2021
ĐTC cầu nguyện đại kết với những người di cư ở Sýp
ĐTC cầu nguyện đại kết với những người di cư ở Sýp
Lúc khoảng 4 giờ chiều ngày 3/12/2021 Đức Thánh Cha đã đến nhà thờ Thánh Giá tại thủ đô Nicosia của Sýp để cùng cầu nguyện đại kết với những người di cư. Đức Thánh Cha đã nói với những người di cư về giấc mơ của Thiên Chúa, Đấng mong muốn mọi con cái của Người là anh chị em của nhau.
Nhà thờ Thánh Giá nằm ở phía đông Cửa Paphos, bên trong các tường thành cổ của thành phố Nicosia. Đây là nơi quy tụ của cộng đồng Công giáo ở Sýp. Với sự trợ giúp của Hoàng gia Tây Ban Nha và các tu sĩ Phanxicô, nhà thờ được đặt viên đá đầu tiên vào ngày 8/4/1900, trên nền một nhà thờ được xây dựng vào năm 1642, và được khánh thành vào năm 1902, và sau đó được trùng tu vào năm 1989.
Đến nhà thờ, Đức Thánh Cha được chào đón bởi Đức Thượng phụ Công giáo Latinh của Giêrusalem, Pierbattista Pizzaballa, và cùng tiến vào nhà thờ trong tiếng thánh ca.
Phát biểu của Đức Thượng phụ Pierbattista Pizzaballa
Thực tế đau thương của người di dân trên đảo Sýp
Đại diện cộng đoàn chào Đức Thánh Cha, Đức Thượng phụ Pizzaballa nói rằng hai ngày qua Đức Thánh Cha đã gặp những thực tế tốt đẹp của đảo Sýp, cảm nghiệm được đời sống xã hội và dân sự, cũng như sự chào đón nồng nhiệt của cộng đồng Chính Thống giáo và Công giáo. Và lúc này, thật là chính đáng và cần thiết khi Đức Thánh Cha cũng hướng đến một thực tế đau thương và khó khăn trên đảo Sýp, được thể hiện bởi các thảm kịch xảy ra hàng ngày ở Địa Trung Hải. Đó là thực trạng của hàng ngàn người di dân tị nạn, chạy trốn chiến tranh và đau khổ, họ đến đây và không tìm được lối thoát, không có viễn cảnh tương lai sáng sủa.
Giáo hội có thể mang lại cho người di dân một khuôn mặt và một cái tên
Đức Thượng phụ nhấn mạnh rằng di dân tị nạn là hiện tượng toàn cầu và đòi sự phản ứng của cộng đồng quốc tế. Những hàng rào không phải là giải pháp. Các quốc gia cần nhận ra rằng tương lai của họ cũng lệ thuộc vào cách giải quyết vấn nạn di dân. Theo Đức Thượng phụ, Giáo hội có thể lắng nghe tiếng nói của những người di dân, mang lại cho họ một khuôn mặt và một cái tên. Sứ mạng của Giáo hội là “khôi phục phẩm giá và danh tính cho những người mà có lẽ nhiều người không muốn nhìn thấy hoặc gặp gỡ, nhưng là những con người tồn tại, thật sự và đang chờ phản ứng của chúng ta. Bởi vì chính Chúa, qua họ, là Đấng gõ cửa chúng ta, là Đấng hướng ánh mắt của Người về phía chúng ta, là Đấng tra vấn lương tâm của chúng ta. Chúng ta không thể bỏ qua. Chúng ta không thể im lặng”.
Chúa Kitô là bình an của chúng ta
Giờ cầu nguyện đại kết cùng với những người di dân bắt đầu với đoạn sách trích từ thư thánh Phaolô gửi tín hữu Êphêxô (2,13-22), khẳng định rằng Chúa Kitô là bình an của chúng ta, Đấng đã liên kết đôi bên, dân Do Thái và dân ngoại, thành một.
Trình bày chứng từ
Công việc phục vụ đôi khi mệt mỏi nhưng truyền cảm hứng
Mở đầu phần trình bày chứng từ, cô Elisabeth Chrysanthou, một thành viên của Caritas của Sýp cho biết khi nước này ngày càng đón tiếp nhiều người di dân, Caritas đã cố gắng đáp ứng những thách đố tiếp đón và chăm sóc họ từ những nhu cầu về thực phẩm quần áo cho đến làm thông dịch viên, tìm nơi ẩn trú, bảo vệ trước bạo lực… Cô nói: “Khi thực hiện sứ mạng của mình, chúng con tâm niệm rằng mỗi người là duy nhất và đáng được quan tâm. Công việc chúng con làm có đôi lúc mệt mỏi nhưng nó truyền cảm hứng và giúp chúng con ước mơ nhiều hơn. Chúng con ước mơ rằng có thể làm được nhiều việc hơn, có thể tiếp cận nhiều người hơn, nhiều cộng đồng được biến đổi hơn, nhiều người trong chúng ta tham gia vào cuộc sống của nhau hơn”.
“Tôi là ai?”
Sau đó là chứng từ của bốn bạn trẻ di dân. Người thứ nhất đến từ Trung Đông, thường tự hỏi “tôi là ai”. Trước những câu hỏi: “Bạn là ai?”; “Tại sao bạn đến đây?”; “Bạn có muốn lưu lại đây?” khi phải điền vào các mẫu đơn, cô chỉ muốn nói rằng mình là “con người”, “anh chị em”, là “bạn hữu”….
“Bị thương tích vì sự thù ghét”
Người thứ hai đến từ châu Phi, nói rằng mình “bị thương tích vì sự thù ghét”. Sự ghét bỏ có thể chiếm lấy linh hồn một người và khiến họ cướp đi sinh mạng người khác với đôi mắt lạnh lùng, hoặc tiêu diệt bất cứ ai bằng những quả mìn. Anh nói: “Tôi đau đớn vì những hành động thù hận khiến tôi không thể học hành, làm việc hay sinh sống trên các miền đất của ngôi nhà chung của chúng ta. Và tôi là một người đau đớn vì thiếu tình yêu, khiến tôi cảm thấy mình kém hơn những người khác, không được mong đợi, một gánh nặng; bởi, sự căm ghét tinh vi đã cướp đi của tôi một lời nói tử tế, một nụ cười rất cần thiết trong một ngày lạnh giá; bởi những rào cản khiến tôi đứng ngoài lề của cộng đồng”.
Hành trình
Người thứ ba đến từ Nam Á, trải qua hành trình vất vả, bị lừa gạt, bóc lột, quên lãng và chối từ. Nhưng hành trình cũng hướng đến mục tiêu. Đặc biệt hành trình đưa đến ánh sáng đức tin, kiến thức và tình bạn nhân loại.
Tràn đầy ước mơ
Cuối cùng là một phụ nữ trẻ “tràn đầy ước mơ”. Chị mơ về một thế giới không ai bị buộc phải chịu cảnh chiến tranh, ra trận, đầu hàng, chạy trốn hay than khóc. Chị cũng mơ những giấc mơ giản dị như ngửi thấy mùi thức ăn mẹ nấu, mùi của cánh đồng sau cơn mưa, những cơn gió biển. Chị mơ những nụ cười…
Diễn từ của Đức Thánh Cha
Trong phần đáp từ, Đức Thánh Cha cảm ơn những người trẻ đã trình bày những chứng từ cảm động. Ngài ngợi khen Chúa Cha đang mặc khải Vương quốc tình yêu, công lý và hòa bình của Chúa cho những người bé mọn.
“Các bạn không phải là người xa lạ, nhưng là đồng hương”
Đức Thánh Cha dùng lại lời của thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Êphêsô (Ep 2,19) để khẳng định với những người di dân: “Các bạn không phải là người xa lạ, nhưng là đồng hương”. Đức Thánh Cha nói: Đây là lời ngôn sứ của Giáo hội: một cộng đồng, với tất cả những giới hạn của con người, là hiện thân của giấc mơ của Thiên Chúa.
Giấc mơ của Thiên Chúa
Đề cập đến chứng từ của Mariamie, đến từ Cộng hoà Dân chủ Congo, người đã miêu tả mình là người “đầy những giấc mơ”, Đức Thánh Cha nói: Bởi vì Thiên Chúa cũng mơ, giống như con. Giống như con, Thiên Chúa mơ về một thế giới hòa bình, trong đó con cái của Người sống như anh chị em.
Đức Thánh Cha nói với những người di dân: Sự hiện diện của các bạn, các anh chị em di cư, rất có ý nghĩa đối với cử hành đại kết này. Những chứng tá của các bạn giống như một “tấm gương soi” cho chúng tôi, cho các cộng đồng Kitô giáo.
Câu hỏi “Bạn là ai?” của Thamara, người đến từ Trung Đông, theo Đức Thánh Cha, nhắc nhở chúng ta rằng đôi khi câu hỏi này cũng được đặt ra cho chúng ta: “Bạn là ai?”. Ngài than phiền: Và thật không may, nó thường có nghĩa là: “Bạn thuộc phe nào? Bạn thuộc nhóm nào?”. Tuy nhiên, chúng ta không phải là những con số, những cái tên được liệt kê trên danh sách; chúng ta là “anh chị em”, “bạn bè”, “những tín đồ”, “những người lân cận” với nhau.
Hận thù đầu độc các tương quan
Đức Thánh Cha nói tiếp: Khi con, Maccolins, đến từ Camerun, nói rằng trong cuộc sống con đã bị “thương tổn bởi sự thù hận”, con nhắc nhở chúng ta rằng lòng thù hận cũng đã phá huỷ các tương quan giữa các Kitô hữu chúng ta. Và điều này, như con đã nói, thay đổi chúng ta; nó để lại một dấu ấn sâu đậm và tồn tại lâu dài. Nó là một chất độc rất khó giải. Đó là một tâm thức méo mó, thay vì giúp chúng ta nhìn nhận nhau là anh em, lại khiến chúng ta coi nhau là kẻ thù, là đối thủ.
Từ xung đột đến hiệp thông
Khi con, Rozh, đến từ Iraq, nói rằng con là “một người đang hành trình”, con nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta cũng là cộng đồng đang hành trình, chúng ta đang trên đường từ xung đột đến hiệp thông. Trên con đường dài và đầy thăng trầm này, chúng ta không nên sợ hãi sự khác biệt giữa chúng ta, nhưng chính sự khép kín và định kiến của chúng ta có thể ngăn cản chúng ta thực sự gặp gỡ và bước đi cùng nhau. Sự khép kín và định kiến giữa chúng ta tái dựng bức tường ngăn cách, tức là sự thù hận giữa chúng ta, đã bị Đức Kitô phá đổ (x. Ep 2,14). Và rồi hành trình hướng tới sự hiệp nhất trọn vẹn của chúng ta chỉ có thể tiến thêm những bước tiến nếu tất cả cùng nhau chiêm ngắm Chúa Giêsu, Đấng là “hòa bình của chúng ta” (sđd), là “đá góc tường” (c. 20). Chính Người, Chúa Giêsu, đến gặp chúng ta với khuôn mặt của người anh em bị gạt ra ngoài lề và bị chối từ. Trong gương mặt của người di cư bị coi thường, bị từ chối, bị nhốt lại… Nhưng đồng thời – như con đã nói – gương mặt của người di cư đang hướng tới một mục tiêu, hướng tới một hy vọng, một sự chung sống đầy tình người hơn…
Đừng hài lòng trước một thế giới bị chia rẽ
Và Đức Thánh Cha nhấn mạnh: Thiên Chúa nói với chúng ta qua những giấc mơ của chúng ta. Người yêu cầu chúng ta đừng hài lòng trước một thế giới bị chia rẽ, những cộng đồng Kitô hữu bị chia rẽ, nhưng hãy bước đi trong lịch sử, được thu hút bởi giấc mơ của Thiên Chúa: một nhân loại không có bức tường ngăn cách, thoát khỏi thù hận, không có người xa lạ mà chỉ có đồng bào. Những đồng hương tuy khác biệt nhưng tự hào về sự đa dạng và đặc thù của chúng ta, vốn là món quà của Chúa. Những đồng hương được hòa giải và nên một.
Tôi là anh chị em của bạn
Cuối cùng, khi cầu chúc Sýp trở thành nơi sản sinh tình huynh đệ, Đức Thánh Cha nói rằng điều này sẽ có thể khi có sự công nhận thật sự phẩm giá của mỗi con người và sự cởi mở tin cậy đối với Thiên Chúa là Cha của tất cả mọi người. Ngài nói: Nếu có những điều kiện này, giấc mơ có thể được hiện thực trong cuộc hành trình hàng ngày, được tạo thành từ các bước cụ thể từ xung đột đến hiệp thông, từ thù hận đến yêu thương. Một cuộc hành trình kiên nhẫn, ngày này qua ngày khác, dẫn chúng ta vào vùng đất mà Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta, vùng đất mà khi được hỏi: “Bạn là ai?”, các bạn có thể trả lời một cách cởi mở: “Tôi là anh em của bạn”. “Tôi là chị em của bạn”.
Giờ cầu nguyện tiếp tục với kinh nguyện đại kết và kinh Lạy Cha, sau đó Đức Thánh Cha ban phép lành kết thúc.
Hồng Thủy
2021
Diễn văn của ĐTC trong giờ cầu nguyện đại kết với người di cư ở Sýp
Diễn văn của ĐTC trong giờ cầu nguyện đại kết với người di cư ở Sýp
Lúc khoảng 4 giờ chiều ngày 3/12/2021 Đức Thánh Cha đã đến nhà thờ Thánh Giá tại thủ đô Nicosia của Sýp để cùng cầu nguyện đại kết với những người di cư. Đức Thánh Cha đã nói với những người di cư về giấc mơ của Thiên Chúa, Đấng mong muốn mọi con cái của Người là anh chị em của nhau.
Diễn văn của Đức Thánh Cha Phanxicô
Cầu nguyện Đại kết với những người di cư
Giáo xứ Thánh Giá
Thứ Sáu 03/12/2021
Anh chị em thân mến!
Thật là một niềm vui lớn lao khi hiện diện ở đây với anh chị em và kết thúc chuyến viếng thăm tại Sýp của tôi bằng cuộc gặp gỡ cầu nguyện. Tôi cảm ơn các Đức Thượng phụ Pizzaballa và Bechara Rai, cũng như các thành viên của văn phòng Caritas. Với tình cảm và lòng biết ơn, tôi chào những người đại diện của các hệ phái Kitô khác hiện diện tại Sýp.
Từ tận trái tim, tôi muốn nói lời “cảm ơn” vô vàn với các bạn, những người trẻ di dân, những người đã trình bày chứng từ. Tôi đã nhận được các chứng từ cách đây khoảng một tháng và chúng đã đánh động tôi rất nhiều, và ngay cả hôm nay cũng thế. Đó không chỉ là sự xúc động, nhưng còn hơn thế rất nhiều: đó là cảm xúc mạnh mẽ đến từ sự gặp gỡ với vẻ đẹp của sự thật. Chúa Giêsu cũng đã cảm động như thế khi Người thốt lên: “Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Mt 11,25-26). Tôi cũng ngợi khen Chúa Cha trên trời vì điều đang xảy ra hôm nay, ở đây, cũng như trên khắp thế giới. Thiên Chúa đang mặc khải Vương quốc tình yêu, công lý và hòa bình của Người cho những người bé mọn.
Sau khi lắng nghe các bạn, chúng tôi hiểu rõ hơn tất cả sức mạnh ngôn sứ của Lời Chúa, Đấng nói với chúng ta qua thánh Phaolô tông đồ: “Anh em không còn phải là người xa lạ hay người tạm trú, nhưng là người đồng hương với các người thuộc dân thánh, và là người nhà của Thiên Chúa” (Ep 2,19). Những lời được viết cho các Kitô hữu của Êphêxô, không xa nơi đây, cách nay hàng thế kỷ, nhưng vẫn thời sự hơn bao giờ hết, như thể chúng được viết cho chúng ta ngày nay: “Các bạn không phải là người xa lạ, nhưng là đồng hương”. Đây là lời ngôn sứ của Giáo hội: một cộng đồng, với tất cả những giới hạn của con người, là hiện thân của giấc mơ của Thiên Chúa. Bởi vì Thiên Chúa cũng mơ, giống như con, Mariamie, đến từ Cộng hoà Dân chủ Congo; con đã miêu tả mình là người “đầy những giấc mơ”. Giống như con, Thiên Chúa mơ về một thế giới hòa bình, trong đó con cái của Người sống như anh chị em. Thiên Chúa muốn điều này, Thiên Chúa mơ điều này.
Sự hiện diện của các bạn, các anh chị em di cư, rất có ý nghĩa đối với cử hành đại kết này. Những chứng tá của các bạn giống như một “tấm gương” cho chúng tôi, cho các cộng đồng Kitô giáo. Khi con, Thamara, người đến từ Sri Lanka, nói với chúng tôi rằng người ta thường hỏi con, “Bạn là ai?”, con nhắc nhở chúng tôi rằng đôi khi câu hỏi này cũng được đặt ra cho chúng tôi: “Bạn là ai?”. Và thật không may, nó thường có nghĩa là: “Bạn thuộc phe nào? Bạn thuộc nhóm nào?”. Tuy nhiên như con nói, chúng ta không phải là những con số, những cái tên được liệt kê trên danh sách; chúng ta là “anh chị em”, “bạn bè”, “những tín đồ”, “những người lân cận” với nhau. Nhưng khi lợi ích nhóm hoặc lợi ích chính trị, thậm chí của các quốc gia, thúc đẩy, nhiều người trong chúng ta thấy mình bị gạt sang một bên, vô tình trở thành nô lệ. Bởi vì quyền lợi luôn nô dịch, luôn tạo ra nô lệ. Tình yêu, là mở rông, là trái ngược với hận thù, tình yêu làm cho chúng ta tự do.
Khi con, Maccolins, đến từ Camerun, nói rằng trong cuộc sống con đã bị “thương tổn bởi sự thù hận”, con đang nói về điều này, về những vết thương của lợi ích; và con nhắc nhở chúng tôi rằng lòng thù hận cũng đã phá huỷ các tương quan giữa các Kitô hữu chúng ta. Bằng nhiệt huyết của mình con cho thấy rằng sự thù hận là nọc độc. Và điều này, như con đã nói, thay đổi chúng ta; nó để lại một dấu ấn sâu đậm và tồn tại lâu dài. Nó là một chất độc rất khó giải. Đó là một tâm thức méo mó, thay vì giúp chúng ta nhìn nhận nhau là anh em, lại khiến chúng ta coi nhau là kẻ thù, là đối thủ, khi mà không như đồ vật để buôn bán hay lợi dụng.
Khi con, Rozh, đến từ Iraq, nói rằng con là “một người đang hành trình”, con nhắc nhở chúng tôi rằng chúng tôi cũng là cộng đồng đang hành trình, chúng tôi đang trên đường từ xung đột đến hiệp thông. Trên con đường dài và đầy thăng trầm này, chúng ta không nên sợ hãi sự khác biệt giữa chúng ta, nhưng chính sự khép kín và định kiến của chúng ta có thể ngăn cản chúng ta thực sự gặp gỡ và bước đi cùng nhau. Sự khép kín và định kiến giữa chúng ta tái dựng bức tường ngăn cách, tức là sự thù hận giữa chúng ta, đã bị Đức Kitô phá đổ (x. Ep 2,14). Và rồi hành trình hướng tới sự hiệp nhất trọn vẹn của chúng ta chỉ có thể tiến thêm những bước nếu tất cả cùng nhau chiêm ngắm Chúa Giêsu, Đấng là “hòa bình của chúng ta” (sđd), là “đá góc tường” (c. 20). Chính Người, Chúa Giêsu, đến gặp chúng ta với khuôn mặt của người anh em bị gạt ra ngoài lề và bị chối từ. Trong gương mặt của người di cư bị coi thường, bị từ chối, bị nhốt lại… Nhưng đồng thời – như con đã nói – gương mặt của người di cư đang hướng tới một mục tiêu, hướng tới một hy vọng, một sự chung sống đầy tình người hơn…
Và như thế Thiên Chúa nói với chúng ta qua những giấc mơ của chúng ta. Điều nguy hiểm là nhiều khi chúng ta không để giấc mơ thấm vào mình và chúng ta thích ngủ hơn là mơ. Thật là dễ khi ngoảnh nhìn đi nơi khác. Và trong thế giới này, chúng ta đã quá quen với văn hóa thờ ơ đó, với văn hóa ngoảnh nhìn đi nơi khác, và chìm vào giấc ngủ một cách bình thản như thế. Nhưng trên con đường này các bạn không bao giờ có thể mơ ước. Chúa không nói qua những người không thể mơ ước điều gì, bởi vì họ có tất cả mọi thứ hay vì trái tim của họ đã chai cứng. Thiên Chúa cũng yêu cầu chúng ta đừng hài lòng trước một thế giới bị chia rẽ, đừng đầu hàng trước những cộng đồng Kitô hữu bị chia rẽ, nhưng hãy bước đi trong lịch sử, được thu hút bởi giấc mơ của Thiên Chúa: một nhân loại không có bức tường ngăn cách, thoát khỏi thù hận, không có người xa lạ mà chỉ có đồng bào, như thánh Phaolô đã nói với chúng ta trong đoạn sách tôi đã trưng dẫn. Những đồng hương tuy khác biệt nhưng tự hào về sự đa dạng và đặc thù của chúng ta, vốn là món quà của Chúa. Những đồng hương được hòa giải và nên một.
Cầu xin cho hòn đảo này, bị đánh dấu bởi sự chia rẽ đau đớn – tôi đang nhìn bức tường, ở đó (sau cánh cửa mở của nhà thờ) – nhờ ân sủng của Thiên Chúa, trở thành nơi sản sinh tình huynh đệ. Tôi cảm ơn tất cả những người làm việc cho điều này. Hãy nghĩ xem hòn đảo này quảng đại nhưng cũng không thể làm được tất cả, bởi lượng người đến đông hơn khả năng gia nhập, hội nhập, đồng hành, thăng tiến của nó. Sự gần gũi về địa lý của nó tạo điều kiện…, nhưng nó không phải là dễ dàng. Chúng ta cần hiểu những giới hạn mà những nhà lãnh đạo trên Đảo này bị ràng buộc. Nhưng luôn có trên Đảo này, và tôi đã thấy điều đó ở những người lãnh đạo mà tôi đã đến thăm, [sự dấn thân] trở thành, với ân sủng của Thiên Chúa, nơi sản xuất của tình huynh đệ. Và điều này sẽ có thể nếu có được hai điều kiện. Thứ nhất là sự công nhận thật sự phẩm giá của mỗi con người (xem Fratelli tutti, 8). Nhân phẩm của chúng ta không bị bán, không được cho thuê, không bị mất đi. Hãy ngẩng cao đầu: Tôi là một người con xứng đáng của Thiên Chúa. Sự công nhận thật sự phẩm giá của mỗi con người: đây là nền tảng đạo đức, một nền tảng phổ quát, cũng là trọng tâm của học thuyết xã hội Kitô giáo. Điều kiện thứ hai là sự cởi mở tin cậy đối với Thiên Chúa là Cha của tất cả mọi người; và đây là “men” mà chúng ta, những người có đức tin, được kêu gọi cống hiến. (xem sđd, 272).
Nếu có những điều kiện này, giấc mơ có thể được hiện thực trong cuộc hành trình hàng ngày, được tạo thành từ các bước cụ thể, từ xung đột đến hiệp thông, từ thù hận đến yêu thương, từ chạy trốn đến gặp gỡ. Một cuộc hành trình kiên nhẫn, ngày này qua ngày khác, dẫn chúng ta vào vùng đất mà Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta, vùng đất mà khi được hỏi: “Bạn là ai?”, các bạn có thể trả lời một cách cởi mở: “Hãy xem, tôi là anh em của bạn. Bạn không nhận ra tôi?”. “Tôi là chị em của bạn”.
Lắng nghe các bạn nói, nhìn vào mặt các bạn, trí nhớ đi xa hơn, nó đi đến đau khổ. Các bạn đã đến đây: nhưng còn lại bao nhiêu anh chị em của các bạn nằm lại trên đường? Có bao nhiêu người tuyệt vọng bắt đầu cuộc hành trình của mình trong những điều kiện hết sức khó khăn, thậm chí bấp bênh mà chưa thể đến nơi? Chúng ta có thể nói về vùng biển này đã trở thành một nghĩa trang lớn. Nhìn các bạn, tôi quan sát những đau khổ của cuộc hành trình, biết bao nhiêu người bị bắt cóc, bị bán, bị bóc lột…, họ vẫn đang trên đường đi, chúng ta không biết ở đâu. Đó là câu chuyện về một chế độ nô lệ, một chế độ nô lệ hoàn vũ. Chúng ta quan sát những gì xảy ra, và điều tồi tệ nhất là chúng ta đã quen với nó. “À, phải, hôm nay có một chiếc thuyền bị chìm, ở đó… mất tích rất nhiều…”. Nhưng nhìn xem, sự quen dần này là một căn bệnh nguy hiểm, nó là một căn bệnh rất nghiêm trọng và không có thuốc kháng sinh cho căn bệnh này! Chúng ta phải chống lại thói quen quen đọc những bi kịch này trên báo chí hoặc nghe chúng trên các phương tiện truyền thông khác. Nhìn các bạn, tôi nghĩ đến nhiều người đã phải quay lại vì bị họ từ chối và kết thúc trong các trại tập trung, trại tập trung thực sự, nơi phụ nữ bị bán, đàn ông bị tra tấn, bị bắt làm nô lệ … Chúng ta than phiền khi đọc những câu chuyện về các trại tập trung của thế kỷ trước, của Đức Quốc xã, của Stalin; chúng ta phàn nàn khi thấy điều này và chúng ta nói: “nhưng tại sao điều này lại xảy ra?”. Thưa anh chị em: nó đang xảy ra ngày hôm nay, ở các bờ biển gần đây! Những nơi chốn của chế độ nô lệ. Tôi đã xem một số chứng tá được ghi hình về điều này: những nơi bị tra tấn, những nơi buôn người. Tôi nói điều này vì trách nhiệm của tôi là giúp các bạn mở mang tầm mắt. Di cư bắt buộc không phải là một thói quen như của khách du lịch: làm ơn! Và tội lỗi trong lòng chúng ta khiến chúng ta suy nghĩ như thế này: “Ôi, những người tội nghiệp, tội nghiệp!”. Và với lời than “những người tội nghiệp” đó chúng ta xóa bỏ tất cả mọi thứ. Đó là cuộc chiến của thời điểm này, là nỗi thống khổ của anh chị em mà chúng ta không thể im lặng. Những người đã cho tất cả những gì họ có để lên thuyền, vào ban đêm, và sau đó … không biết liệu họ có đến nơi hay không … Và sau đó, nhiều người đã bị từ chối và kết thúc trong các trại tập trung, những nơi thực sự bị giam giữ, tra tấn và nô lệ.
Đây là câu chuyện của nền văn minh phát triển này, mà chúng ta gọi là phương Tây. Và sau đó – xin phép, nhưng tôi xin nói ra những gì trong lòng, ít nhất là cầu nguyện cho nhau và làm một điều gì đó – và rồi, dây thép gai. Tôi thấy một điều ở đây: đây là một cuộc chiến tranh hận thù chia cắt một đất nước. Nhưng những sợi dây thép gai, ở những nơi khác, nơi chúng được đưa ra để không cho người tị nạn vào, người đến để xin tự do, bánh mì, sự giúp đỡ, tình anh em, niềm vui, người đang chạy trốn khỏi hận thù và phải đối mặt với với một mối hận thù được gọi là hàng rào thép gai. Xin Chúa đánh thức lương tâm của tất cả chúng ta khi đối mặt với những điều này.
Và xin lỗi nếu tôi đã nói những điều như chúng vốn là, nhưng chúng ta không thể im lặng và ngoảnh mặt đi, trong nền văn hóa thờ ơ này.
Cầu xin Chúa ban phước lành cho tất cả các bạn! Cảm ơn.
(Vatican News 03.12.2021)
2021
ĐTC Phanxicô gặp gỡ Đức Thượng phụ Chrysostomos II và Thánh Hội đồng
ĐTC Phanxicô gặp gỡ Đức Thượng phụ Chrysostomos II và Thánh Hội đồng
Thứ Sáu 03/12, ngày thứ hai trong chuyến tông du của Đức Thánh Cha đến đảo Sýp và Hy Lạp. Vào lúc 8 giờ 20, Đức Thánh Cha di chuyển bằng xe đến toà Tổng Giám mục Chính thống Sýp, cách Toà Sứ thần 15 km, để thăm Đức Thượng phụ Chrysostomos II, Tổng Giám mục của Nuova Giustiniana và toàn đảo Sýp. Sau đó, ngài gặp gỡ Thánh Hội đồng
Toà Tổng Giám mục
Toà Tổng Giám mục nằm ở trung tâm Nicosia, được xây dựng từ năm 1956 đến năm 1960, theo kiến trúc tân Byzantine. Toà nhà được trang trí với các cột trắng, mái vòm cao, cửa sổ lớn. Trong sân, ngay trước lối vào, có một bức tượng bằng đá cẩm thạch của Đức Thượng phụ Makarios III, Tổng Giám mục tiên khởi của Sýp. Các tòa nhà bằng đá tinh luyện gồm các văn phòng, bảo tàng Byzantine – nơi lưu giữ một trong những bộ sưu tập tranh thánh cổ xưa của thế giới – và thư viện Tổng Giám mục.
Khi đến nơi, Đức Thánh Cha được Đức Thượng phụ Chrysostomos II và đại diện của Thánh Hội đồng chào đón tại lối chính của Toà Tổng Giám mục.
Đức Thượng phụ Chrysostomos II
Đức Thượng phụ Chrysostomos II là Tổng Giám mục Chính thống của Nuova Giustiniana và toàn đảo Sýp, năm nay 80 tuổi (1941). Ngài được thụ phong phó tế năm 1963. Từ năm 1968 đến 1972 ngài theo học tại đại học Athen, và được thụ phong linh mục năm 1972. Từ năm 1972 đến 1978 ngài là viện trưởng của đan viện thánh Neophytos của Paphô. Năm 1978, ngài được bầu chọn là Tổng Giám mục Paphô. Năm 2006 ngài được chọn làm Tổng Giám mục Nuova Giustiniana và toàn đảo Sýp. Trong tư cách là Chủ tịch Thánh Hội Đồng Giáo hội Chính thống Sýp, Đức Thượng Phụ đã tham dự thánh lễ an táng thánh Giáo hoàng Gioan Phaolo II và thánh lễ khai mạc sứ vụ chủ chăn của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI hồi năm 2005. Để đáp lễ, Đức nguyên Giáo hoàng Biển Đức XVI đã gửi phái đoàn Tòa Thánh tham dự lễ Nhận toà của Đức Thượng Phụ.
Cuộc gặp gỡ giữa Đức Thánh Cha và Đức Thượng phụ Chrysostomos II được bắt đầu bằng việc giới thiệu các thành viên của hai phái đoàn. Sau đó Đức Thánh Cha và Đức Thượng phụ có cuộc hội kiến riêng. Và cuối cùng là phần ký sổ lưu niệm.
ĐTC Phanxicô gặp gỡ Thánh Hội đồng
Sau cuộc gặp gỡ với Đức Thượng Phụ Chrysostomos II, Đức Thánh Cha di chuyển đến Nhà thờ Chính toà Chính thống ở Nicosia cách đó 100 mét, để gặp gỡ Thánh Hội đồng.
Nhà thờ Chính toà Chính thống
Nhà thờ Chính Toà Chính thống, còn được gọi là Nhà thờ Thánh Gioan thần học, dâng kính Thánh Gioan Tông đồ và được xây dựng ở nơi trước đó là nhà nguyện của tu viện cũng mang tên Thánh Gioan, thành lập từ giữa thế kỷ 10 và 12. Công trình xây dựng kéo dài hơn 10 năm. Tòa nhà có mái vòm tròn theo phong cách Pháp-Byzantine và chỉ có một gian giữa với mái vòm nhọn. Bên ngoài đơn giản khác với nội thất được trang trí tỉ mỉ bên trong với những bức bích họa miêu tả những cảnh trong Kinh Thánh, đặc biệt cảnh Chúa Kitô bị đóng đinh với sự chứng kiến của Đức Mẹ và Thánh Gioan, đặc biệt có mộ của Thánh Barnaba ở Salamis, với những tấm gỗ sơn hoặc dát vàng, đèn chùm pha lê và các tác phẩm điêu khắc.
Thánh Hội đồng
Thánh Hội đồng là quyền bính cao nhất của Giáo hội Chính thống Sýp. Đứng đầu là Tổng Giám mục của Nuova Giustiniana và Toàn đảo Sýp, cùng với 9 Tổng Giám mục và 7 Giám mục của Sýp. Vị đứng đầu Thánh Hội đồng hiện nay là Đức Thượng phụ Chrysostomos II.
Được xếp đặt thành 12 Ủy ban, Thánh Hội đồng có nhiệm vụ bảo tồn giáo lý, giáo luật và phụng vụ của Giáo hội Chính thống Sýp, duy trì sự hiệp thông với Tòa Thượng phụ Đại kết và các Giáo hội Chính thống khác và để điều hành các mối quan hệ đại kết và liên tôn. Ngoài ra, Thánh Hội đồng giám sát việc cai quản về công lý Giáo hội, quản lý tài chính và hoạt động của Văn phòng Đại diện của Giáo hội Sýp tại Liên minh châu Âu và giám sát giáo dục tôn giáo. Đức Thượng phụ triệu tập Thánh Hội đồng 4 lần trong năm.
Buổi gặp gỡ bắt đầu với diễn văn chào mừng của Đức Thượng phụ Chrysostomos II dành cho Đức Thánh Cha trong buổi thăm Thánh Hội đồng này.
Diễn văn của ĐTC
Trong bài diễn văn đáp từ Đức Thượng phụ, trước hết, Đức Thánh Cha bày tỏ niềm vui và cám ơn sự đón tiếp ngài đã nhận được từ Đức Thượng phụ và các thành viên của Thánh Hội đồng.
Nguồn gốc tông đồ chung
Tiếp đến Đức Thánh Cha nói: “Hồng ân được hiện diện nơi đây nhắc tôi nhớ rằng chúng ta có một nguồn gốc tông đồ chung: thánh Phaolô đi qua Sýp và sau đó đến Rôma. Do đó, chúng ta thừa kế cùng một lòng nhiệt thành tông đồ và một con đường duy nhất kết nối chúng ta, đó là Tin Mừng. Vì vậy, tôi muốn thấy chúng ta tiến bước trên cùng một con đường, tìm kiếm tình huynh đệ ngày càng lớn hơn và sự hiệp nhất trọn vẹn. Trong phần Đất Thánh này, nơi lan toả ân sủng của những nơi thánh trên khắp Địa Trung Hải, một cách tự nhiên làm chúng ta ngẫm nghĩ đến biết bao trang và nhân vật Kinh Thánh. Trong những nhân vật này, một lần nữa tôi muốn đề cập đến thánh Banaba, và suy tư về một số khía cạnh cuộc sống của thánh Tông đồ có thể hướng dẫn chúng ta trên hành trình của chúng ta”.
Banaba: Người con của sự an ủi và khích lệ
Đi từ Sách Công vụ Tông đồ, Đức Thánh Cha giải thích: Tên “Banaba” vừa có nghĩa là “người con của sự an ủi” vừa là “người con của sự khích lệ”. Thật đẹp trong con người của thánh nhân kết hợp cả hai tính cách này, vốn là những đặc điểm không thể thiếu cho việc loan báo Tin Mừng.
Thánh Banaba, người con của sự an ủi, khuyến khích chúng ta, những người anh em của thánh Tông đồ thực hiện cùng một sứ vụ là đem Tin Mừng đến cho nhân loại; mời gọi chúng ta hiểu rằng lời loan báo không thể chỉ dựa trên những lời khích lệ chung chung, lặp lại các giới luật và quy tắc phải tuân giữ, như thường lệ. Loan báo Tin Mừng phải đi theo con đường gặp gỡ cá nhân, chú ý đến câu hỏi của mọi người, đến nhu cầu hiện sinh của họ. Để trở thành những người con của sự an ủi, trước khi nói điều gì đó, cần phải lắng nghe, để được chất vấn, khám phá người khác, chia sẻ. Bởi vì Tin Mừng được thông truyền nhờ hiệp thông. Đó là điều mà, với tư cách là các tín hữu Công giáo, chúng tôi muốn trải nghiệm trong vài năm tới, tái khám phá chiều kích hiệp hành, xây dựng Giáo hội. Trong điều này, chúng tôi cảm thấy cần phải đồng hành mạnh mẽ hơn nữa với anh em, những người anh em quý mến, qua kinh nghiệm về sự hiệp hành của anh em có thể giúp chúng tôi.
Tôi chân thành hy vọng chúng ta sẽ có nhiều cơ hội gặp gỡ, để hiểu nhau hơn, để xóa bỏ những định kiến và ngoan nguỳ lắng nghe những kinh nghiệm đức tin của nhau. Đó sẽ là một sự khích lệ cho mỗi chúng ta và sẽ mang lại cho chúng ta niềm ủi an thiêng liêng.
Từ bỏ quá khứ chia rẽ tiến đến hiệp nhất
Đức Thánh Cha nói đến đặc tính thứ hai của thánh Banaba: Thánh Banaba là “người Lêvi, quê quán ở đảo Sýp” (Cv 4, 32). Bản văn không thêm chi tiết khác, không nói về dáng vẻ hay con người của ông, nhưng ngay lập tức cho chúng ta thấy Banaba là người như thế nào qua một trong những hành động của ông: “Ông bán đất đi, lấy tiền đem đặt dưới chân các Tông đồ”(câu 37). Cử chỉ tuyệt vời này gợi ý rằng, để được hồi sinh trong sự hiệp thông và sứ vụ, chúng ta cũng cần phải có can đảm từ bỏ tất cả những gì thuộc về thế gian, dù quý giá, để có được sự hiệp nhất trọn vẹn.
Đặt tất cả tài sản dưới chân các Tông đồ, Banaba đi vào con tim các Tông đồ. Chúng ta cũng được Chúa mời gọi tái khám phá chúng ta là chi thể của cùng một Thân thể, để hạ mình xuống dưới chân anh em. Chắc chắn, trong tương quan của chúng ta, lịch sử đã mở ra những vết nứt lớn giữa chúng ta, nhưng Chúa Thánh Thần mong muốn rằng với sự khiêm nhường và tôn trọng, chúng ta một lần nữa đến gần nhau hơn. Thánh Thần mời gọi chúng ta đừng cam chịu những chia rẽ trong quá khứ và hãy cùng nhau vun trồng cánh đồng Nước trời với sự kiên nhẫn, siêng năng và cụ thể. Vì nếu chúng ta gạt bỏ những lý thuyết trừu tượng sang một bên và cùng làm việc, như trong các công việc bác ái, giáo dục và thăng tiến phẩm giá con người, chúng ta sẽ tái khám phá tình huynh đệ, và sự hiệp thông sẽ tự trưởng thành trước sự ngợi khen Thiên Chúa. Mỗi chúng ta sẽ duy trì phong cách riêng, nhưng theo thời gian, những việc làm chung sẽ gia tăng sự hòa hợp và sinh hoa trái. Như những vùng đất Địa Trung Hải xinh đẹp này được tô điểm bởi sức lao động kiên nhẫn và tôn trọng của con người, thì với sự trợ giúp của Chúa và sự kiên trì khiêm tốn, chúng ta cũng có thể vun trồng sự hiệp thông tông đồ của chúng ta!
Vượt qua thử thách hướng đến hoà hợp
Đức Thánh Cha nói đến đặc tính thứ ba của thánh Banaba: Thử thách. Khía cạnh này đã gắn liền với công cuộc loan báo Tin Mừng ban đầu ở vùng đất này. Khi trở về Sýp cùng với Phaolô và Máccô, Banaba thấy Êlyma, “một người phù thuỷ và mạo xưng là ngôn sứ” (Cv 13, 6), người đã ác ý chống lại họ, tìm cách bẻ cong những đường lối ngay thẳng của Chúa (xem c. 8,10). Ngày nay cũng vậy, không thiếu sự giả dối và lừa gạt mà quá khứ có thể đặt ra trước mắt để cản trở con đường của chúng ta. Nhiều thế kỷ chia rẽ và xa cách đã khiến chúng ta đồng hóa, ngay cả không chủ tâm, chống đối và có thành kiến với người khác, những định kiến thường dựa trên thông tin ít ỏi và xuyên tạc, và được lan truyền bởi một nền văn chương công kích và luận chiến. Tất cả những điều này làm sai lệch con đường của Thiên Chúa, vốn hướng đến sự hòa hợp và hợp nhất.
Đức Thánh Cha kết thúc bài diễn văn với lời mời gọi cầu xin Chúa ban sự khôn ngoan và can đảm để đi theo đường lối của Người. Ngài nói: “Chúng ta cầu xin qua sự chuyển cầu của các thánh. Vô số các thánh hợp nhất trong một Giáo hội trên trời, thúc giục chúng ta cùng nhau chèo thuyền về bến, nơi tất cả chúng ta đều khao khát. Từ trên cao, các thánh mời gọi chúng ta làm cho Sýp, vốn đã là một cầu nối giữa Đông và Tây, trở thành một cầu nối giữa trời và đất. Như thế, vì vinh quang Thiên Chúa Ba Ngôi Rất Thánh, vì thiện ích chúng ta và của tất cả mọi người.”
Ngọc Yến
2021
Diễn văn của Đức Thánh Cha Phanxicô với Thánh Hội đồng
Diễn văn của Đức Thánh Cha Phanxicô với Thánh Hội đồng
Sau cuộc gặp gỡ với Đức Thượng Phụ Chrysostomos II, Đức Thánh Cha di chuyển bằng xe đến Nhà thờ Chính toà Chính thống ở Nicosia cách đó 100 mét, để gặp gỡ Thánh Hội đồng.
Tôi rất vui mừng ở đây giữa anh em và tôi biết ơn vì sự chào đón thân tình của anh em. Cám ơn người anh quý mến, Đức Thượng phụ Chrysostomos II, vì những lời tốt đẹp, vì sự mở rộng con tim và dấn thân thúc đẩy đối thoại giữa chúng ta. Tôi muốn gửi lời chào tới các linh mục, phó tế và tất cả tín hữu của Giáo hội Chính thống Sýp, với một ý nghĩ đặc biệt dành cho các đan sĩ nam nữ, những người nhờ lời cầu nguyện của họ đã thanh tẩy và nâng đức tin của tất cả mọi người lên.
Hồng ân được hiện diện nơi đây nhắc tôi nhớ rằng chúng ta có một nguồn gốc tông đồ chung: thánh Phaolô đi qua Sýp và sau đó đến Rôma. Do đó, chúng ta thừa kế cùng một lòng nhiệt thành tông đồ và một con đường duy nhất kết nối chúng ta, đó là Tin Mừng. Vì vậy, tôi muốn thấy chúng ta tiến bước trên cùng một con đường, tìm kiếm tình huynh đệ ngày càng lớn hơn và sự hiệp nhất trọn vẹn. Trong phần Đất Thánh này, nơi lan toả ân sủng của những nơi thánh trên khắp Địa Trung Hải, một cách tự nhiên làm chúng ta ngẫm nghĩ đến biết bao trang và nhân vật Kinh Thánh. Trong những nhân vật này, một lần nữa tôi muốn đề cập đến thánh Banaba, và suy tư về một số khía cạnh cuộc sống của thánh Tông đồ có thể hướng dẫn chúng ta trên hành trình của chúng ta.
“Ông Giôxếp, người được các Tông đồ đặt tên là Banaba” (Cv 4, 36). Sách Công vụ Tông đồ đã giới thiệu ngài như thế. Chúng ta biết và tôn kính thánh Banaba qua biệt danh của ngài. Tên “Banaba” vừa có nghĩa là “người con của sự an ủi” vừa là “người con của sự khích lệ”. Thật đẹp trong con người của thánh nhân kết hợp cả hai tính cách này, vốn là những đặc điểm không thể thiếu cho việc loan báo Tin Mừng. Thực tế, sự an ủi đích thực không thể giữ riêng mình, nhưng phải được diễn tả trong sự khích lệ và hướng tự do tới điều thiện. Đồng thời, mọi lời khích lệ trong đức tin phải dựa trên nền tảng là sự hiện diện an ủi của Thiên Chúa và đồng hành với tình bác ái huynh đệ.
Như thế, Banaba, người con của sự an ủi, khuyến khích chúng ta, những người anh em của thánh Tông đồ thực hiện cùng một sứ vụ là đem Tin Mừng đến cho nhân loại; mời gọi chúng ta hiểu rằng lời loan báo không thể chỉ dựa trên những lời khích lệ chung chung, lặp lại các giới luật và quy tắc phải tuân giữ, như thường lệ. Loan báo Tin Mừng phải đi theo con đường gặp gỡ cá nhân, chú ý đến câu hỏi của mọi người, đến nhu cầu hiện sinh của họ. Để trở thành những người con của sự an ủi, trước khi nói điều gì đó, cần phải lắng nghe, để được chất vấn, khám phá người khác, chia sẻ. Bởi vì Tin Mừng được thông truyền nhờ hiệp thông. Đó là điều mà, với tư cách là các tín hữu Công giáo, chúng tôi muốn trải nghiệm trong vài năm tới, tái khám phá chiều kích hiệp hành, xây dựng Giáo hội. Trong điều này, chúng tôi cảm thấy cần phải đồng hành mạnh mẽ hơn nữa với anh em, những người anh em quý mến, qua kinh nghiệm về sự hiệp hành của anh em có thể giúp chúng tôi. Cám ơn sự hợp tác huynh đệ của anh em, điều cũng được thể hiện ở việc tham gia tích cực vào Ủy ban Hỗn hợp Quốc tế về Đối thoại Thần học giữa Giáo hội Công giáo và Giáo hội Chính thống.
Tôi chân thành hy vọng chúng ta sẽ có nhiều cơ hội gặp gỡ, để hiểu nhau hơn, để xóa bỏ những định kiến và ngoan nguỳ lắng nghe những kinh nghiệm đức tin của nhau. Đó sẽ là một sự khích lệ cho mỗi chúng ta và sẽ mang lại cho chúng ta niềm ủi an thiêng liêng. Tông đồ Phaolô, mà chúng ta là hậu duệ, thường nói về sự an ủi, và thật hay khi hình dung rằng Banaba, người con của sự an ủi, là người truyền cảm hứng cho một số lời của thánh nhân. Như những lời bắt đầu Thư thứ hai gửi tín hữu Côrintô, Phaolô khuyên chúng ta an ủi nhau bằng chính niềm an ủi mà chúng ta đã được Thiên Chúa ủi an (2Cr 1, 3-5). Theo nghĩa này, anh em thân mến, tôi muốn đảm bảo với anh em về lời cầu nguyện và sự gần gũi của tôi, và của Giáo hội Công giáo, trong những vấn đề đau khổ đang gây cho anh em sự buồn phiền, cũng như trong những hy vọng tốt và táo bạo nhất sẽ khích lệ anh em. Nỗi buồn và niềm vui của anh em cũng là của chúng tôi; chúng tôi cảm nhận chúng là của chúng tôi. Và chúng tôi cảm thấy rất cần lời cầu nguyện của anh em.
Tiếp theo, khía cạnh thứ hai, Sách Công vụ Tông đồ giới thiệu Thánh Banaba là “người Lêvi, quê quán ở đảo Sýp” (Cv 4, 32). Bản văn không thêm chi tiết khác, không nói về dáng vẻ hay con người của ông, nhưng ngay lập tức cho chúng ta thấy Banaba là người như thế nào qua một trong những hành động của ông: “Ông bán đất đi, lấy tiền đem đặt dưới chân các Tông đồ”(câu 37). Cử chỉ tuyệt vời này gợi ý rằng, để được hồi sinh trong sự hiệp thông và sứ vụ, chúng ta cũng cần phải có can đảm từ bỏ tất cả những gì thuộc về thế gian, dù quý giá, để có được sự hiệp nhất trọn vẹn. Chắc chắn tôi không đề cập đến những gì là thánh thiêng và giúp chúng ta gặp gỡ Chúa, nhưng nói về nguy cơ tuyệt đối hóa một số phong tục và thói quen, những điều không cần thiết để sống đức tin. Chúng ta đừng để mình bị tê liệt vì sợ hãi trước sự cởi mở hoặc cử chỉ táo bạo, đừng thoả mãn với sự “không dung hoà những khác biệt” vốn không phù hợp với Tin Mừng!
Đặt tất cả tài sản dưới chân các Tông đồ, Banaba đi vào con tim các Tông đồ. Chúng ta cũng được Chúa mời gọi tái khám phá chúng ta là chi thể của cùng một Thân thể, để hạ mình xuống dưới chân anh em. Chắc chắn, trong tương quan của chúng ta, lịch sử đã mở ra những vết nứt lớn giữa chúng ta, nhưng Chúa Thánh Thần mong muốn rằng với sự khiêm nhường và tôn trọng, chúng ta một lần nữa đến gần nhau hơn. Thánh Thần mời gọi chúng ta đừng cam chịu những chia rẽ trong quá khứ và hãy cùng nhau vun trồng cánh đồng Nước trời với sự kiên nhẫn, siêng năng và cụ thể. Vì nếu chúng ta gạt bỏ những lý thuyết trừu tượng sang một bên và cùng làm việc, như trong các công việc bác ái, giáo dục và thăng tiến phẩm giá con người, chúng ta sẽ tái khám phá tình huynh đệ, và sự hiệp thông sẽ tự trưởng thành trước sự ngợi khen Thiên Chúa. Mỗi chúng ta sẽ duy trì phong cách riêng, nhưng theo thời gian, những việc làm chung sẽ gia tăng sự hòa hợp và sinh hoa trái. Như những vùng đất Địa Trung Hải xinh đẹp này được tô điểm bởi sức lao động kiên nhẫn và tôn trọng của con người, thì với sự trợ giúp của Chúa và sự kiên trì khiêm tốn, chúng ta cũng có thể vun trồng sự hiệp thông tông đồ của chúng ta!
Một kết quả tốt, chẳng hạn, là tất cả những gì đã diễn ra ở đây ở Sýp tại Nhà thờ “Đức Mẹ Thành Vàng”. Đền thánh dâng kính Panaghia Chrysopolitissa, ngày nay là nơi thờ phượng của các tín hữu thuộc nhiều hệ phái Kitô khác nhau, được nhiều người yêu mến và thường xuyên chọn là nơi cử hành lễ cưới. Như vậy, đó là dấu chỉ của sự hiệp thông đức tin và sự sống dưới cái nhìn của Mẹ Thiên Chúa, Đấng quy tụ con cái lại với nhau. Hơn nữa, bên trong khu phức hợp vẫn còn giữ cây cột mà, theo truyền thống, Thánh Phaolô đã chịu 39 roi vì đã tuyên xưng đức tin ở Paphô. Sứ vụ, cũng như sự hiệp thông, luôn luôn phải trải qua những hy sinh và thử thách.
Khía cạnh thứ ba nơi con người thánh Banaba: Thử thách. Khía cạnh này đã gắn liền với công cuộc loan báo Tin Mừng ban đầu ở vùng đất này. Khi trở về Sýp cùng với Phaolô và Máccô, Banaba thấy Êlyma, “một người phù thuỷ và mạo xưng là ngôn sứ” (Cv 13, 6), người đã ác ý chống lại họ, tìm cách bẻ cong những đường lối ngay thẳng của Chúa (xem c. 8,10). Ngày nay cũng vậy, không thiếu sự giả dối và lừa gạt mà quá khứ có thể đặt ra trước mắt để cản trở con đường của chúng ta. Nhiều thế kỷ chia rẽ và xa cách đã khiến chúng ta đồng hóa, ngay cả không chủ tâm, chống đối và có thành kiến với người khác, những định kiến thường dựa trên thông tin ít ỏi và xuyên tạc, và được lan truyền bởi một nền văn chương công kích và luận chiến. Tất cả những điều này làm sai lệch con đường của Thiên Chúa, vốn hướng đến sự hòa hợp và hợp nhất. Anh em quý mến, sự thánh thiện của Banaba cũng là điều hùng hồn cho chúng ta! Đã bao nhiêu lần trong lịch sử, các Kitô hữu chúng ta quan tâm đến việc chống lại người khác hơn là đón nhận con đường của Thiên Chúa một cách ngoan nguỳ, vốn giúp hàn gắn những chia rẽ nhờ đức ái! Đã bao lần chúng ta phóng đại và gieo rắc những thành kiến về người khác thay vì thực hiện lời khuyên của Chúa, điều thường được nhắc đến trong Tin Mừng Máccô, người đã đồng hành với Banaba trên hòn đảo này: trở nên nhỏ bé và phục vụ người khác (Mc 9,35; 10,43-44).
Thưa Đức Thượng phụ, hôm nay, trong cuộc đối thoại của chúng ta, tôi đã rất xúc động khi ngài nói về Giáo hội Mẹ. Giáo hội của chúng ta là một người mẹ, và một người mẹ luôn quy tụ con cái bằng sự dịu dàng. Chúng ta có niềm tin vào Giáo hội Mẹ này, Đấng quy tụ tất cả chúng ta và là Đấng với lòng kiên nhẫn, sự dịu dàng và lòng can đảm, sẽ dẫn dắt chúng ta tiến bước trên con đường của Chúa. Nhưng, để cảm nhận được tình mẫu tử của Giáo hội, tất cả chúng ta phải đến đó, nơi Giáo hội là mẹ. Tất cả chúng ta, với sự khác biệt của mình, đều là những người con của Giáo hội Mẹ. Cám ơn Đức Thượng phụ vì sự suy tư mà ngài đã thực hiện hôm nay với tôi.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta sự khôn ngoan và can đảm để đi theo đường lối của Người, chứ không phải của chúng ta. Chúng ta cầu xin qua sự chuyển cầu của các thánh. Leontios Machairas, một nhà biên niên sử thế kỷ XV, đã định nghĩa Sýp là “Đảo Thánh” vì có rất nhiều vị tử đạo và chân phước đã được biết đến ở những vùng đất này qua nhiều thế kỷ. Ngoài những vị được biết đến và tôn kính, như Banaba, Phaolô và Máccô, Epiphanius, và Spyridon, còn có rất nhiều người khác: vô số các thánh hợp nhất trong một Giáo hội trên trời, thúc giục chúng ta cùng nhau chèo thuyền về bến, nơi tất cả chúng ta đều khao khát. Từ trên cao, các thánh mời gọi chúng ta làm cho Sýp, vốn đã là một cầu nối giữa Đông và Tây, trở thành một cầu nối giữa trời và đất. Như thế, vì vinh quang Thiên Chúa Ba Ngôi Rất Thánh, vì thiện ích chúng ta và của tất cả mọi người.”
Ngọc Yến