây nên những hậu quả khủng hoảng kinh tế và tài chính. Tuy nhiên, trong giai đoạn phục hồi này, không phải sự hăng hái phục hồi lại những gì đã mất sẽ đảm bảo cho sự phát triển vững chắc và lâu dài, mà là việc dấn thân thúc đẩy phục hồi xã hội, đặc biệt là ngang qua một cuộc chiến kiên quyết chống tham nhũng và những vết thương làm tổn hại đến phẩm giá con người.
Đối thoại là con đường dẫn đến hoà bình
Điểm tiếp theo được Đức Thánh Cha đề cập đến là về hoà bình. “Con đường dẫn đến hòa bình, chữa lành những xung đột và tái tạo vẻ đẹp của tình huynh đệ, được đánh dấu bằng một từ: đối thoại. Chính chúng ta phải giúp mình tin tưởng vào sức mạnh nhẫn nại và ôn hoà của đối thoại, được rút ra từ các Mối Phúc. Chúng ta biết đó không phải là một con đường dễ dàng; nó dài và quanh co, nhưng không có lựa chọn thay thế nào để đạt được sự hòa giải. Chúng ta nuôi dưỡng niềm hy vọng bằng “sức mạnh của những cử chỉ” hơn là bằng “những cử chỉ của sức mạnh”. Bởi vì có một sức mạnh của những cử chỉ chuẩn bị cho hòa bình: không phải là những cử chỉ quyền lực, đe dọa trả đũa và phô trương quyền lực, mà là những cử chỉ lắng dịu, những bước đối thoại cụ thể.”
Với thực tế không dễ dàng, Đức Thánh Cha khuyến khích: “Những thời điểm có vẻ không thuận lợi, khi đối thoại trì trệ, cũng có thể chính là những thời điểm chuẩn bị cho hòa bình. Viên ngọc trai vẫn nhắc nhở chúng ta về điều này, vì nó thành hình được như vậy là nhờ tiến trình kiên nhẫn âm thầm kết thêm chất mới bằng những tác nhân đã làm nó bị thương. Trong những tình huống này, hận thù không được phép lấn át, đừng từ bỏ việc hàn gắn vết thương, đừng quên những hoàn cảnh của những người biến mất. Và khi cảm giác nản lòng xuất hiện, hãy nghĩ đến các thế hệ tương lai, những người mong muốn được thừa hưởng một thế giới hòa bình, hợp tác, gắn kết, không phải là nơi sinh sống của những kẻ thù truyền kiếp và bị ô nhiễm bởi những tranh chấp chưa được giải quyết. Vì thế đối thoại là điều cần thiết, để tránh sự gia tăng nghi ngờ và oán hận. Chúng ta hãy đề cập đến Địa Trung Hải, bây giờ không may là một nơi của xung đột và thảm kịch nhân đạo; trong vẻ đẹp sâu xa của nó, nó là mare nostrum, là biển của tất cả các dân tộc gắn liền với nó, để được kết nối, không bị chia cắt. Sýp, ngã tư địa lý, lịch sử, văn hóa và tôn giáo, là vị trí để thực hiện một hành động hòa bình. Ước mong Sýp trở thành một công trường mở cho hòa bình ở Địa Trung Hải.”
“Hòa bình thường không nảy sinh từ những nhân vật vĩ đại, mà từ sự quyết tâm hàng ngày của những người nhỏ bé. Lục địa châu Âu cần hòa giải và hiệp nhất, cần can đảm và động lực để bước tới. Bởi vì, không phải những bức tường của sợ hãi và loại bỏ bị điều khiển bởi các lợi ích dân tộc chủ nghĩa sẽ giúp cho nó tiến bộ, cũng không phải duy chỉ phục hồi kinh tế sẽ đảm bảo cho an ninh và sự ổn định của nó.” Nhưng chính sự gặp gỡ và chào đón mới mang lại những hoa trái lợi ích lâu dài, như được nhìn thấy qua lịch sử của Sýp. Sýp không chỉ là “bàn đạp” trên lục địa về lịch sử của Kitô giáo, mà còn về việc xây dựng một xã hội phong phú trong sự hội nhập.
Đức Thánh Cha kết thúc bài diễn văn bằng việc liên tưởng đến hai thánh tông đồ Phaolô và Barnaba, đã “đi xuyên qua đảo” để đến Pa-phô (x. Cv 13:6), ngài cũng “đi xuyên qua lịch sử và linh hồn của vùng đất này, với mong muốn rằng khát vọng hiệp nhất và thông điệp về vẻ đẹp của nó tiếp tục dẫn đường cho nó hướng đến tương lai.”
Kết thúc ngày thứ nhất
Sau khi kết thúc buổi gặp gỡ với các đại diện Chính quyền, Xã hội dân sự và Ngoại giao đoàn, Đức Thánh Cha di chuyển bằng xe đến Toà Sứ Thần Nicosia, cách đó gần 3km. Các nhân viên Toà Sứ thần đón tiếp ngài tại tiền sảnh Toà Sứ thần. Đức Thánh Cha dùng bữa tối riêng và nghỉ đêm tại Toà Sứ thần. Kết thúc ngày thứ nhất của chuyến tông du.
Văn Yên, SJ
2021
Diễn văn của Đức Thánh Cha trước Chính quyền, Xã hội dân sự Và Ngoại Giao đoàn
Chiều 2/12, sau cuộc gặp gỡ riêng với Tổng thống cộng hoà Sýp, Đức Thánh Cha cùng Tổng thống cùng đi đến Phòng Nghi lễ để gặp gỡ các cấp chính quyền dân sự và xã hội và ngoại giao đoàn.
Diễn văn của Đức Thánh Cha trước Chính quyền, Xã hội dân sự Và Ngoại Giao đoàn
Ngài Tổng thống Nước Cộng hòa,
Các thành viên của Chính phủ và ngoại giao đoàn,
Quý lãnh đạo tôn giáo và dân sự,
Các đại diện xã hội và thế giới văn hóa,
Quý bà và quý ông thân mến,
Tôi thân ái chào quý vị, và tôi vui mừng hiện diện nơi đây cùng quý vị. Tôi cảm ơn ngài Tổng thống vì sự chào đón mà ngài thay mặt cho toàn thể người dân đã dành cho tôi. Như một người hành hương, tôi đến một đất nước bé nhỏ về địa lý nhưng vĩ đại về lịch sử; trên một hòn đảo mà qua nhiều thế kỷ đã không làm cho người dân thành ốc đảo, nhưng đã kết nối họ; ở một vùng đất có biên giới là biển; ở nơi đánh dấu cửa ngõ phía Đông với Châu Âu và phía Tây với Trung Đông. Quý vị là một cánh cửa rộng mở, một bến cảng kết nối: Sýp, ngã tư của nền văn minh, mang trong mình ơn gọi bẩm sinh để gặp gỡ, được ngưỡng mộ bởi đặc tính chào đón của người Sýp.
Chúng ta vừa bày tỏ lòng kính trọng đối với vị Tổng thống đầu tiên của đất nước Cộng hòa này, Đức Tổng Giám mục Makarios, và khi thực hiện cử chỉ này, tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng đối với tất cả người dân của đất nước. Tên của ông, Makarios, gợi lên lời mở đầu của diễn từ đầu tiên của Chúa Giêsu: Các Mối Phúc (x. Mt 5, 3-12). Ai là makarios, ai thực sự là người có phúc theo đức tin Kitô giáo, vốn gắn liền không thể tách biệt với vùng đất này? Tất cả đều có thể được chúc phúc, và trên hết họ là những người nghèo về tinh thần, những người bị thương tích bởi cuộc sống, những người sống hiền lành và thương xót, những người thực thi công lý và xây dựng hòa bình một cách không giả tạo. Thưa quý vị, Các Mối phúc là hiến chương vĩnh viễn của Kitô giáo. Việc sống Các Mối Phúc cho phép Tin Mừng luôn tươi trẻ và lấp đầy hy vọng cho xã hội. Các Mối Phúc là chiếc la bàn để định hướng, ở mọi vĩ độ, chỉ ra những lộ trình mà người Kitô hữu phải đi trong hành trình cuộc sống.
Chính từ nơi này, nơi Châu Âu và Phương Đông gặp nhau, cuộc hội nhập văn hóa vĩ đại đầu tiên của Tin Mừng trên lục địa này đã bắt đầu và tôi thật cảm động khi đi lại bước chân của các nhà truyền giáo vĩ đại của Giáo hội tiên khởi, đặc biệt là các thánh Phaolô, Barnaba và Máccô. Vì vậy, tôi ở đây, một người hành hương giữa quý vị, để cùng đi với quý vị, những người Sýp thân yêu, tất cả quý vị, với mong ước rằng tin tức tốt lành của Tin Mừng có thể mang đến cho Châu Âu một sứ điệp của niềm vui, ngang qua dấu chỉ của Các Mối Phúc. Thật vậy, điều mà các Kitô hữu đầu tiên đã trao cho thế giới bằng sức mạnh dịu dàng của Thánh Thần là một thông điệp của vẻ đẹp chưa từng có. Đó là sự mới mẻ đáng ngạc nhiên của Các Mối Phúc, dành cho tất cả mọi người, đã thu phục được trái tim và sự tự do của nhiều người. Đất nước này có một di sản đặc biệt theo nghĩa này, như một sứ giả của vẻ đẹp giữa các lục địa. Sýp tỏa sáng với vẻ đẹp trên lãnh thổ của mình, lãnh thổ phải được bảo vệ và giữ gìn bằng các chính sách môi trường thích hợp đã được nhất trí cùng với các nước láng giềng. Vẻ đẹp ấy còn tỏa sáng trong kiến trúc, nghệ thuật, đặc biệt trong nghệ thuật thánh, và trong các nghề thủ công tôn giáo, trong nhiều kho tàng khảo cổ học. Vẽ một bức tranh từ vùng biển bao quanh chúng ta, tôi muốn nói rằng hòn đảo này thật là một viên ngọc trai quý giá giữa lòng Địa Trung Hải.
Thật vậy, một viên ngọc trai trở nên được như vậy bởi vì nó thành hình theo thời gian: phải mất nhiều năm để các lớp khác nhau trở nên rắn chắc và sáng bóng. Vì vậy, vẻ đẹp của vùng đất này bắt nguồn từ nhiều nền văn hóa được gặp gỡ và pha trộn qua nhiều thế kỷ. Ngay cả ngày nay, ánh sáng của Sýp có nhiều góc cạnh: có nhiều dân nhiều nước, với những màu sắc khác nhau, tạo nên gam màu của cộng đồng này. Tôi cũng nghĩ đến sự hiện diện của nhiều người nhập cư, với tỷ lệ đáng kể nhất trong số các quốc gia thuộc Liên minh Châu Âu. Giữ được vẻ đẹp đa sắc tộc, đa diện của tổng thể chẳng hề dễ dàng. Như trong việc hình thành một viên ngọc trai, nó đòi hỏi thời gian và sự kiên nhẫn, nó đòi hỏi một cái nhìn bao quát có khả năng ôm lấy sự đa dạng của nhiều nền văn hóa và hướng về tương lai với tầm nhìn xa. Theo nghĩa này, điều quan trọng là phải bảo vệ và thăng tiến mọi thành phần xã hội, đặc biệt là những nhóm thiểu số theo thống kê. Tôi cũng đang nghĩ đến các thực thể Công giáo khác nhau, khi có được sự công nhận chính thức thích hợp, họ có thể đóng góp cho xã hội thông qua các hoạt động của họ, đặc biệt về giáo dục và bác ái, được xác định rõ ràng theo quan điểm pháp lý.
Một viên ngọc trai hình thành vẻ đẹp của nó trong những hoàn cảnh khó khăn. Nó được sinh ra trong sự tối mờ, khi con hàu “đau đớn” vì bất ngờ gặp phải một đe doạ đến sự an toàn của nó, chẳng hạn như một hạt cát khiến nó khó chịu. Để bảo vệ bản thân, con hàu phản ứng bằng cách đồng hóa mình với những gì làm tổn thương nó: nó ngậm vật lạ và nguy hiểm và biến nó thành vẻ đẹp, thành một viên ngọc trai. Viên ngọc trai của Sýp đã bị mờ đi bởi đại dịch, khiến nhiều du khách không thể đến và chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nó. Tại đây, cũng như ở những nơi khác, điều này đã gây nên những hậu quả khủng hoảng kinh tế và tài chính. Tuy nhiên, trong giai đoạn phục hồi này, không phải sự hăng hái phục hồi lại những gì đã mất sẽ đảm bảo cho sự phát triển vững chắc và lâu dài, mà là việc dấn thân thúc đẩy phục hồi xã hội, đặc biệt là ngang qua một cuộc chiến kiên quyết chống tham nhũng và những vết thương làm tổn hại đến phẩm giá con người; ví dụ, tôi nghĩ đến nạn buôn người.
Nhưng vết thương gây đau khổ nhiều nhất cho vùng đất này là do những vết cắt khủng khiếp mà nó đã phải gánh chịu trong những thập kỷ gần đây. Tôi nghĩ đến nỗi đau sâu thẳm của những người không thể trở về nhà và nơi thờ tự của họ. Tôi cầu nguyện cho hòa bình của quý vị, cho hòa bình của toàn bộ hòn đảo, và tôi mong ước điều này bằng tất cả sức lực. Con đường dẫn đến hòa bình, chữa lành những xung đột và tái tạo vẻ đẹp của tình huynh đệ, được đánh dấu bằng một từ: đối thoại, mà Ngài Tổng thống lặp lại nhiều lần. Chính chúng ta phải giúp mình tin tưởng vào sức mạnh kiên nhẫn và ôn hoà của đối thoại, sức mạnh của sự kiên nhẫn “được vác trên vai”, hypomoné, được rút ra từ các Mối Phúc. Chúng ta biết đó không phải là một con đường dễ dàng; nó dài và quanh co, nhưng không có lựa chọn thay thế nào để đạt được sự hòa giải. Chúng ta nuôi dưỡng niềm hy vọng bằng “sức mạnh của những cử chỉ” thay vì hy vọng trong “những cử chỉ của sức mạnh”. Bởi vì có một sức mạnh của những cử chỉ chuẩn bị cho hòa bình: không phải là những cử chỉ quyền lực, đe dọa trả đũa và phô trương quyền lực, mà là những cử chỉ lắng dịu, những bước đối thoại cụ thể. Ví dụ, tôi nghĩ đến sự dấn thân chuẩn bị cho một cuộc thảo luận chân thành đặt nhu cầu của người dân lên hàng đầu, về sự tham gia ngày càng tích cực của cộng đồng quốc tế, về việc bảo vệ di sản văn hóa và tôn giáo, về việc phục hồi tất cả những gì đặc biệt thân thiết đối với mọi người, như những địa điểm hoặc ít nhất là những vật dụng thánh. Về vấn đề này, tôi muốn bày tỏ sự đánh giá cao và khích lệ đối với Nẻo đường tôn giáo trong Dự án Hòa bình Sýp (Religious Track of the Cyprus Peace Project) do Đại sứ quán Thụy Điển thúc đẩy, để vun đắp sự đối thoại giữa các nhà lãnh đạo tôn giáo.
Những thời điểm có vẻ không thuận lợi, khi đối thoại trì trệ, cũng có thể chính là những thời điểm chuẩn bị cho hòa bình. Viên ngọc trai vẫn nhắc nhở chúng ta về điều này, vì nó thành hình được như vậy là nhờ tiến trình kiên nhẫn âm thầm kết thêm chất mới bằng những tác nhân đã làm nó bị thương. Trong những tình huống này, hận thù không được phép lấn át, đừng từ bỏ việc hàn gắn vết thương, đừng quên những hoàn cảnh của những người biến mất. Và khi cảm giác nản lòng xuất hiện, hãy nghĩ đến các thế hệ tương lai, những người mong muốn được thừa hưởng một thế giới hòa bình, hợp tác, gắn kết, không phải là nơi sinh sống của những kẻ thù truyền kiếp và bị ô nhiễm bởi những tranh chấp chưa được giải quyết. Vì thế đối thoại là điều cần thiết, để tránh sự gia tăng nghi ngờ và oán hận. Chúng ta hãy đề cập đến Địa Trung Hải, bây giờ không may là một nơi của xung đột và thảm kịch nhân đạo; trong vẻ đẹp sâu xa của nó, nó là mare nostrum, là biển của tất cả các dân tộc gắn liền với nó, để được kết nối, không bị chia cắt. Sýp, ngã tư địa lý, lịch sử, văn hóa và tôn giáo, là vị trí để thực hiện một hành động hòa bình. Ước mong Sýp trở thành một công trường mở cho hòa bình ở Địa Trung Hải.
Hòa bình thường không nảy sinh từ những nhân vật vĩ đại, mà từ sự quyết tâm hằng ngày, mọi ngày, của những người nhỏ bé. Lục địa châu Âu cần hòa giải và hiệp nhất, cần can đảm và động lực để bước tới. Bởi vì, không phải những bức tường của sợ hãi và loại bỏ bị điều khiển bởi các lợi ích dân tộc chủ nghĩa sẽ giúp cho nó tiến bộ, cũng không phải duy chỉ phục hồi kinh tế sẽ đảm bảo cho an ninh và sự ổn định của nó. Chúng ta hãy nhìn lại lịch sử của Sýp và xem cuộc gặp gỡ và sự chào đón đã mang lại những hoa trái lợi ích lâu dài như thế nào. Sýp không chỉ là “bàn đạp” trên lục địa về lịch sử của Kitô giáo, mà còn về việc xây dựng một xã hội phong phú trong sự hội nhập. Tinh thần rộng mở này, khả năng nhìn vượt ra khỏi biên giới của chính mình sẽ mang lại sự trẻ trung, cho phép quý vị tái khám phá sự sáng rực đã mất.
Đề cập đến Sýp, sách Công vụ tông đồ kể rằng Phaolô và Barnaba đã “đi xuyên qua đảo” để đến Pa-phô (x. Cv 13:6). Tôi thật vui mừng, trong những ngày này, tôi có thể đi xuyên qua lịch sử và linh hồn của vùng đất này, với mong muốn rằng khát vọng hiệp nhất và thông điệp về vẻ đẹp của nó tiếp tục dẫn đường cho nó hướng đến tương lai. O Theós na evloghí tin Kípro! [Xin Chúa chúc lành cho Sýp!]
Văn Yên, SJ