2021
Diễn văn của Đức Thánh Cha Phanxicô trong buổi gặp gỡ người trẻ
Diễn văn của Đức Thánh Cha Phanxicô trong buổi gặp gỡ người trẻ
Ngỏ lời với các bạn trẻ trong cuộc gặp gỡ tại trường Công giáo thánh Dionigi ở Athens vào sáng ngày 6/12/2021, Đức Thánh Cha kêu gọi họ hãy để cho mình được kinh ngạc trước tình yêu của Thiên Chúa, có những cuộc gặp gỡ thực sự với người khác và hãy ước mơ điều lớn lao. Ngài cũng nhắn nhủ họ “hãy biết mình”, nhận ra giá trị ở điều mình là chứ không phải ở những thứ mình có.
Diễn văn của Đức Thánh Cha Phanxicô
Gặp gỡ Giới trẻ tại trường thánh Dionigi của các nữ tu dòng Orsolines
Thứ Hai 6/12/2021
Anh chị em thân mến, kaliméra sas! (chào anh chị em!)
Cha cám ơn các bạn đã đến đây, nhiều người trong các bạn đến từ những nơi xa xôi: efcharistó! (Xin cám ơn!) Cha vui mừng gặp các bạn vào cao điểm của chuyến thăm Hy Lạp. Và cha dùng cơ hội này để lặp lại lòng biết ơn của cha về sự chào đón và tất cả công việc đã được thực hiện để tổ chức cuộc tiếp đón: efcharistó!
Các chứng từ của các bạn đã làm cha rất xúc động. Cha đã đọc chúng và giờ đây cha muốn cùng các bạn suy tư một vài điểm.
Katerina, con đã nói với chúng tôi về những nghi ngờ của con về đức tin. Cha muốn nói với con và với tất cả mọi người ở đây: đừng sợ những nghi ngờ, vì chúng không phải là một dấu hiệu của sự thiếu đức tin. Ngược lại, nghi ngờ là “vitamin của đức tin”: chúng giúp củng cố đức tin và làm cho nó mạnh mẽ hơn, nghĩa là giúp đức tin nhận thức rõ ràng hơn, tự do hơn, trưởng thành hơn. Chúng giúp đức tin sẵn sàng hơn để lên đường, kiên trì với sự khiêm tốn, ngày này qua ngày khác. Và đức tin chính là điều này: một cuộc hành trình hàng ngày với Chúa Giêsu, Đấng nắm tay chúng ta, đồng hành với chúng ta, động viên chúng ta và khi chúng ta gục ngã, Người nâng chúng ta dậy. Nó giống như một câu chuyện tình yêu, nơi chúng ta luôn đi bên nhau, ngày qua ngày. Và cũng như trong một câu chuyện tình yêu, có những khoảnh khắc chúng ta cần phải suy nghĩ, tự vấn bản thân. Và thật tốt, bởi vì nó nâng tầm mối quan hệ! Và điều này rất quan trọng đối với các bạn, bởi vì các bạn không thể đi trên con đường của đức tin mù quáng. Hãy trò chuyện với Chúa, bằng lương tâm của mình; hãy trò chuyện với người khác.
Cha muốn nhấn mạnh một điểm quan trọng trong kinh nghiệm của Katerina. Đôi khi, trước những hiểu lầm hay những khó khăn trong cuộc sống, những lúc cô đơn hay hụt hẫng, sự nghi ngờ này có thể gõ cửa trái tim: “Có lẽ chính tôi đang làm không tốt… có lẽ tôi sai rồi, tôi sai lầm …”. Hỡi các bạn, đây là một cám dỗ! Ma quỷ gieo mối nghi ngờ này trong lòng chúng ta để khiến chúng ta u buồn thất vọng. Chúng ta cần làm gì? Phải làm gì khi sự nghi ngờ đó trở nên ngột ngạt và không để chúng ta yên, khi chúng ta mất niềm tin và không biết bắt đầu từ đâu? Chúng ta cần tìm ra điểm bắt đầu. Điểm khởi đầu đó là gì? Để hiểu điều này, chúng ta hãy cùng lắng nghe từ nền văn hóa cổ điển tuyệt vời của các bạn. Các bạn có biết điểm xuất phát của triết học, của cả nghệ thuật, văn hóa, khoa học là gì không? Tất cả bắt đầu bằng một tia sáng, một khám phá, lấy từ một từ ngữ tuyệt vời: thaumàzein. Nó bắt đầu với sự ngạc nhiên, sự kinh ngạc. Triết học bắt đầu như thế: từ sự ngạc nhiên trước sự vật, sự hiện hữu của chúng ta, sự hài hòa của tạo vật, mầu nhiệm của cuộc sống.
Nhưng sự ngạc nhiên không chỉ là sự khởi đầu của triết học, nó còn là khởi đầu đức tin của chúng ta. Đúng, bởi vì đức tin trên hết không phải là một danh sách những điều phải tin và các giới luật phải tuân giữ. Theo nghĩa sâu xa nhất, đức tin không phải là một ý tưởng hay một hệ thống đạo đức, mà là một thực tế, một thực tại tuyệt đẹp không phụ thuộc vào chúng ta và nó khiến chúng ta ngạc nhiên: chúng ta là những người con yêu dấu của Thiên Chúa! Chúng ta là con yêu dấu bởi vì chúng ta có một người Cha luôn dõi theo chúng ta và không ngừng yêu thương chúng ta. Hãy suy nghĩ về điều đó: bất cứ điều gì bạn nghĩ hoặc làm, ngay cả những điều tồi tệ nhất, Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương bạn. Luôn luôn và bất luận thế nào. Người nhìn vào cuộc sống của bạn và thấy nó rất tốt (xem St 1,31). Người không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Nếu chúng ta đứng trước gương, có thể chúng ta không thấy mình như mình muốn, vì chúng ta quá chú trọng vào những điều chúng ta không thích. Nhưng nếu chúng ta đặt mình trước Chúa, viễn cảnh sẽ thay đổi. Chúng ta không thể làm gì hơn là ngạc nhiên vì, bất chấp tất cả những tội lỗi và sai lỗi của chúng ta, đối với Người, chúng ta là và luôn là những đứa con yêu dấu của Người. Vì vậy, thay vì bắt đầu một ngày bằng việc nhìn vào tấm gương, tại sao không mở cửa sổ phòng và nhìn xem tất cả vẻ đẹp bạn nhìn thấy xung quanh mình? Các bạn trẻ thân mến, các bạn hãy suy nghĩ điều này: nếu thiên nhiên xinh đẹp đối với chúng ta, thì trong mắt Chúa, mỗi người trong các bạn vô cùng xinh đẹp hơn! Theo lời Kinh Thánh, Thiên Chúa “đã làm nên những điều kỳ diệu cho chúng ta” (x. Tv 139,14). Hãy để mình được tràn ngập sự kinh ngạc này. Hãy để bản thân được yêu thương bởi Đấng luôn tin tưởng các bạn, bởi Đấng yêu thương các bạn hơn cả những gì bạn có thể yêu chính bản thân mình.
Và khi bạn thất vọng vì những gì mình đã làm, các bạn nên cảm thấy một sự kinh ngạc khác: sự ngạc nhiên về ơn tha thứ. Về điều này, cha muốn nói rõ: Thiên Chúa luôn luôn tha thứ. Chúng ta mệt mỏi xin ơn tha thứ nhưng Thiên Chúa tha thứ luôn luôn. Ở đó, nơi sự tha thứ, chúng ta tìm thấy khuôn mặt yêu thương của Chúa Cha và sự bình an của trái tim. Ở đó, Người làm cho chúng ta mới lại và đổ tràn tình yêu của Người trong vòng tay nâng chúng ta lên, hóa giải điều ác chúng ta đã phạm và phục hồi vẻ đẹp không thể xoá bỏ trong tâm hồn chúng ta, vẻ đẹp của con yêu dấu của Thiên Chúa, và làm cho nó chiếu sáng. Chúng ta đừng để sự lười biếng, sợ hãi hay xấu hổ cướp đi kho tàng của sự tha thứ. Chớ gì chúng ta được kinh ngạc bởi tình yêu của Thiên Chúa! Chúng ta sẽ khám phá lại chính mình; không phải những gì họ nói về chúng ta hay những thôi thúc nhất thời thúc đẩy chúng ta, hoặc các khẩu hiệu quảng cáo ném vào chúng ta, nhưng là sự thật sâu sắc nhất của chúng ta, sự thật mà Thiên Chúa nhìn thấy, điều mà Người tin tưởng: vẻ đẹp độc đáo của chúng ta.
Các bạn còn nhớ dòng chữ nổi tiếng được khắc trước đền thờ ở Delphi? “γνῶθι σαυτόν – Hãy biết mình”. Ngày nay, chúng ta có nguy cơ quên mất chúng ta là ai, bị ám ảnh bởi hàng ngàn sự việc, với những thông điệp dồn dập khiến cuộc sống phụ thuộc vào cách chúng ta ăn mặc, vào chiếc xe chúng ta lái, vào cách người khác nhìn chúng ta … Nhưng lời mời gọi cổ xưa đó, “Hãy biết mình”, vẫn còn giá trị cho đến ngày nay: hãy nhận biết rằng các bạn có giá trị bởi những gì các bạn là, không bởi những gì các bạn có. Bạn không có giá trị bởi thương hiệu của chiếc váy hay đôi giày bạn mang, nhưng bởi vì bạn là duy nhất, là độc nhất. Cha nghĩ đến một hình ảnh cổ xưa khác, đó là những nàng tiên cá. Giống như Ulysses trên đường về nhà, các bạn cũng vậy, trong cuộc sống, cuộc hành trình phiêu lưu về Nhà Cha của tất cả chúng ta, các bạn sẽ thấy như chàng thấy những nàng tiên cá. Trong thần thoại, các nàng tiên cá đã quyến rũ các thủy thủ bằng bài hát của họ để khiến họ va đập vào đá. Trên thực tế, những nàng tiên cá ngày nay muốn quyến rũ các bạn bằng những thông điệp quyến rũ và thúc đẩy, tập trung vào việc kiếm tiền dễ dàng, vào nhu cầu giả tạo của chủ nghĩa tiêu dùng, sự sùng bái thể chất, tiêu khiển bằng mọi giá… Có rất nhiều pháo hoa, tỏa sáng trong chốc lát, và rồi chúng chỉ để lại khói trong không khí. Cha hiểu các bạn, không dễ để cưỡng lại. Các bạn có nhớ Ulysses đã làm thế nào khi bị đe dọa bởi các nàng tiên cá không? Ông đã tự trói mình vào cột buồm của con tàu. Nhưng một nhân vật khác, Orpheus, dạy chúng ta một cách hay hơn: xướng lên một giai điệu hay hơn giai điệu của các nàng tiên cá và do đó khiến họ im lặng. Đây là lý do tại sao điều quan trọng là phải nuôi dưỡng điều kỳ diệu, vẻ đẹp của đức tin! Chúng ta là Kitô hữu không phải vì chúng ta bị bắt buộc, nhưng vì nó tuyệt vời. Và chính để bảo tồn vẻ đẹp này, chúng ta nói không với những gì muốn che khuất nó. Niềm vui của Tin Mừng, sự ngạc nhiên của Chúa Giêsu khiến cho những từ bỏ và khó khăn nằm ở thứ yếu. Các bạn có đồng ý không?
Gương mặt của người khác. Ioanna, cha thích cách trình bày của con, để nói với chúng tôi về cuộc sống của con, con đã nói về những người khác. Đặc biệt là con nói về hai người phụ nữ quan trọng nhất trong cuộc đời con, đó là mẹ và bà của con, những người đã “dạy con cầu nguyện, tạ ơn Chúa mỗi ngày”. Như vậy con đã lãnh nhận được đức tin một cách tự nhiên, chân thật. Con đã nói với chúng tôi một điều tốt cho chúng tôi: hãy đến cầu xin Chúa về bất cứ điều gì, “nói với Người, thú nhận với Người những lo lắng của bạn”. Và cứ thế Chúa Giêsu đã trở nên quen thuộc với con. Hạnh phúc biết bao khi chúng ta mở lòng ra với Người! Như thế, chúng ta biết Thiên Chúa. Bởi vì để biết Người, có những ý tưởng rõ ràng về Người thôi vẫn chưa đủ, còn cần phải đến với Người bằng cả cuộc đời của mình. Có lẽ đây là lý do tại sao rất nhiều người phớt lờ Chúa: bởi vì họ chỉ nghe những bài giảng và bài phát biểu. Ngược lại, Chúa Giêsu tỏ mình qua những khuôn mặt và con người cụ thể. Hãy mở sách Công vụ Tông đồ và các bạn sẽ thấy bao nhiêu người, khuôn mặt, cuộc gặp gỡ: đây là cách mà các bậc cha ông của chúng ta trong đức tin đã biết Chúa Giêsu. Thiên Chúa không đặt vào tay chúng ta một cuốn giáo lý, nhưng Người tỏ hiện qua lịch sử của những con người. Ngang qua chúng ta.
Về vấn đề này, Ioanna, con đã đề cập đến một người thứ ba rất quan trọng trong cuộc đời con: một nữ tu, người đã cho con thấy niềm vui của việc “coi cuộc sống là phục vụ”. Nó thật sự đúng: phục vụ người khác là con đường dẫn đến niềm vui đích thực! Giúp đỡ người khác không phải dành cho người thua cuộc, mà là dành cho người chiến thắng; nó là cách để mang lại một cái gì đó thực sự mới trong lịch sử. Cha được biết rằng trong tiếng Hy Lạp, cùng một từ có thể có nghĩa là “mới” và “trẻ”. Phục vụ là sự mới mẻ của Chúa Giêsu; phục vụ, cống hiến cho người khác là sự mới mẻ khiến cuộc sống luôn tươi trẻ. Các bạn có muốn làm điều gì đó mới mẻ trong cuộc sống không? Các bạn có muốn luôn trẻ trung không? Vậy đừng hài lòng với việc đăng một vài dòng post hay tweet. Đừng tìm kiếm những cuộc gặp gỡ ảo; hãy tìm kiếm những con người thực sự, đặc biệt là những người cần các bạn. Đừng tìm kiếm sự phô trương nhưng hãy tìm kiếm những người vô hình ở giữa chúng ta. Đó là điều mới mẻ, thậm chí mang tính cách mạng. Nhiều người ngày nay liên tục sử dụng mạng xã hội, nhưng bản thân họ không phải là người rất xã hội: họ bị mắc kẹt trong chính mình, trở thành tù nhân với chiếc điện thoại di động trên tay. Những gì xuất hiện trên màn hình không phải là thực tế của những người khác: đôi mắt, hơi thở và bàn tay của họ. Màn hình có thể dễ dàng trở thành một tấm gương, nơi các bạn nghĩ rằng các bạn đang nhìn ra thế giới, nhưng thực tế là các bạn đang đơn độc trước một thế giới ảo đầy dáng vẻ bên ngoài, đầy những tấm ảnh được trang điểm để trông luôn đẹp và có thể chấp nhận được. Tuy nhiên, thật đẹp biết bao khi được ở cùng với người khác, khám phá sự mới mẻ của người khác! Hãy trau dồi sự huyền nhiệm của việc cùng với nhau, niềm vui của sự chia sẻ, sự nhiệt thành phục vụ!
Trong cuộc gặp gỡ của cha với những người trẻ tuổi ở Slovakia vào tháng 9 vừa qua, một số người trong số họ đã vẫy một tấm biểu ngữ với chỉ hai từ: “Fratelli Tutti – Tất cả anh chị em”. Cha thích điều đó: thường trong các sân vận động, trong các cuộc biểu tình, trên đường phố, mọi người giơ cao các biểu ngữ để ủng hộ phe của họ, ý tưởng của họ, đội của họ, quyền của họ. Tuy nhiên, biểu ngữ đó đã nói lên một điều mới mẻ: đó là thật tuyệt vời khi mọi người là anh chị em của nhau, xem người khác là một phần của chính mình chứ không phải là những người cần giữ khoảng cách. Cha rất vui khi thấy tất cả các bạn ở đây cùng nhau, hiệp nhất, mặc dù thực tế là các bạn đến từ các quốc gia và lịch sử khác nhau! Hãy tiếp tục mơ về tình huynh đệ!
Trong tiếng Hy Lạp, có một câu nói truyền cảm hứng: o fílos ine állos eaftós, “một người bạn là một cái tôi khác”. Vâng, những người khác là con đường để khám phá bản thân của chúng ta. Đương nhiên, không dễ dàng để thoát ra khỏi vùng an toàn của bạn; sẽ dễ dàng hơn khi ngồi trên ghế dài trước TV. Nhưng điều đó dành cho người già, không phải cho người trẻ. Người trẻ phản ứng: khi bạn cảm thấy cô đơn, bạn mở lòng ra; khi bạn bị cám dỗ khép kín trong chính mình, bạn tìm kiếm những người khác. Bạn thực hành một loại “thể dục tâm linh”. Đất nước này đã sinh ra những sự kiện thể thao lớn nhất: Olympic, marathon… Ngoài những môn điền kinh tốt cho cơ thể, còn có một loại hình điền kinh tốt cho tâm hồn. Rèn luyện bản thân để cởi mở với người khác, thực hiện thêm một vài bước để rút ngắn khoảng cách của bạn với người khác, dốc lòng vượt qua các chướng ngại vật; dỡ bỏ gánh nặng cho nhau… Hình thức rèn luyện này sẽ khiến bạn hạnh phúc, giữ cho bạn trẻ trung và giúp bạn cảm thấy sự phiêu lưu của cuộc sống!
Nói về cuộc phiêu lưu, Aboud, tất cả chúng ta đều bị ấn tượng bởi câu chuyện về cuộc trốn chạy của con cùng với gia đình ra khỏi đất nước Syria thân yêu bị chiến tranh tàn phá, sau nhiều lần đối mặt với nguy cơ bị giết trong cuộc xung đột. Rồi sau bao nhiêu lời từ chối và muôn ngàn khó khăn, con đã đặt chân đến đất nước này theo cách duy nhất có thể, bằng thuyền, ở lại “trên một tảng đá không nước và không thức ăn, chờ bình minh và một con tàu bảo vệ bờ biển”. Một cuộc phiêu lưu thời hiện đại thực sự. Cha chợt nghĩ rằng, trong tác phẩm Odyssey của Homer, người anh hùng đầu tiên xuất hiện không phải là Odysseus, mà là một chàng trai trẻ: Telemachus, con trai của ông, người đã dấn thân vào một cuộc phiêu lưu vĩ đại.
Telemachus chưa bao giờ biết cha mình; anh ta rất đau khổ và thất vọng vì không biết Odysseus đang ở đâu hoặc thậm chí ông vẫn còn sống. Anh cảm thấy mình mất gốc và thấy mình đang ở ngã ba đường. Anh nên ở nhà chờ đợi hay đi tìm kiếm? Nhiều giọng nói khác nhau, bao gồm cả của nữ thần Athena, đã thôi thúc anh dũng cảm lên đường. Và vì vậy anh thực hiện: anh đứng dậy, bí mật trang bị một con tàu và, khi mặt trời mọc, anh bắt đầu cuộc phiêu lưu của mình. Ý nghĩa của cuộc sống không được tìm thấy bằng cách ở trên bãi biển chờ đợi cơn gió mang đến một điều gì đó mới mẻ. Sự cứu rỗi nằm ở vùng biển mở, trong việc ra khơi, trong cuộc tìm kiếm, trong việc theo đuổi những giấc mơ, những giấc mơ có thật, những giấc mơ mà chúng ta theo đuổi với đôi mắt mở to, những giấc mơ bao gồm nỗ lực, đấu tranh, sóng gió, bão tố bất ngờ. Vì vậy, đừng để bị tê liệt bởi nỗi sợ hãi: hãy mơ những giấc mơ vĩ đại! Và cùng nhau mơ ước! Như xảy ra với Telemachus, sẽ luôn có những người cố gắng ngăn cản con. Sẽ luôn có những người nói với các bạn: “Quên nó đi, đừng mạo hiểm, điều đó vô ích”. Họ là kẻ hủy diệt ước mơ, kẻ giết chết hy vọng, mắc kẹt hoàn toàn trong quá khứ.
Còn các bạn, hãy nuôi dưỡng dũng khí hy vọng! Loại hy vọng mà con đã có, Aboud. Làm thế nào để các bạn làm điều này? Bằng sự lựa chọn của các bạn, quyết định của các bạn. Lựa chọn là một thách thức. Nó liên quan đến việc đối mặt với nỗi sợ hãi về điều chưa biết, nổi lên từ sự hỗn loạn của sự đồng nhất, quyết định nắm lấy cuộc sống của các bạn trong tay. Để có những lựa chọn đúng đắn, các bạn nên nhớ một điều: những quyết định đúng đắn luôn là hướng về người khác chứ không chỉ về bản thân chúng ta. Đó là những quyết định đáng để thực hiện, những ước mơ đáng phấn đấu để hoàn thành, những ước mơ cần sự can đảm và liên quan đến người khác. Vậy thì đây là lời cầu chúc của cha dành cho các bạn: đó là với sự trợ giúp của Thiên Chúa, Đấng yêu thương các bạn, các bạn có thể can đảm, tiến bước. Brostà, óli masí! Hãy tiến bước, tất cả cùng nhau!
Hồng Thủy
2021
ĐTC gặp các giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, chủng sinh và giáo lý viên của Hy Lạp
ĐTC gặp các giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, chủng sinh và giáo lý viên của Hy Lạp
Chiều thứ Bảy 4/12/2021, sau khi gặp gỡ Đức tổng giám mục Jeronymos II của Chính Thống Hy Lạp, lúc khoảng 5 giờ chiều giờ địa phương, Đức Thánh Cha đã lên xe di chuyển đến nhà thờ chính toà Athens cách đó gần 1 km để gặp các giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, chủng sinh và giáo lý viên của Hy Lạp.
Nhà thờ chính toà Athens
Nhà thờ chính toà Athens được dâng kính cho thánh Dionigi thành viên Hội đồng Arêôpagô, như được đề cập trong sách Công vụ Tông đồ (17,34), giám mục đầu tiên của thành phố. Ngài đã trở lại Kitô giáo sau bài thuyết giảng của thánh Phaolô tại Hội đồng Arêôpagô.
Nhà thờ được bắt đầu xây dựng vào năm 1853 theo bản vẽ của kiến trúc sư người Đức Leo von Klenze, nhưng được hoàn thành vào năm 1865 dưới sự hướng dẫn của kiến trúc sư Hy Lạp Kaftantzoglou. Nhà thờ được nâng lên thành tiểu vương cung thánh đường vào năm 1877; đây cũng là nhà thờ đầu tiên và cuối cùng của Hy Lạp có tước hiệu này.
Khi Đức Thánh Cha đến nhà thờ, Đức tổng giám mục của Athens và cha sở của nhà thờ chào đón ngài. Sau khi hôn Thánh giá và rảy nước thánh ở lối vào chính, Đức Thánh Cha tiến vào trong nhà thờ giữa tiếng thánh ca.
Đức cha Chủ tịch Hội đồng giám mục Hy Lạp chào đón Đức Thánh Cha
Mở đầu cuộc gặp gỡ, Đức cha Sevastianos Rossolatos, tổng giám mục hưu trí của Athens và Chủ tịch Hội đồng giám mục Hy Lạp, có lời chào đón Đức Thánh Cha. Chủ tịch Hội đồng giám mục Hy Lạp bày tỏ niềm vui được Đức Thánh Cha viếng thăm cũng như sự ủng hộ của cộng đoàn Công giáo đối với sứ vụ của Đức Thánh Cha.
Nguyên tổng giám mục của Athens đã nói về thách đố của sự toàn cầu hoá cũng như ảnh hưởng của quá trình thế tục hoá, làm suy yếu sự ủng hộ của xã hội đối với đức tin truyền thống và bộc lộ những khiếm khuyết vẫn còn tồn tại trong cách chúng ta nuôi dưỡng đức tin. Kết quả là ngày nay nhiều người xa Lời Chúa và đời sống phụng vụ của Giáo hội, dẫn đến việc suy giảm ơn gọi. Ngày nay phần lớn linh mục và tu sĩ đến từ các nước khác.
Kế đến là những khó khăn về mục vụ đối với những tín hữu di dân, nhưng nhờ họ, Giáo hội Hy Lạp cũng trở nên sinh động và làm chứng cho đức tin trong một thế giới không ngừng thay đổi.
Chủ tịch Hội đồng giám mục Hy Lạp cũng nói về tương quan giữa Giáo hội Công giáo với Giáo hội Chính Thống và nhà nước. Ngài tin rằng những lời của Đức Thánh Cha sẽ giúp họ lắng nghe điều Chúa Thánh Thần nói với Giáo hội và có sức mạnh củng cố họ tìm thấy đức tin và cách thức để ra khơi thả lưới, theo sự khích lệ của Chúa.
Chứng từ của sơ Maria dòng Ngôi Lời Nhập thể
Tiếp đến, sơ Maria, người Argentina, dòng các Nữ tỳ của Chúa và của Đức Trinh Nữ ở Matara, một nhánh của gia đình Ngôi Lời Nhập thể, chia sẻ về việc thành lập một cộng đoàn tại đảo Tinos của Hy Lạp, phục vụ tại đền thánh Đức Mẹ Vrysi và cũng để giúp đỡ trong việc tông đồ của giáo phận.
Sơ chia sẻ: “Chúng tôi không biết tiếng, không nói được gì, nhưng mọi người và chúng tôi hạnh phúc như thể đã quen nhau cả đời. Ấn tượng đầu tiên là sự hiếu khách của người dân và lòng khao khát Chúa. Tôi nhớ những câu hỏi đầu tiên, và vẫn còn lặp lại với chúng tôi: tại sao lại là Hy Lạp? Sơ thích à? Và câu trả lời của chúng tôi luôn đi kèm nụ cười: “Vâng, vì đó là ý Chúa”.
Sau đó, ông Rosko, một giáo dân, đã chia sẻ về đời sống đạo của gia đình. Ông là người Công giáo thực hành đạo, còn vợ theo Chính Thống. Các con họ theo học trường Công giáo, dự lễ Chúa Nhật, lãnh nhận các bí tích. Nhưng vào năm các con ông 17 tuổi, sau một biến cố, các con ông đã không còn sống đạo. Những câu hỏi của ông được các con trả lời bằng sự thờ ơ và chế giễu khiến ông khó chịu. Ông tự hỏi có điều gì sai trong cách nuôi dạy con cái của mình. Ông đã tự trách mình.
Tuy nhiên ông vẫn kiên trì cầu nguyện và đức tin không lay chuyển. Sau khi theo lời khuyên của cha giải tội trò chuyện với các con, ông biết các con của ông vẫn có đức tin nhưng thời đại đã thay đổi và họ muốn Giáo hội có điều gì đó khác. Họ nói với ông rằng họ ở bên ông, họ là một. Câu trả lời của các con đã giúp ông nhìn cuộc sống hàng ngày của một gia đình có hôn nhân khác đạo, trong môi trường làm việc, nơi mà họ là thiểu số bằng đôi mắt của họ Ông nhấn mạnh: Nhưng thực tế là các con đã cảm nghiệm sự hiệp nhất với những người khác, như họ đã nghe ở nhà và ở trường, và đó là điều tích cực của việc trò chuyện với nhau.
Diễn văn của Đức Thánh Cha
Trong bài nói chuyện với các giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, chủng sinh, giáo lý viên của Hy Lạp Đức Thánh Cha nhắn nhủ họ về hai thái độ: tin tưởng vững vàng và đón nhận.
Hội nhập văn hoá đức tin
Trước hết Đức Thánh Cha đề cao Hy Lạp nơi là di sản của nhân loại, trên đó các nền tảng của phương Tây đã được xây dựng. Ngài nói: Tất cả chúng ta đều là những người con và những người mắc nợ đất nước của anh chị em: nếu không có thơ ca, văn học, triết học và nghệ thuật được phát triển ở đây, chúng ta sẽ không thể biết nhiều khía cạnh của cuộc sống của con người, cũng như không thể trả lời nhiều câu hỏi nội tâm về cuộc sống, về tình yêu, về nỗi đau và sự chết.
Di sản phong phú này, nhờ sự khôn ngoan của nhiều Giáo phụ, đã làm nảy sinh cuộc hội nhập văn hóa của đức tin. Nhưng người đã khởi đầu cho cuộc gặp gỡ giữa Kitô giáo sơ khai và nền văn hóa Hy Lạp chính là thánh Phaolô. Chính ngài là người là người tổng hợp hai thế giới đó.
Suy tư về đoạn sách Công vụ Tông đồ (xem Cv 17,16-34), thuật lại sự kiện thánh Phaolô đến Athens và thuyết giảng tại Hội đồng Arêôpagô (xem Cv 17,16-34), là hội đồng các trưởng lão và các học giả, những người có trách nhiệm đánh giá các vấn đề được công chúng quan tâm, Đức Thánh Cha nhận định rằng hai thái độ của thánh Phaolô có thể giúp cho Giáo hội trong việc hội nhập đức tin vào văn hoá.
Tin tưởng chắc chắn
Thái độ đầu tiên là sự tin tưởng chắc chắn. Thánh Phaolô gặp những khó khăn trong hành trình truyền giáo. Trước đó không lâu, tại Têxalônica, ngài đã bị ngăn cản không cho rao giảng; do tình trạng hỗn loạn do các đối thủ gây nên, ngài phải bỏ trốn khỏi thành phố vào ban đêm. Giờ đây, khi đến Athens, ngài đã bị xem là kẻ phỉnh gạt và bị đưa đến Hội đồng Arêôpagô như một vị khách không mời mà đến.
Đức Thánh Cha nhận xét: Có lẽ, nhiều khi trên hành trình, chúng ta cũng cảm thấy mệt mỏi và thậm chí thất vọng vì là một cộng đồng nhỏ bé, một Giáo hội với ít nguồn lực hoạt động trong một môi trường không phải lúc nào cũng thuận lợi. Ngài mời gọi: Hãy nghĩ về thánh Phaolô ở Athens. Ngài đơn độc, thuộc nhóm thiểu số, không được chào đón và có rất ít cơ hội thành công. Nhưng ngài không để mình bị sự nản lòng khuất phục. Ngài đã không từ bỏ sứ vụ của mình. Ngài cũng không chiều theo cám dỗ muốn phàn nàn. Đó là thái độ của một Tông đồ chân chính: tin tưởng tiến về phía trước, yêu thích sự bất trắc của những tình huống bất ngờ hơn là sự tự mãn đến từ sức mạnh của thói quen. Thánh Phaolô đã có dũng khí đó là nhờ sự tin tưởng vững chắc vào Thiên Chúa. Đó là lòng can đảm phát sinh từ sự tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng yêu thích hoàn thành những điều vĩ đại thông qua sự thấp hèn của chúng ta.
Giáo hội là một thiểu số nhưng không phải là vô nghĩa
Đức Thánh Cha khuyên tín hữu Hy Lạp hãy có lòng tín thác như thánh Phaolô, bởi vì là một Giáo hội nhỏ bé khiến chúng ta trở thành dấu chỉ hùng hồn của Tin Mừng, về Thiên Chúa được Chúa Giêsu rao truyền, Đấng đã chọn những người nghèo hèn, Đấng thay đổi lịch sử bằng những việc làm đơn sơ tầm thường. Là Giáo hội, chúng ta không được kêu gọi để có tinh thần chinh phục và chiến thắng, những con số ấn tượng hay sự vĩ đại của thế gian… Hãy xem sự nhỏ bé của mình là một phúc lành và sẵn sàng chấp nhận nó. Nó giúp các bạn tín thác vào Chúa và chỉ một mình Chúa. Là một thiểu số – và đừng quên rằng Giáo hội trên toàn thế giới là một thiểu số – không có nghĩa là tầm thường, mà là tiến gần hơn đến con đường được Chúa yêu thích, đó là con đường của sự nhỏ bé: của “kenosis” (tự huỷ mình ra không), tự hạ, hiền lành.
Sự chấp nhận
Thái độ thứ hai của thánh Phaolô được Đức Thánh Cha nêu bật chính là sự chấp nhận. Ngài nói: đây là tính cách nội tâm cần thiết cho việc truyền giảng Tin Mừng. Một thái độ chấp nhận không cố gắng chiếm chỗ và cuộc sống của người khác, nhưng để gieo tin vui vào mảnh đất cuộc sống của họ; nó học cách nhận biết và đánh giá cao những hạt giống mà Thiên Chúa đã gieo vào lòng họ trước khi chúng ta đến.
Truyền giáo không phải là chiêu dụ tín đồ
Đức Thánh Cha nhấn mạnh: Truyền giáo không phải là đổ đầy một thùng rỗng; nhưng chính là cho thấy rõ những gì Thiên Chúa đã bắt đầu hoàn thành. Và đây là phương pháp sư phạm nổi bật mà thánh Phaolô đã áp dụng với người Athens. Ngài đã không nói với họ: “Tất cả điều các bạn biết là sai lầm”, hoặc “Bây giờ tôi sẽ dạy bạn sự thật”. Ngược lại, ngài bắt đầu bằng việc chấp nhận tinh thần tôn giáo của họ… Thánh Tông đồ tôn trọng những người nghe mình và hoan nghênh lòng sùng đạo của họ. Thánh Phaolô nhìn nhận lòng khao khát đối với Thiên Chúa tiềm ẩn trong tâm hồn của những người đó, và muốn nhẹ nhàng chia sẻ với họ món quà đức tin tuyệt vời. Ngài không áp đặt; ngài đề nghị. “Phong cách” của ngài không dựa trên việc chiêu dụ tín đồ, mà dựa trên sự hiền lành của Chúa Giêsu. Điều này có thể có là nhờ thánh Phaolô có cái nhìn thiêng liêng về thực tế. Ngài tin rằng Chúa Thánh Thần hoạt động trong lòng con người, ở trên và vượt qua những nhãn hiệu tôn giáo… Trong mọi thời đại, thái độ của người tông đồ bắt đầu bằng việc chấp nhận người khác.
Cuối bài nói chuyện, Đức Thánh Cha cầu chúc các giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân Hy Lạp tiếp tục việc truyền giáo với sự tin tưởng và chấp nhận để nếm hưởng Phúc Âm như một kinh nghiệm của niềm vui và tình huynh đệ.
Trước khi kết thúc cuộc gặp gỡ, Đức Thánh Cha đã cùng với mọi người đọc kinh Lạy Cha và sau đó ngài ban phép lành cho cộng đoàn.
Sau khi chào thăm từng giám mục và chụp hình chung với các ngài, Đức Thánh Cha trở về Toà Sứ thần cách đó gần 6 km và tại đây ngài có cuộc gặp gỡ riêng với các tu sĩ dòng Tên.
Hồng Thủy
2021
ĐTC thăm người tị nạn ở Mytilene trên đảo Lesbos, Hy Lạp
ĐTC thăm người tị nạn ở Mytilene trên đảo Lesbos, Hy Lạp
Lúc 08:30 sáng Chúa Nhật 5/12, ĐTC rời Toà Sứ thần, đi đến sân bay Athens cách đó 23km để bay đến sân bay Mytilene (Mi-ti-lí-ni) trên đảo Lesbos (Les-bos), bắt đầu ngày thứ hai chuyến tông du bằng việc thăm những người tị nạn ở “Trung tâm Tiếp nhận và Định danh”.
Đây là khu vực được trang bị cho việc tiếp nhận những người tị nạn ở Mytilene. Nó thay thế trung tâm tiếp nhận và định danh Mória, được biết đến nhiều hơn với tên gọi Trại tị nạn Mória, là trại tị nạn lớn nhất ở châu Âu cho đến tháng 9 năm 2020, khi nó bị hỏa hoạn thiêu rụi. Trung tâm này nằm bên ngoài làng Mória gần Mytilene và đó là nơi Đức Thánh Cha Phanxicô đã đến thăm vào ngày 16/4/2016. Khu vực được trang bị mới ở Mytilene thường được người Hy Lạp gọi là “Mória 2.0” và chào đón hàng nghìn người.
ĐTC đến Trung tâm lúc 10:45, ngài đi dọc con đường dẫn vào nơi gặp gỡ và chào những người tị nạn tại đây. Có khoảng 200 người tham dự cuộc gặp gỡ với Đức Thánh Cha.
Buổi gặp gỡ bắt đầu bằng một bài hát, sau đó Tổng thống Hy Lạp đã có một bài phát biểu ngắn, sau đó là chứng từ của một người tị nạn và một tình nguyện viên.
Đức Thánh Cha đã bắt đầu bài diễn văn sau bài hát của một ca đoàn người tị nạn.
Bắt đầu bài diễn văn, ĐTC nói:
Anh chị em thân mến,
Cảm ơn về những lời của anh chị em. Tôi cảm ơn Bà Tổng thống, vì sự hiện diện và những lời của bà. Thưa anh chị em, tôi lại đến đây để gặp anh chị em. Tôi ở đây để nói với anh chị em rằng tôi gần gũi anh chị em. Tôi nói từ trái tim. Tôi ở đây để nhìn thấy khuôn mặt của anh chị em, để nhìn vào mắt anh chị em, đôi mắt đầy sợ hãi và mong đợi, đôi mắt đã nhìn thấy bạo lực và nghèo đói, đôi mắt nhíu lại vì quá nhiều nước mắt. Đức Thượng Phụ Đại Kết và người anh em Bartholomeo, cách đây 5 năm tại hòn đảo này, đã nói một điều khiến tôi bị đánh động: “Những người sợ anh chị em đã không nhìn thẳng vào mắt của anh chị em. Những người sợ anh chị em đã không nhìn vào khuôn mặt của anh chị em. Những người sợ anh chị em đã không nhìn thấy con cái của anh chị em. Quên rằng phẩm giá và tự do vượt cao hơn nỗi sợ hãi và chia rẽ. Quên rằng di cư không phải là vấn đề của Trung Đông và Bắc Phi, của châu Âu và Hy Lạp, nhưng là một vấn đề của thế giới ”( Diễn văn, ngày 16 tháng 4 năm 2016).
Vâng, đó là một vấn đề của thế giới, một cuộc khủng hoảng nhân đạo ảnh hưởng đến tất cả mọi người. Đại dịch đã ảnh hưởng đến chúng ta ở cấp độ toàn cầu, nó khiến tất cả chúng ta thấy mình đang ở trên cùng một con thuyền, nó khiến chúng ta học được thế nào là có cùng nỗi sợ hãi. Chúng ta hiểu rằng các vấn đề lớn phải được giải quyết cùng nhau, bởi vì trong thế giới ngày nay, các giải pháp rời rạc là không phù hợp. Nhưng trong khi chúng ta hết mình tiêm chủng toàn cầu, dẫu cho có những chậm trễ và do dự, hoặc có những bước tiến trong việc chống biến đổi khí hậu, nhưng điều này dường như gặp một sự lẩn tránh khủng khiếp đối với vấn đề di cư. Tuy nhiên, có nhiều người mà cuộc sống họ đang bị đe dọa! Tương lai của tất cả mọi người đang bị đe dọa, và chỉ sẽ bình yên nếu được hội nhập. Chỉ khi được hòa giải với những người yếu nhất thì tương lai đó mới thịnh vượng. Bởi vì khi người nghèo bị từ chối, thì hòa bình cũng bị từ chối.
Lịch sử dạy chúng ta rằng sự đóng lại và chủ nghĩa quốc gia sẽ dẫn đến những hậu quả tai hại. Thật vậy, như Công đồng Vatican II đã nhắc lại, “ý chí cương quyết muốn tôn trọng người khác, những dân tộc khác cũng như phẩm giá của họ và sự ân cần thực thi tình huynh đệ là những điều kiện thiết yếu để xây dựng hòa bình.” (Gaudium et spes, 78). Thật là ảo tưởng khi nghĩ rằng làm như vậy là đủ để mình được an toàn, bảo vệ bản thân khỏi những kẻ yếu nhất đến gõ cửa chúng ta. Trong tương lai, chúng ta còn tiếp xúc với nhau nhiều hơn. Để làm tương lai trở nên tốt đẹp, điều chúng ta cần không phải là những hành động đơn phương, nhưng là những chính sách mở rộng. Tôi nhắc lại, lịch sử đã dạy điều đó, nhưng chúng ta chưa học được. Đừng quay lưng lại với thực tế, đừng mãi thoái thác trách nhiệm, đừng luôn đẩy vấn đề di cư cho người khác, như thể chẳng ai liên can và đó chỉ là một gánh nặng vô ích mà ai đó buộc phải gánh vác!
Những chị em, anh em, những khuôn mặt và ánh mắt của anh chị em yêu cầu chúng ta không quay lưng lại, không phủ nhận nhân tính chung của chúng ta, biến câu chuyện của anh chị em thành của chúng ta và đừng quên những thảm kịch của anh chị em. Elie Wiesel, nhân chứng của thảm kịch lớn nhất thế kỷ qua, đã viết: “Chính vì tôi nhớ về sự khởi đầu chung của chúng ta mà tôi xích lại gần hơn với đồng loại của mình. Đó là bởi vì tôi không quên rằng tương lai của họ cũng quan trọng như tương lai của tôi.” (From the Kingdom of Memory, Reminiscences, New York, 1990, 10). Vào Chúa Nhật này, tôi cầu xin Chúa đánh thức chúng ta khỏi sự khước từ của chúng ta đối với những người đau khổ, đánh thức chúng ta khỏi chủ nghĩa cá nhân vốn loại trừ người khác, đánh thức những trái tim bị điếc của chúng ta trước nhu cầu của người khác. Và tôi cũng kêu gọi mọi người: chúng ta hãy vượt qua sự tê liệt của nỗi sợ hãi, sự thờ ơ giết chết, sự thờ ơ yếm thế kết án tử những người bên lề bằng đôi găng tay nhung lụa! Chúng ta hãy phản đối tận gốc tư tưởng thống trị, tư tưởng xoay quanh cái tôi, cái tôi cá nhân và quốc gia ích kỷ, vốn trở thành thước đo và tiêu chí của mọi thứ.
Năm năm đã trôi qua kể từ chuyến thăm được thực hiện tại đây với những người anh em thân yêu Bartolomeo và Jeronymos. Sau tất cả thời gian này, chúng ta vẫn thấy rằng vấn đề di cư chẳng mấy thay đổi. Tất nhiên, nhiều người đã dấn thân chào đón và hội nhập, và tôi muốn cảm ơn nhiều tình nguyện viên và những người ở mọi cấp – tổ chức, xã hội, từ thiện – đã thực hiện những nỗ lực to lớn, chăm sóc người dân và vấn đề di cư. Tôi ghi nhận sự dấn thân hỗ trợ và xây dựng các cơ sở tiếp nhận xứng đáng và tôi chân thành cảm ơn người dân địa phương vì những điều tốt đẹp mà họ đã làm và nhiều hy sinh mà họ đã cố gắng. Nhưng chúng ta phải cay đắng thừa nhận rằng đất nước này, cũng như những nước khác, vẫn đang chịu nhiều áp lực, và ở châu Âu có những người vẫn cương quyết coi vấn đề này như một việc mà họ không quan tâm. Và bao nhiêu điều kiện không xứng đáng với con người! Có bao nhiêu điểm nóng nơi người di cư và người tị nạn sống trong điều kiện hạn chế, mà không có giải pháp nào phía trước! Tuy nhiên, sự tôn trọng đối với các cá nhân và quyền con người, điều không ngừng được cổ võ trên toàn cầu, đặc biệt ở lục địa này, cần phải luôn được bảo vệ, và phẩm giá của mỗi người phải được đặt lên hàng đầu. Thật đáng buồn khi nghe đề xuất như một giải pháp rằng nguồn quỹ chung được sử dụng để xây tường. Tất nhiên, chúng ta hiểu những nỗi sợ hãi và bất an, khó khăn và nguy hiểm. Người ta cảm thấy mệt mỏi và thất vọng, càng trở nên trầm trọng hơn bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế và đại dịch, nhưng không phải bằng cách dựng lên các hàng rào thì các vấn đề được giải quyết và sự chung sống được cải thiện. Thay vào đó, cần chung sức để chăm sóc người khác theo khả năng thực tế của mỗi người và tuân theo luật pháp, luôn đặt giá trị không thể chuyển nhượng của sự sống mỗi người lên hàng đầu. Elie Wiesel còn nói: “Khi tính mạng con người bị đe dọa, khi phẩm giá con người gặp nguy hiểm, thì biên giới quốc gia trở thành vô nghĩa” (Diễn văn nhận giải Nobel Hòa bình, ngày 10 tháng 12 năm 1986).
Trong nhiều xã hội khác nhau, có những đối kháng về ý thức hệ giữa an ninh và liên đới, địa phương và phổ quát, truyền thống và cởi mở. Thay vì tranh cãi về các ý tưởng, thì sẽ hữu ích hơn nếu bắt đầu với thực tế: hãy dừng lại, mở rộng tầm nhìn của chúng ta, dìm mình vào các vấn đề của đa số nhân loại, của nhiều nhóm nạn nhân của các trường hợp khẩn cấp nhân đạo mà chính họ không tạo ra nhưng lại phải gánh chịu, sau những chương dài lịch sử khai thác và hiện vẫn đang diễn ra. Người ta dễ dàng lôi kéo dư luận bằng cách khơi dậy nỗi sợ hãi về người khác. Nhưng tại sao chúng ta không nói, với cùng một thái độ, về sự bóc lột người nghèo, về những cuộc chiến bị lãng quên và thường được tài trợ mạnh tay, về những thỏa thuận kinh tế được thực hiện trên xương máu của người dân, về những thủ đoạn ẩn giấu để buôn bán vũ khí và phát triển thương mại vũ khí? Cần đối diện với những nguyên nhân sâu xa, chứ không phải bắt dân nghèo gánh chịu hậu quả, thậm chí bị lợi dụng để tuyên truyền chính trị! Để loại bỏ các nguyên nhân gốc rễ, không thể chỉ dừng lại ở các trường hợp khẩn cấp. Những hành động phối hợp là cần thiết. Những thay đổi mang tính biểu tượng cần được tiếp cận với tầm nhìn xa. Bởi vì không có câu trả lời dễ dàng cho các vấn đề phức tạp. Thay vào đó, cần phải đồng hành với các tiến trình từ bên trong, để vượt qua sự cô lập và khuyến khích hội nhập dần dần và thiết yếu, để chào đón các nền văn hóa và truyền thống của những người khác một cách huynh đệ và có trách nhiệm.
Trên tất cả, nếu chúng ta muốn bắt đầu lại, chúng ta hãy nhìn vào khuôn mặt của những đứa trẻ. Chúng ta tìm thấy can đảm để xấu hổ trước chúng, những người vô tội và là tương lai. Họ đặt câu hỏi về lương tâm của chúng ta và hỏi chúng ta: “Loại thế giới quý vị để lại cho chúng tôi?” Chúng ta đừng lạnh lùng lảng tránh những hình ảnh sống sượng của những tấm thân bé nhỏ nằm bất động trên các bãi biển. Địa Trung Hải, nơi hàng thiên niên kỷ đã gắn kết các dân tộc khác nhau và những vùng đất xa xôi, đang trở thành một nghĩa trang lạnh lẽo không bia mộ. Hồ nước rộng lớn này, cái nôi của nhiều nền văn minh, giờ đây trông giống như một tấm gương chết chóc. Chúng ta đừng để biển của chúng ta (mare nostrum) biến thành biển của sự chết (mare mortuum) hoang tàn, đừng để nơi gặp gỡ này trở thành sân khấu của sự đối đầu! Đừng để “biển của ký ức” này biến thành “biển của sự lãng quên”. Tôi kêu gọi hãy ngăn chặn sự nhấn chìm của nền văn minh này!
Trên các bờ biển này, Thiên Chúa đã trở thành người. Nơi đây, Lời của Người được vang vọng, loan báo rằng Thiên Chúa là “Cha và là Đấng hướng dẫn tất cả mọi người” (St. GREGORY OF NAZIANZO, Discorso 7 per il fratello Cesario, 24). Người yêu chúng ta như những người con và muốn chúng ta là anh em của nhau. Ngược lại, Thiên Chúa bị xúc phạm khi con người vốn được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa bị xem thường, khi con người bị phó mặc cho sóng biển, trong sự phủi tay thờ ơ, đôi khi ngay cả được biện minh nhân danh điều được cho là các giá trị Kitô giáo. Trái lại, đức tin đòi hỏi lòng trắc ẩn và lòng thương xót. Nó thúc đẩy lòng hiếu khách, là tình yêu đối với người xa lạ (philoxenia) đã thấm nhuần văn hóa cổ điển, và được biểu lộ rõ ràng nơi Chúa Giêsu, đặc biệt trong dụ ngôn Người Samari nhân hậu (xem Lc 10,29-37) và trong những lời của chương 25 Tin Mừng theo thánh Matthêu (x. cc. 31-46). Đây không phải là một ý thức hệ tôn giáo, nhưng là cội rễ Kitô giáo cách cụ thể. Chúa Giêsu đã long trọng khẳng định rằng Người hiện diện ở đó, nơi người lạ, người tị nạn, người mình trần và đói khát. Và đường lối Kitô giáo được tìm thấy nơi Chúa Giêsu. Vâng, như Đức Giáo Hoàng Biển Đức đã viết: đường lối Kitô giáo “là một con tim biết nhìn”. (Thông điệp Thiên Chúa là Tình yêu, 31).
Bây giờ chúng ta hãy cầu xin Đức Mẹ mở mắt cho chúng ta trước những đau khổ của anh chị em mình. Mẹ đã vội vã lên đường đến với người chị họ Elizabeth đang mang thai. Biết bao người mẹ mang thai đã chết khi đang hành trình vội vã ngay cả khi đang mang trong mình sự sống! Xin Mẹ Thiên Chúa giúp chúng ta có một cái nhìn mẫu tử, biết nhìn thấy người khác là những người con của Thiên Chúa, là anh chị em để được chào đón, bảo vệ, thăng tiến và hội nhập; và để được yêu một cách dịu dàng. Xin Mẹ Rất Thánh dạy chúng ta đặt thực tế của nhân loại lên trên những ý tưởng và ý thức hệ, và có những bước tiến vội vã để gặp gỡ những người đau khổ.
Sau bài diễn văn, Đức Thánh Cha đã mời mọi người cùng đọc Kinh Truyền Tin.
Kết thúc buổi gặp gỡ, Đức Thánh Cha thăm một số người tị nạn và năm nơi ở của họ. Sau đó, ngài ra sân bay để trở về Athens. Buổi chiều, Đức Thánh Cha dâng thánh lễ với cộng đoàn Công giáo tại “Thính phòng Megaron” của Athens.
Văn Yên, SJ
2021
Thánh lễ tại Thính phòng Megaron
Thánh lễ tại Thính phòng Megaron
Vào lúc 16 giờ, Chúa nhật 05/12, từ Toà Sứ thần, Đức Thánh Cha di chuyển bằng xe đến Thính phòng Megaron cách Toà Sứ thần 4,3 km để cử hành Thánh lễ.
Thính phòng Megaron
Thính phòng Megaron được coi là di sản văn hóa quốc gia, ngôi đền của âm nhạc và các hoạt động văn hóa, giáo dục của thủ đô Hy Lạp. Tọa lạc trên đại lộ Vasilissis Sofias, ra đời vào những năm 70 từ ý tưởng của một số trí thức khai sáng như Alexandra Trianti và Christos Lambrakis. Nhờ sự giúp đỡ của một số nhà tài trợ, trong đó có nhà soạn nhạc và nhạc trưởng, Dimitris Mitropoulos, thính phòng được giao cho các kiến trúc sư và kỹ sư giỏi nhất của Hy Lạp và châu Âu chuyên về âm học. Thính phòng được khánh thành vào năm 1991 bởi Tổng thống Cộng hòa Kōnstantinos Karamanlīs, và được mở rộng dần với các phòng đa chức năng, không gian ngoài trời cho các hoạt động văn hóa, một thư viện âm nhạc uy tín với khoảng 10.000 bản ghi âm của các nhà soạn nhạc, các bộ sưu tập âm nhạc truyền thống và quý hiếm, một trung tâm quốc tế cho Hội nghị, phòng diễn tập và ghi âm, và không gian triển lãm. Ở thính phòng này, âm nhạc cổ điển và opera là lĩnh vực chính, được lồng ghép bởi thế giới đương đại của các nghệ sĩ từ khắp nơi trên thế giới, kết hợp với sân khấu, điện ảnh, khiêu vũ. Dàn nhạc ở nơi cư trú, Dàn nhạc Quốc gia Athen.
Thánh lễ
Tại Thính phòng Megaron, Đức Thánh Cha cử hành Thánh lễ theo phụng vụ Chúa nhật II Mùa Vọng. Nghi thức Thánh lễ bằng tiếng latinh, hai bài đọc và Tin Mừng bằng tiếng Hy Lạp.
Sau đây là bài giảng của Đức Thánh Cha:
Vào Chúa nhật thứ hai Mùa Vọng này, Lời Chúa giới thiệu cho chúng ta khuôn mặt của Thánh Gioan Tẩy Giả. Tin Mừng nhấn mạnh hai điều quan trọng: nơi Gioan hiện diện, đó là hoang địa, và nội dung sứ điệp của Thánh Gioan, đó là sám hối. Hoang địa và sám hối: Tin Mừng hôm nay nhấn mạnh nhiều lần những lời này để làm cho chúng ta hiểu rằng những lời này liên quan trực tiếp đến chúng ta. Chúng ta hãy đón nhận cả hai.
Chúa đến không theo cách con người nghĩ
Hoang địa. Thánh sử Luca giới thiệu nơi này một cách cụ thể. Ngài nói về những hoàn cảnh trang trọng và những nhân vật vĩ đại của thời đó. Ngài đề cập đến năm thứ 15 của hoàng đế Tibêriô, tổng trấn Phongxiô Philatô, vua Hêrôđê và các “nhà lãnh đạo chính trị” khác của thời đó. Sau đó, Thánh Luca nhắc đến những vị lãnh đạo tôn giáo Khanan và Caipha, những người đang phục vụ Đền thờ Giêrusalem (Lc 3,1-2). Đến đây, Thánh Luca tuyên bố: “Lời Thiên Chúa phán cùng ông Gioan trong sa mạc” (Lc 3,2). Nhưng Lời đó đến bằng cách nào? Chúng ta đã mong đợi Lời Chúa sẽ được nói với một trong những nhân vật nổi danh vừa được kể đến. Thay vào đó, một điều trớ trêu tinh tế xuất hiện nơi những dòng Tin Mừng: từ vị trí trên cao của những người quyền bính, lại bất ngờ xuất hiện trong hoang địa một người vô danh, đơn độc. Thiên Chúa làm chúng ta ngạc nhiên. Đường lối Người làm chúng ta ngạc nhiên vì nó khác với sự mong đợi của con người chúng ta; chúng không phản ánh sức mạnh và sự vĩ đại mà chúng ta dựa vào. Thiên Chúa ưa thích sự nhỏ bé và khiêm nhường. Ơn cứu độ không bắt đầu từ Giêrusalem, Athens hay Roma, nhưng trong hoang địa. Cách tiếp cận nghịch lý này mang đến cho chúng ta một thông điệp rất đẹp: quyền bính, học thức và nổi tiếng không có gì bảo đảm làm đẹp lòng Chúa, vì những điều này có thể dẫn đến kiêu ngạo và từ chối Người. Thay vào đó, cần phải có cái nghèo nội tâm, nghèo như hoang địa.
Chúa đến với chúng ta trong những lúc thử thách
Chúng ta hãy suy nghĩ thêm về nghịch lý của hoang địa. Gioan Tẩy Giả – Vị Tiền hô – chuẩn bị sự xuất hiện của Đấng Kitô tại một nơi khó tiếp cận và đầy nguy hiểm. Ngày nay, nếu ai đó muốn đưa ra một loan báo quan trọng, người này thường đến những địa điểm ấn tượng, nơi có nhiều người, nơi có thể được nhìn thấy rõ. Trái lại, Gioan rao giảng trong hoang địa. Chính ở nơi đó, nơi khô cằn, trong không gian trống vắng và nơi hầu như không có sự sống, ở đó vinh quang của Chúa được tỏ bày, như lời Kinh Thánh đã tiên báo (Is 40, 3-4), Thiên Chúa biến hoang địa thành hồ ao, đất khô cằn thành mạch nước dồi dào (Is 41,18). Và một thông điệp đáng khích lệ khác: Thiên Chúa, nay cũng như xưa, hướng mắt nhìn đến bất cứ nơi nào có nhiều nỗi buồn và cô đơn. Chúng ta có thể trải nghiệm điều đó trong cuộc sống. Chúa thường không đến được với chúng ta khi chúng ta đang ở giữa những tiếng vỗ tay và chỉ nghĩ đến mình, nhưng Chúa đến với chúng ta trong những lúc thử thách. Người đến thăm chúng ta trong những hoàn cảnh khó khăn, lấp đầy khoảng trống nội tâm của chúng ta khi chúng ta để chỗ cho Người, trong những sa mạc hiện sinh của chúng ta.
Sa mạc tâm hồn là nơi Chúa tỏ hiện
Anh chị em thân mến, trong cuộc sống của chúng ta với tư cách là cá nhân hay quốc gia, không thiếu những giây phút chúng ta có cảm tưởng như đang ở trong sa mạc. Và đây chính là nơi Thiên Chúa tỏ hiện. Chúa thường không đến với những ai cảm thấy mình thành công, nhưng đến với những người cảm thấy mình không thể làm gì được. Và Người đến với những lời gần gũi, trắc ẩn và dịu dàng: “Đừng sợ hãi: có Ta ở với ngươi. Đừng nhớn nhác: Ta là Thiên Chúa của ngươi. Ta cho ngươi vững mạnh, Ta lại còn trợ giúp với tay hữu toàn thắng của Ta”(Is 41, 10). Bằng cách rao giảng trong sa mạc, Thánh Gioan đảm bảo với chúng ta rằng Chúa đến để giải thoát chúng ta và ban lại sự sống cho chúng ta trong những hoàn cảnh tưởng chừng như không thể cứu vãn, không có lối thoát. Do đó, không có nơi nào mà Chúa không muốn đến viếng thăm. Và hôm nay chúng ta không thể không cảm nhận niềm vui khi thấy Người chọn sa mạc, để đến với chúng ta trong sự nhỏ bé của chúng ta để yêu thương, và trong sự khô cằn của chúng ta để làm dịu cơn khát! Anh chị em thân mến, đừng sợ sự nhỏ bé, vì nhỏ bé không phải là vấn đề, miễn là chúng ta mở lòng với Chúa và với tha nhân. Và đừng sợ sự khô khan, bởi vì Thiên Chúa không sợ điều này, ở đó, trong sự khô khan Chúa đến thăm chúng ta!
Bây giờ chúng ta hãy chuyển sang điều thứ hai, sám hối. Thánh Gioan Tẩy Giả đã rao giảng điều đó không ngừng và với cung giọng mạnh mẽ (Lc 3, 7). Đây cũng là một chủ đề “khó chịu”. Cũng như sa mạc không phải là nơi đầu tiên chúng ta muốn đến, thì lời mời sám hối chắc chắn không phải là lời đề nghị đầu tiên mà chúng ta muốn nghe. Nói về sám hối có thể khơi dậy nỗi buồn; nó dường như khó hòa hợp với Tin Mừng của niềm vui. Nhưng điều này xảy ra khi chúng ta cho rằng sám hối đơn giản chỉ sự phấn đấu của chúng ta để nên hoàn thiện về mặt đạo đức, như thể đó là điều chúng ta có thể đạt được nhờ nỗ lực của chính chúng ta. Vấn đề nằm ở chỗ: chúng ta nghĩ mọi thứ tuỳ thuộc vào chúng ta. Và điều này dẫn đến nỗi buồn và thất vọng tinh thần. Vì chúng ta muốn sám hối, trở nên tốt hơn, vượt qua những lỗi lầm và thay đổi, nhưng chúng ta cảm thấy mình không đủ khả năng và mặc dù có thiện chí, chúng ta lại luôn vấp ngã. Chúng ta có kinh nghiệm giống Thánh Phaolô, chính từ vùng đất này, ngài đã viết: “Muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm”(Rm 7, 18-19). Như thế, tự mình, chúng ta không có khả năng làm điều tốt chúng ta muốn, vậy có nghĩa gì khi chúng ta phải sám hối?
Sám hối: suy nghĩ vượt lên trên
Ở đây ngôn ngữ đẹp của anh chị em, ngôn ngữ Hy Lạp có thể giúp chúng ta hiểu động từ “sám hối”, metanoéin. Động từ này bao gồm metá, có nghĩa là vượt lên trên, và noéin có nghĩa là suy nghĩ. Như vậy, sám hối có nghĩa là suy nghĩ vượt lên trên, nghĩa là vượt lên trên những suy nghĩ thông thường của chúng ta, vượt ra ngoài thế giới quan thông thường của chúng ta. Tất cả những lối suy nghĩ đó làm giảm đi mọi thứ cho chính chúng ta, cho niềm tin của việc thấy mình tự đủ của chúng ta. Hoặc những lối suy nghĩ tự cho mình là trung tâm được đánh dấu bằng sự cứng nhắc và sợ hãi làm tê liệt, bởi sự cám dỗ nói “chúng tôi luôn làm theo cách này”, bởi ý tưởng rằng sa mạc của cuộc sống là nơi chết chóc, và không có sự hiện diện của Chúa.
Khi khuyến khích chúng ta sám hối, Thánh Gioan mời gọi chúng ta vượt ra ngoài nơi chúng ta hiện diện; vượt xa những gì bản năng nói với chúng ta và tư tưởng ảnh hướng đến chúng ta, bởi vì thực tế còn vĩ đại hơn. Thực tế là Chúa vĩ đại hơn. Vì vậy, sám hối có nghĩa là không nghe những gì làm mất niềm hy vọng, không nghe những người luôn nói rằng sẽ không có gì thay đổi trong cuộc sống. Sám hối có nghĩa là từ chối tin rằng chúng ta đã bị định sẵn để chìm vào vũng lầy của sự tầm thường. Nó có nghĩa là không quy phục trước những sợ hãi bên trong, xuất hiện đặc biệt trong những lúc thử thách để làm chúng ta nản lòng và nói với chúng ta rằng chúng ta sẽ không vượt qua được, rằng mọi thứ đã sai và việc nên thánh không dành cho chúng ta. Không phải như vậy, bởi vì Thiên Chúa luôn hiện diện. Cần phải tin cậy nơi Chúa, bởi vì Người là điều vượt trên của chúng ta, là sức mạnh của chúng ta. Mọi thứ thay đổi nếu chúng ta dành cho Người vị trí đầu tiên. Chúng ta chỉ cần mở cửa để Chúa bước vào và làm những điều kỳ diệu. Chỉ như sa mạc và lời của Gioan là đủ để Chúa đến thế gian.
Chúng ta hãy cầu xin ân sủng để tin rằng với Chúa, mọi thứ sẽ thay đổi, rằng Người chữa lành nỗi sợ hãi của chúng ta, chữa lành vết thương của chúng ta, biến những nơi khô cằn thành suối nước. Chúng ta cầu xin ân sủng của hy vọng. Vì hy vọng làm sống lại đức tin và khơi lại lòng bác ái. Bởi vì đó là hy vọng mà các sa mạc của thế giới ngày nay đang khát.
Và trong lúc cuộc gặp gỡ này đổi mới chúng ta trong niềm hy vọng và niềm vui của Chúa Giêsu, và tôi vui mừng khi được ở giữa anh chị em, chúng ta hãy cầu xin Đức Mẹ giúp chúng ta, giống như Mẹ, trở nên những người gieo rắc hy vọng, những người gieo niềm vui xung quanh chúng ta, không chỉ vào lúc này, khi chúng ta hạnh phúc và ở cùng nhau, nhưng hàng ngày, trong những sa mạc nơi chúng ta hiện diện. Vì chính nơi đó, với ơn Chúa, cuộc đời chúng ta được mời gọi sám hối và nở hoa.
Chào cám ơn
Trước khi kết thúc Thánh lễ, Đức Tổng Giám mục Theodoros Kontidis của Tổng Giáo phận Athen, đại diện cộng đoàn cám ơn Đức Thánh Cha. Đức Tổng Giám mục nói rằng sự hiện diện của Đức Thánh Cha tại Hy Lạp làm cho mọi người cảm nhận được sự hiệp nhất với Giáo hội như một thân thể trong Đức Kitô. Ngài nói: “Chúng con chân thành cám ơn Đức Thánh Cha vì đã đến đây với chúng con, cùng cử hành Thánh lễ, và cám ơn vì tất cả những gì Đức Thánh Cha đã làm cho Giáo hội trên thế giới và vì những lời giảng dạy đã khuyến khích mọi người đi theo đường lối Chúa Giêsu”.
Đáp lời Đức Tổng Giám mục, Đức Thánh Cha cũng bảy tỏ lòng biết ơn đến chính quyền dân sự và các Giám mục, cũng như tất cả những người bằng nhiều cách khác nhau đã cộng tác chuẩn bị và tổ chức chuyến thăm này.
Sau Thánh lễ, Đức Thánh Cha trở về Toà Sứ thần.
Thăm Đức Thượng phụ Jeronymos II
Tại Toà Sứ thần, vào lúc 19 giờ, Đức Thánh Cha có cuộc gặp gỡ với Đức Thượng phụ Jeronymos II và đoàn tuỳ tùng tại hội trường của Toà sứ thần.
Ngọc Yến