2021
Diễn văn của ĐTC trước những người tị nạn ở Mytilene
Diễn văn của ĐTC trước những người tị nạn ở Mytilene
Lúc 08:30 sáng Chúa Nhật 5/12, ĐTC rời Toà Sứ thần, đi đến sân bay Athens cách đó 23km để bay đến sân bay Mytilene trên đảo Lesbos và thăm những người tị nạn ở “Trung tâm Tiếp nhận và Định danh”. Có khoảng 200 người tham dự cuộc gặp gỡ với Đức Thánh Cha.
Diễn văn của Đức Thánh Cha khi đến thăm những người tị nạn
tại “Trung tâm Tiếp nhận và Định danh” ở Mytilene
05/12/2021
Anh chị em thân mến,
Cảm ơn về những lời của anh chị em. Tôi cảm ơn Bà Tổng thống, vì sự hiện diện và những lời của bà. Thưa anh chị em, tôi lại đến đây để gặp anh chị em. Tôi ở đây để nói với anh chị em rằng tôi gần gũi anh chị em. Tôi nói điều này bằng cả trái tim. Tôi ở đây để nhìn thấy khuôn mặt của anh chị em, để nhìn vào mắt anh chị em, đôi mắt đầy sợ hãi và mong đợi, đôi mắt đã nhìn thấy bạo lực và nghèo đói, đôi mắt nhíu lại vì quá nhiều nước mắt. Đức Thượng Phụ Đại Kết và người anh em Bartholomeo, cách đây 5 năm tại hòn đảo này, đã nói một điều khiến tôi bị đánh động: “Những người sợ anh chị em đã không nhìn thẳng vào mắt của anh chị em. Những người sợ anh chị em đã không nhìn vào khuôn mặt của anh chị em. Những người sợ anh chị em đã không nhìn thấy con cái của anh chị em. Quên rằng phẩm giá và tự do vượt cao hơn nỗi sợ hãi và chia rẽ. Quên rằng di cư không phải là vấn đề của Trung Đông và Bắc Phi, của châu Âu và Hy Lạp, nhưng là một vấn đề của thế giới ”( Diễn văn, ngày 16 tháng 4 năm 2016).
Vâng, đó là một vấn đề của thế giới, một cuộc khủng hoảng nhân đạo ảnh hưởng đến tất cả mọi người. Đại dịch đã ảnh hưởng đến chúng ta ở cấp độ toàn cầu, nó khiến tất cả chúng ta thấy mình đang ở trên cùng một con thuyền, nó khiến chúng ta học được thế nào là có cùng nỗi sợ hãi. Chúng ta hiểu rằng các vấn đề lớn phải được giải quyết cùng nhau, bởi vì trong thế giới ngày nay, các giải pháp rời rạc là không phù hợp. Nhưng trong khi chúng ta hết mình tiêm chủng toàn cầu, dẫu cho có những chậm trễ và do dự, hoặc có những bước tiến trong việc chống biến đổi khí hậu, nhưng điều này dường như gặp một sự lẩn tránh khủng khiếp đối với vấn đề di cư. Tuy nhiên, có nhiều người mà cuộc sống họ đang bị đe dọa! Tương lai của tất cả mọi người đang bị đe dọa, và chỉ sẽ bình yên nếu được hội nhập. Chỉ khi được hòa giải với những người yếu nhất thì tương lai đó mới thịnh vượng. Bởi vì khi người nghèo bị từ chối, thì hòa bình cũng bị từ chối.
Lịch sử dạy chúng ta rằng sự đóng lại và chủ nghĩa quốc gia sẽ dẫn đến những hậu quả tai hại. Thật vậy, như Công đồng Vatican II đã nhắc lại, “ý chí cương quyết muốn tôn trọng người khác, những dân tộc khác cũng như phẩm giá của họ và sự ân cần thực thi tình huynh đệ là những điều kiện thiết yếu để xây dựng hòa bình.” (Gaudium et spes, 78). Thật là ảo tưởng khi nghĩ rằng làm như vậy là đủ để mình được an toàn, bảo vệ bản thân khỏi những kẻ yếu nhất đến gõ cửa chúng ta. Trong tương lai, chúng ta còn tiếp xúc với nhau nhiều hơn. Để làm tương lai trở nên tốt đẹp, điều chúng ta cần không phải là những hành động đơn phương, nhưng là những chính sách mở rộng. Tôi nhắc lại, lịch sử đã dạy điều đó, nhưng chúng ta chưa học được. Đừng quay lưng lại với thực tế, đừng mãi thoái thác trách nhiệm, đừng luôn đẩy vấn đề di cư cho người khác, như thể chẳng ai liên can và đó chỉ là một gánh nặng vô ích mà ai đó buộc phải gánh vác!
Những chị em, anh em, những khuôn mặt và ánh mắt của anh chị em yêu cầu chúng ta không quay lưng lại, không phủ nhận nhân tính chung của chúng ta, biến câu chuyện của anh chị em thành của chúng ta và đừng quên những thảm kịch của anh chị em. Elie Wiesel, nhân chứng của thảm kịch lớn nhất thế kỷ qua, đã viết: “Chính vì tôi nhớ về sự khởi đầu chung của chúng ta mà tôi xích lại gần hơn với đồng loại của mình. Đó là bởi vì tôi không quên rằng tương lai của họ cũng quan trọng như tương lai của tôi.” (From the Kingdom of Memory, Reminiscences, New York, 1990, 10). Vào Chúa Nhật này, tôi cầu xin Chúa đánh thức chúng ta khỏi sự khước từ của chúng ta đối với những người đau khổ, đánh thức chúng ta khỏi chủ nghĩa cá nhân vốn loại trừ người khác, đánh thức những trái tim bị điếc của chúng ta trước nhu cầu của người khác. Và tôi cũng kêu gọi mọi người: chúng ta hãy vượt qua sự tê liệt của nỗi sợ hãi, sự thờ ơ giết chết, sự thờ ơ yếm thế kết án tử những người bên lề bằng đôi găng tay nhung lụa! Chúng ta hãy phản đối tận gốc tư tưởng thống trị, tư tưởng xoay quanh cái tôi, cái tôi cá nhân và quốc gia ích kỷ, vốn trở thành thước đo và tiêu chí của mọi thứ.
Năm năm đã trôi qua kể từ chuyến thăm được thực hiện tại đây với những người anh em thân yêu Bartolomeo và Jeronymos. Sau tất cả thời gian này, chúng ta vẫn thấy rằng vấn đề di cư chẳng mấy thay đổi. Tất nhiên, nhiều người đã dấn thân chào đón và hội nhập, và tôi muốn cảm ơn nhiều tình nguyện viên và những người ở mọi cấp – tổ chức, xã hội, từ thiện – đã thực hiện những nỗ lực to lớn, chăm sóc người dân và vấn đề di cư. Tôi ghi nhận sự dấn thân hỗ trợ và xây dựng các cơ sở tiếp nhận xứng đáng và tôi chân thành cảm ơn người dân địa phương vì những điều tốt đẹp mà họ đã làm và nhiều hy sinh mà họ đã cố gắng. Và tôi cũng muốn cảm ơn chính quyền địa phương đã dấn thân trong việc đón nhận, trong việc bảo vệ và thăng tiến những người đến đây. Xin cảm ơn vì đã làm điều đó. Nhưng chúng ta phải cay đắng thừa nhận rằng đất nước này, cũng như những nước khác, vẫn đang chịu nhiều áp lực, và ở châu Âu có những người vẫn cương quyết coi vấn đề này như một việc mà họ không quan tâm. Đây là một thảm kịch. Tôi nhớ những lời cuối của Bà Tổng thống rằng: “Châu Âu hành động như vậy”. Và bao nhiêu điều kiện không xứng đáng với con người! Có bao nhiêu điểm nóng nơi người di cư và người tị nạn sống trong điều kiện hạn chế, mà không có giải pháp nào phía trước! Tuy nhiên, sự tôn trọng đối với các cá nhân và quyền con người, điều không ngừng được cổ võ trên toàn cầu, đặc biệt ở lục địa này, cần phải luôn được bảo vệ, và phẩm giá của mỗi người phải được đặt lên hàng đầu. Thật đáng buồn khi nghe đề xuất như một giải pháp rằng nguồn quỹ chung được sử dụng để xây tường, để dựng hàng rào thép gai. Chúng ta đang sống trong thời đại của những bức tường và thép gai. Tất nhiên, chúng ta hiểu những nỗi sợ hãi và bất an, khó khăn và nguy hiểm. Người ta cảm thấy mệt mỏi và thất vọng, càng trở nên trầm trọng hơn bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế và đại dịch, nhưng không phải bằng cách dựng lên các hàng rào thì các vấn đề được giải quyết và sự chung sống được cải thiện. Thay vào đó, cần chung sức để chăm sóc người khác theo khả năng thực tế của mỗi người và tuân theo luật pháp, luôn đặt giá trị không thể chuyển nhượng của sự sống của mỗi người nam, người nữ, của mỗi người lên hàng đầu. Elie Wiesel còn nói: “Khi tính mạng con người bị đe dọa, khi phẩm giá con người gặp nguy hiểm, thì biên giới quốc gia trở thành vô nghĩa” (Diễn văn nhận giải Nobel Hòa bình, ngày 10 tháng 12 năm 1986).
Trong nhiều xã hội khác nhau, có những đối kháng về ý thức hệ giữa an ninh và liên đới, địa phương và phổ quát, truyền thống và cởi mở. Thay vì tranh cãi về các ý tưởng, thì sẽ hữu ích hơn nếu bắt đầu với thực tế: hãy dừng lại, mở rộng tầm nhìn của chúng ta, dìm mình vào các vấn đề của đa số nhân loại, của nhiều nhóm nạn nhân của các trường hợp khẩn cấp nhân đạo mà chính họ không tạo ra nhưng lại phải gánh chịu, sau những chương dài lịch sử khai thác và hiện vẫn đang diễn ra. Người ta dễ dàng lôi kéo dư luận bằng cách khơi dậy nỗi sợ hãi về người khác. Nhưng tại sao chúng ta không nói, với cùng một thái độ, về sự bóc lột người nghèo, về những cuộc chiến bị lãng quên và thường được tài trợ mạnh tay, về những thỏa thuận kinh tế được thực hiện trên xương máu của người dân, về những thủ đoạn ẩn giấu để buôn bán vũ khí và phát triển thương mại vũ khí? Tại sao người ta không nói về điều này? Cần đối diện với những nguyên nhân sâu xa, chứ không phải bắt dân nghèo gánh chịu hậu quả, thậm chí bị lợi dụng để tuyên truyền chính trị! Để loại bỏ các nguyên nhân gốc rễ, không thể chỉ dừng lại ở các trường hợp khẩn cấp. Những hành động phối hợp là cần thiết. Những thay đổi mang tính biểu tượng cần được tiếp cận với tầm nhìn xa. Bởi vì không có câu trả lời dễ dàng cho các vấn đề phức tạp. Thay vào đó, cần phải đồng hành với các tiến trình từ bên trong, để vượt qua sự cô lập và khuyến khích hội nhập dần dần và thiết yếu, để chào đón các nền văn hóa và truyền thống của những người khác một cách huynh đệ và có trách nhiệm.
Trên tất cả, nếu chúng ta muốn bắt đầu lại, chúng ta hãy nhìn vào khuôn mặt của những đứa trẻ. Chúng ta tìm thấy can đảm để xấu hổ trước chúng, những người vô tội và là tương lai. Họ đặt câu hỏi về lương tâm của chúng ta và hỏi chúng ta: “Loại thế giới quý vị để lại cho chúng tôi?” Chúng ta đừng lạnh lùng lảng tránh những hình ảnh sống sượng của những tấm thân bé nhỏ nằm bất động trên các bãi biển. Địa Trung Hải, nơi hàng thiên niên kỷ đã gắn kết các dân tộc khác nhau và những vùng đất xa xôi, đang trở thành một nghĩa trang lạnh lẽo không bia mộ. Hồ nước rộng lớn này, cái nôi của nhiều nền văn minh, giờ đây trông giống như một tấm gương chết chóc. Chúng ta đừng để biển của chúng ta (mare nostrum) biến thành biển của sự chết (mare mortuum) hoang tàn, đừng để nơi gặp gỡ này trở thành sân khấu của sự đối đầu! Đừng để “biển của ký ức” này biến thành “biển của sự lãng quên”. Tôi kêu gọi hãy ngăn chặn sự nhấn chìm của nền văn minh này!
Trên các bờ biển này, Thiên Chúa đã trở thành người. Nơi đây, Lời của Người được vang vọng, loan báo rằng Thiên Chúa là “Cha và là Đấng hướng dẫn tất cả mọi người” (St. GREGORY OF NAZIANZO, Discorso 7 per il fratello Cesario, 24). Người yêu chúng ta như những người con và muốn chúng ta là anh em của nhau. Ngược lại, Thiên Chúa bị xúc phạm khi con người vốn được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa bị xem thường, khi con người bị phó mặc cho sóng biển, trong sự phủi tay thờ ơ, đôi khi ngay cả được biện minh nhân danh điều được cho là các giá trị Kitô giáo. Trái lại, đức tin đòi hỏi lòng trắc ẩn và lòng thương xót. Nó thúc đẩy lòng hiếu khách, là tình yêu đối với người xa lạ (philoxenia) đã thấm nhuần văn hóa cổ điển, và được biểu lộ rõ ràng nơi Chúa Giêsu, đặc biệt trong dụ ngôn Người Samari nhân hậu (xem Lc 10,29-37) và trong những lời của chương 25 Tin Mừng theo thánh Matthêu (x. cc. 31-46). Đây không phải là một ý thức hệ tôn giáo, nhưng là cội rễ Kitô giáo cách cụ thể. Chúa Giêsu đã long trọng khẳng định rằng Người hiện diện ở đó, nơi người lạ, người tị nạn, người mình trần và đói khát. Và đường lối Kitô giáo được tìm thấy nơi Chúa Giêsu. Vâng, như Đức Giáo Hoàng Biển Đức đã viết: đường lối Kitô giáo “là một con tim biết nhìn”. (Thông điệp Thiên Chúa là Tình yêu, 31). Tôi không muốn kết thúc sứ điệp này mà không cảm ơn người dân Hy Lạp về sự chào đón. Nhiều khi việc chào đón này trở thành một vấn đề, bởi vì không thể tìm ra lối thoát cho người ta để đi tiếp. Cảm ơn anh chị em Hy Lạp về sự quảng đại này.
Bây giờ chúng ta hãy cầu xin Đức Mẹ mở mắt cho chúng ta trước những đau khổ của anh chị em mình. Mẹ đã vội vã lên đường đến với người chị họ Elizabeth đang mang thai. Biết bao người mẹ mang thai đã chết khi đang hành trình vội vã ngay cả khi đang mang trong mình sự sống! Xin Mẹ Thiên Chúa giúp chúng ta có một cái nhìn mẫu tử, biết nhìn thấy người khác là những người con của Thiên Chúa, là anh chị em để được chào đón, bảo vệ, thăng tiến và hội nhập; và để được yêu một cách dịu dàng. Xin Mẹ Rất Thánh dạy chúng ta đặt thực tế của con người lên trước những ý tưởng và ý thức hệ, và có những bước tiến vội vã để gặp gỡ những người đau khổ.
Giờ đây tất cả chúng ta cùng cầu nguyện với Đức Mẹ.
ĐỌC KINH TRUYỀN TIN
2021
Tổng Giáo phận Hà Nội khai mạc công nghị kỷ niệm 110 năm Công đồng Kẻ Sở
Tổng Giáo phận Hà Nội khai mạc công nghị kỷ niệm 110 năm Công đồng Kẻ Sở
Tại nhà thờ Chánh tòa Hà Nội, sáng ngày 24.11.2021, Ðức Tổng Giám mục Giuse Vũ Văn Thiên đã chủ sự thánh lễ khai mạc triệu tập công nghị Tổng Giáo phận Hà Nội. Ðồng tế có Ðức Hồng y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, nguyên Tổng Giám mục Hà Nội, Ðức cha Lôrensô Chu Văn Minh, nguyên Giám mục Phụ tá Tổng giáo phận.
Về ý nghĩa của công nghị, Ðức Tổng Giuse cho biết nếu cách đây 110 năm, Công đồng Kẻ Sở cho thấy đoàn kết làm nên sức mạnh và những thành quả tích cực cho hoạt động tông đồ, thì Công nghị giáo phận sẽ là một dấu son trong lịch sử Tổng Giáo phận, sự tiếp nối truyền thống đáng tự hào của các bậc tiền bối, mở ra một tương lai đầy hứa hẹn cho Tổng Giáo phận.
Ngược dòng lịch sử, năm 1912, “Công đồng miền Bắc Kì lần thứ hai” được diễn ra tại khu vực nhà thờ Chánh tòa Kẻ Sở, từ ngày 10 đến 24.11, dưới quyền triệu tập và chủ tọa của Ðức Giám mục niên trưởng Phêrô Gendreau Ðông, đại diện Tông tòa giáo phận Tây Ðàng Ngoài (Hà Nội). “Công đồng miền Bắc Kì” quy tụ các Giám mục đang phụ trách các giáo phận khu vực Ðàng Ngoài, từ Sông Gianh trở ra, hiện nay là giáo tỉnh Hà Nội, khi đó thuộc Hội Thừa Sai Paris và Dòng Ða Minh. Mục đích để thống nhất hoạt động mục vụ các giáo phận trong cùng một khu vực, theo hướng dẫn của thánh bộ Truyền giáo ngày 23.6.1879. Công đồng Kẻ Sở có bảy nghị phụ chính thức, đại diện cho bảy giáo phận. Nội dung chính của Công đồng Kẻ Sở có bốn phần bao gồm những quy định trách nhiệm và nghĩa vụ của “các đấng bậc”: từ giám mục, thừa sai, linh mục bản quốc, thầy giảng đến tổ chức nhà Ðức Chúa Trời, nhà tràng (Chủng viện), và các dòng nam nữ; Quy định về tài sản Hội thánh, việc quản trị, tiêu dùng và sổ sách; Quy định về việc cử hành và lãnh nhận các Bí tích Rửa tội, Thêm Sức, Thánh Thể, Giải tội, Xức dầu, Truyền chức và Hôn phối; Nhắc nhở các linh mục bổn phận phải chăm lo cho các tín hữu sống đạo: siêng năng dự lễ, kiêng việc xác, ăn chay kiêng thịt, chăm sóc anh chị em tân tòng và nhắc nhở tín hữu xa tránh những điều mê tín dị đoan. Khuyến khích các linh mục mở trường học, nhà tiểu nhi và nhà thương…
Chia sẻ trong thánh lễ khai mạc, Ðức Tổng Giám mục Giuse cho biết Công đồng Kẻ Sở có ý nghĩa quan trọng đối với lịch sử giáo hội Việt Nam nói chung và tại miền bắc nói riêng, các bề trên đã tìm cho mình hướng đi mới để sống hội nhập và“Công nghị của TGP Hà Nội lần này được diễn ra nhằm nhìn lại quá khứ với tâm tình tạ ơn Thiên Chúa, tri ân các bậc tiền nhân về những hồng ân trọng đại đã nhận được từ xưa đến nay. Phân định những thách đố hiện tại với lăng kính đức tin. Canh tân cơ cấu tổ chức hành chính và những thực hành đức tin cho phù hợp với tâm thức của người tín hữu trong thời hiện đại. Ðưa ra những định hướng mục vụ phù hợp giúp Dân Chúa sống đức tin trong bối cảnh xã hội mới, đồng thời hướng tới tương lai, thúc đẩy những hoạt động loan báo Tin Mừng, bồi đắp nền văn minh tình thương tại quê hương Việt Nam. Chúng ta cầu xin cho công nghị đem lại nhiều hoa trái. Công nghị sẽ dàn trải suốt năm 2022 để lắng nghe tiếng nói của Dân Chúa, suy tư cầu nguyện, cùng tìm hướng đi làm sao để người tín hữu làm chứng tá cho Chúa trong bối cảnh hôm nay, như Thư Chung của HÐGMVN năm 1980”.
Công nghị Tổng Giáo phận Hà Nội tôn nhận Thánh Phêrô Trương Văn Ðường tử đạo làm bổn mạng. Ðại hội Công nghị sẽ được tiến hành trong các ngày từ 19-24.11.2022. Những buổi hội thảo về các chuyên đề mục vụ, sẽ được tổ chức trong năm 2022 tại các giáo hạt. Thánh lễ bế mạc năm Công nghị Giáo phận và tạ ơn, kỷ niệm 110 năm Công đồng Kẻ Sở được cử hành vào ngày 24.11.2022 tại Vương Cung Thánh Ðường Sở Kiện.
Anh Nguyên
2021
Giáo phận Lạng Sơn – Cao Bằng cải táng mộ phần các tiền nhân
Giáo phận Lạng Sơn – Cao Bằng cải táng mộ phần các tiền nhân
Ngày 29.11.2021, khi các linh mục giáo phận Lạng Sơn – Cao Bằng tề tựu về Tòa Giám mục tiến hành tĩnh tâm, giáo phận cũng đã cải táng mộ phần các vị giám mục, linh mục từng gắn bó, phục vụ nơi đây.
Mộ phần trước khi cải táng – ảnh: Đức cha Giuse Châu Ngọc Tri cung cấp |
Ðức cha Giuse Châu Ngọc Tri, Giám mục giáo phận chủ sự nghi thức cải táng Ðức ông Bertrand Cothoney Chiểu, O.P, Phủ doãn Tông tòa đầu tiên của giáo phận (1919 – 1925), qua đời năm 1929; Ðức cha Felix Maurice Hedde Minh, O.P, Ðại diện Tông tòa Giáo phận (1929 – 1939), qua đời năm 1960; và Ðức cha Vinhsơn Phaolô Phạm Văn Dụ, Giám mục tiên khởi giáo phận Lạng Sơn – Cao Bằng (1960 – 1998). Tối 29.11, Ðức cha Giuse Châu Ngọc Tri cùng linh mục đoàn đã dâng lễ cầu nguyện cho các vị. Sau đó, các giáo họ của giáo xứ Chánh tòa Cửa Nam, Tòa Giám mục và nhà dòng Ðaminh thay phiên canh thức kinh lễ cho các ngài suốt đêm, cho đến giờ dâng thánh lễ vào sáng 30.11, lễ thánh Anrê tông đồ.
Chia sẻ với Công giáo và Dân tộc, Ðức cha Giuse Châu Ngọc Tri, Giám mục giáo phận Lạng Sơn – Cao Bằng cho biết trong hơn một năm qua, giáo phận đã cải tạo chỉnh trang sân vườn nhà thờ Chánh tòa và chuẩn bị nơi chốn xứng hợp, để tiến hành cải táng 3 vị chủ chăn của giáo phận được an táng trước sân Tòa Giám mục: “Lịch sử 110 năm của giáo phận Lạng Sơn – Cao Bằng như hội tụ lại trong dịp này, khi ba chủ chăn sống chết trong ba thời kỳ khác nhau của giáo phận cùng về ở bên nhau giữa đoàn con cái”. Ðức cha Giuse cũng thông tin thêm, trong khi cải táng các phần mộ, giáo dân được nhìn thấy điều khá đặc biệt là thi hài Ðức Giám mục tiên khởi giáo phận Lạng Sơn – Cao Bằng Vinhsơn Phaolô Phạm Văn Dụ sau 23 năm nghỉ yên trong lòng đất mẹ dường như vẫn nguyên vẹn. “Phần mộ của Ðức cha Vinhsơn Phaolô được xây rất kiên cố, nên mãi đến 17g, với sự tiếp sức của xe cơ giới, mới chạm đến nắp quan tài. Mọi người đang tập trung đông đảo như nín thở và cất tiếng hát tạ ơn. Khi nắp quan tài bằng gỗ được bật ra để lộ nắp trong bằng chất liệu nhựa trong suốt, mọi người ngỡ ngàng đến kinh ngạc khi nhìn thấy thi hài của ngài như còn nguyên vẹn, áo lễ trắng, mũ gậy giám mục, đặc biệt là gương mặt như còn hồng hào, với hàng chân mày đen nhánh rõ nét và mi mắt như chưa nhắm chặt. Bật luôn nắp nhựa ra, thi thể ngài cứng như đông đá, vải vóc giày vớ vẫn còn khá lành lặn, ít đổi màu và không mục nát. 15 phút sau, da mặt đổi màu, trở nên tím tái, mí mắt khép lại. Dù chưa hết bàng hoàng và cảm xúc, chúng tôi cũng phải mau mắn bàn bạc quyết định đưa nguyên thi hài ngài lên mặt đất, đặt lên giường, làm vệ sinh nhẹ, phủ cho ngài một tấm áo lễ mới, đổi áo quan mới, làm nghi thức tẩn liệm cho ngài một lần nữa và đưa ngài vào hội trường trước nhà nguyện Thánh Thể cùng với hai chủ chăn đã yên vị trước”, Ðức cha Giuse kể lại.
Ðức Giám mục Vinhsơn Phaolô Phạm Văn Dụ sinh năm 1922 trong một gia đình Công giáo đạo hạnh ở Ninh Bình. Các anh em ngài đều có chí hướng tu tập. Sau nhiều năm tu học, cha được truyền chức linh mục năm 1948, là linh mục của Hạt Ðại diện Tông tòa Lạng Sơn và Cao Bằng. Năm 1958, Ðức cha Jacq Mỹ, Giám mục Phó Ðại diện Tông tòa Lạng Sơn và Cao Bằng rời Việt Nam sang Lào truyền giáo, Ðức Giám mục Ðại diện Tông Tòa Hedde Minh cũng qua đời sau đó vào tháng 5.1960. Trong thời gian này, cha Vinhsơn Phaolô Phạm Văn Dụ đảm nhiệm vai trò Tổng quản Ðịa phận, linh mục chánh xứ Thất Khê. Tòa Thánh loan tin tuyển chọn ngài làm Giám mục giám quản Hạt Ðại diện Tông tòa Lạng Sơn và Cao Bằng vào tháng 3.1960. Ngày 24.11.1960, Hạt Ðại diện Tông tòa Lạng Sơn – Cao Bằng được Tòa Thánh nâng lên giáo phận chánh tòa Lạng Sơn – Cao Bằng, thuộc giáo tỉnh Hà Nội. Ðức cha Vinhsơn Phaolô Phạm Văn Dụ trở thành Giám mục tiên khởi giáo phận này. Ngày 9.3.1998, Ðức cha được Tòa Thánh chấp thuận đơn từ nhiệm vai trò Giám mục Chánh tòa giáo phận Lạng Sơn – Cao Bằng. Ngài qua đời sau đó không lâu, vào ngày 2.9.1998.
2021
Phái đoàn Tòa Thánh dự lễ kính thánh quan thầy của Giáo hội Chính thống giáo
Phái đoàn Tòa Thánh dự lễ kính thánh quan thầy của Giáo hội Chính thống giáo
Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Thúc đẩy hiệp nhất Kitô giáo, Đức Hồng y Kurt Koch đã dẫn đầu phái đoàn Tòa Thánh đến Istanbul, Thổ Nhỹ Kỳ dự lễ kính thánh Anrê tông đồ, vị thánh quan thầy của Giáo hội Chính thống giáo Constantinople.
Cùng tham dự có các Đức cha Brian Farrell và Andrea Palmieri, Tổng thư ký và Phó tổng thư ký Hội đồng Giáo hoàng về Thúc đẩy hiệp nhất Kitô giáo, và Đức ông Walter Erbi, phụ trách ngoại vụ tại Tòa Sứ thần ở Thổ Nhỹ Kỳ.
Đức Thượng phụ Bartholomew chủ sự cử hành phụng vụ tại nhà thờ Thánh George ở Phanar. Đức Hồng y Koch đã chuyển sứ điệp của Đức Thánh Cha đến Đức Thượng phụ Bartholomew.
Trong sứ điệp, Đức Thánh Cha bày tỏ sự gần gũi với Đức Thượng phụ nhân lễ kính thánh tông đồ Anrê. Ngài nhấn mạnh tình huynh đệ về đức tin và bác ái đã có từ lâu đời giữa Giáo hội Công giáo và Giáo hội Chính thống giáo. Đức Thánh Cha gởi những lời chúc tốt lành cho niềm vui và hòa bình đến các giáo sĩ, tu sĩ và tín hữu tham dự lễ.
Đức Hồng y Kurt Koch |