2022
Giáo miền Uzbekistan có ơn gọi nữ tu đầu tiên
Giáo miền Uzbekistan có ơn gọi nữ tu đầu tiên
Cộng đoàn Công giáo tại Cộng hòa Uzbekistan ở Trung Á đã có ơn gọi nữ tu đầu tiên.
Nước này rộng gần 445.000 cây số vuông, nhưng chỉ có 25 triệu dân cư trong đó 79% theo Hồi giáo, 5% theo Chính thống Nga.
Công giáo tại đây họp thành một miền Giám quản Tông tòa do Đức cha Jerzy Makulewicz, người Ba Lan thuộc dòng Phanxicô Viện Tu coi sóc và chỉ có 3.075 tín hữu. Cả nước có năm giáo xứ, trong đó có 700 người sống tại thủ đô Tashkent. Giáo hội tại đây có chín linh mục và chín nữ tu, đa số thuộc dòng Ngôi Lời Nhập Thể.
Hãng tin Fides của Bộ Truyền giáo cho biết: giáo xứ Samarcanda do các cha dòng Ngôi Lời Nhập thể coi sóc từ năm ngoái. Năm đầu tiên các cha bận rộn lo tu bổ nhà thờ và môi trường giáo xứ. Năm nay các cha có thể tổ chức nhiều sinh hoạt cho giới trẻ với những thành quả tốt đẹp. Nhiều ông bà nội ngoại, tuy là người Hồi giáo, đã dẫn cháu đến tham gia các sinh hoạt tại giáo xứ, mong muốn cho chúng được một nền giáo dục phong phú và cởi mở.
Có một số em, do ý muốn của gia đình, xin được chịu phép rửa tội và sẽ bắt đầu học giáo lý.
Đặc biệt có một ơn gọi nữ tu đầu tiên tại Uzbekistan: Một thiếu nữ 21 tuổi đã bày tỏ ước muốn dâng mình cho Chúa trong đời tu. Cô chăm chỉ tham dự thánh lễ và một hôm bày tỏ với cha xứ ước muốn đi tu. Từ bốn năm rồi cô nuôi ý định đó, nhưng không biết làm sao vì cộng đoàn nữ tu duy nhất tại Uzbekistan ở rất xa thành phố Samarcanda. Nhưng từ vài tháng nay, cô vào dòng Nữ Ngôi Lời Nhập Thể và đã bắt đầu tiến trình vào nhà tập.
(Fides 6-8-2022)
- Trần Đức Anh, O.P.
2022
Tổng Giám mục Virgilio do Carmo da Silva: nhà giáo cho đất nước trẻ Đông Timor
Tổng Giám mục Virgilio do Carmo da Silva: nhà giáo cho đất nước trẻ Đông Timor
“Khi biết tin, tôi bị sốc đến mức gần ngất xỉu”. Đó là phản ứng của giám mục Virgilio do Carmo da Silva, giáo phận Dili khi ngài nghe tin mình sẽ là hồng y đầu tiên của Đông Timor. Với việc phong hồng y này, quần đảo Đông Nam Á nhỏ bé với 1,3 triệu dân, có khoảng 97% là người công giáo, tiến thêm một bước nữa để ra với thế giới, sau một lịch sử đầy chông gai và chiến đấu cho độc lập gần đây.
Giám mục Virgilio do Carmo da Silva nói trong cuộc họp báo ngày thứ ba, 30 tháng 5 sau khi biết tin ngài sẽ được phong hồng y: “Tôi tin Đức Phanxicô không làm điều này cho tôi mà cho Giáo hội và người dân Đông Timor. Giáo hội và người dân Đông Timor xứng đáng nhận được ơn và sự công nhận này từ Thiên Chúa, ở một nước mà Tin Mừng đến cách đây 500 năm và tổ chức kỷ niệm 20 năm độc lập ngày 20 tháng 5”.
Sinh năm 1967 tại thành phố Venilale, giám mục Virgilio do Carmo da Silva học tại các trường do Hiệp hội Thánh Phanxicô Salêdiêng, Don Bosco điều hành. Sau đó ngài vào dòng này, khấn lần đầu năm 1990 và khấn trọn năm 1997. Ngài chịu chức ngày 18 tháng 12 năm 1998.
Trong thời gian đầu làm linh mục, ngài dành thời gian để đào tạo các tập sinh và điều khiển các trường Salêdiêng ở Đông Timor, và cùng lúc này, từ năm 2005 đến năm 2007 ngài đi Rôma để lấy bằng linh đạo tại Đại học Giáo hoàng Salêdiêng. Sau đó ngài về lại quê hương và năm 2015 ngài được bầu làm Bề trên Tỉnh dòng Salêdiêng Đông Timor và Indonesia. Một năm sau, ngày 18 tháng 3 năm 2016, Đức Phanxicô bổ nhiệm ngài làm giám mục Dili, thủ đô của Đông Timor, tiếp đó Dili được nâng lên hàng tổng giáo phận và ngài là tổng giám mục năm 2019. Hồng y tương lai cũng là phó chủ tịch Hội đồng Giám mục Timorese.
Tháng 8, giám mục Virgilio do Carmo da Silva, 54 tuổi, sẽ là hồng y trẻ thứ hai, sau giám mục người Ý Giorgio Marengo, 48 tuổi, Tông tòa Ulaanbaatar (Mông Cổ).
Một đất nước trẻ, công giáo và gần với Giáo hội
Đông Timor là quốc đảo trẻ có nguồn gốc công giáo mạnh mẽ. Từ thế kỷ 17 đến năm 1975, quốc gia nhỏ bé này dưới quyền cai trị của Bồ Đào Nha, họ mang đạo công giáo đến với người dân. Năm 1975, quốc gia được độc lập, nhưng sau đó bị nước láng giềng Indonesia xâm lược, dẫn đến nhiều năm bạo lực xung đột giữa quân đội và các nhóm ly khai.
Giáo hội công giáo đóng vai trò quan trọng trong thời kỳ này để giúp người dân Timor, đặc biệt dưới sự lãnh đạo của giám mục Carlos Ximenes Belo, Giám quản Tông Tòa Dili, ngài công khai lên án các lực lượng Indonesia chiếm đóng đất nước và kêu gọi cuộc kháng chiến bất bạo động. Năm 1996, ngài nhận giải Nobel Hòa bình cho những nỗ lực của mình cùng với chính trị gia José Ramos-Horta, hiện ông là tổng thống của đất nước.
Thêm nữa, năm 1989, Đức Gioan-Phaolô II có chuyến đi gây tranh cãi tới đất nước này, lần đầu tiên ngài đưa việc Indonesia chiếm đóng Đông Timor ra chính trường quốc tế. Ngài lên án các hành vi vi phạm nhân quyền mà không nêu rõ ràng đó là các lực lượng Indonesia, ngài thận trọng không có cử chỉ nào để khẳng định chủ quyền của Đông Timor. Vatican ủng hộ các các giám mục, linh mục địa phương nhưng vẫn chính thức trung lập về vấn đề độc lập.
Hơn 5.000 giáo dân tham dự thánh lễ do giám mục Virgilio do Carmo da Silva cử hành năm 2019 để kỷ niệm 30 năm chuyến tông du của Đức Gioan-Phaolô II. Sau đó một giám mục đã tuyên bố, chuyến tông du của Đức Gioan-Phaolô II “là thời điểm thế giới bắt đầu biết về cuộc đấu tranh giành độc lập của người Timor”. Khi Đức Gioan-Phaolô II qua đời, Đông Timor đã cử hành quốc tang ba ngày.
Cuối cùng Liên Hiệp Quốc bảo trợ cuộc trưng cầu dân ý về độc lập dẫn đến việc Indonesia rút quân năm 1999. Hiến pháp có hiệu lực năm 2002 nêu rõ “nhà nước công nhận và đánh giá cao sự tham gia của Giáo hội công giáo trong quá trình giải phóng dân tộc”.
Tập trung vào giáo dục và ổn định trong thời hậu độc lập
Chính trong bối cảnh đó, giám mục Virgilio do Carmo da Silva lớn lên và đã định hướng cuộc đời ngài cho đến ngày hôm nay, trong khi đất nước mong manh này vẫn bị tình trạng chia rẽ in dấu mạnh, cố gắng tìm cách là một quốc gia độc lập. Giống như các vị tiền nhiệm của ngài, ngài duy trì mối quan hệ chặt chẽ với nhà nước.
Tổng thống Ramos-Horta và Thủ tướng Taur Matan Ruak đã nhanh chóng chúc mừng giám mục khi biết ngài sắp được phong hồng y. Nghị viện cũng ra thông báo chúc mừng, cho rằng đây là “giây phút lịch sử” của đất nước và là nguồn “tự hào của người dân Đông Timor”.
Cơ bản là nhà giáo, giám mục Virgilio do Carmo da Silva hợp tác chặt chẽ với Nhà nước để nâng cao chất lượng giáo dục và các cơ hội giáo dục của đất nước. Hơn nữa, vì Đông Timor là quốc gia rất trẻ, năm 2020 tuổi trung bình của người dân là 20,8 nên tân hồng y nhấn mạnh đến sự cần thiết phải giáo dục và đào tạo người trẻ trong đức tin công giáo.
Tháng 12 năm 2021, ngài khánh thành trường Đại học công giáo đầu tiên trong nước vinh danh Đức Gioan-Phaolô II, thực hiện mục tiêu lâu dài của tổng giáo phận. Ngài tuyên bố: “Đại học công giáo Timor phải ở tầm cao thế giới trong tất cả các lĩnh vực nỗ lực của con người, cảm hứng từ các truyền thống trí tuệ, đạo đức và tâm linh công giáo.”
Tháng 5 năm 2022, giám mục Virgilio do Carmo da Silva có mặt trong buổi gia hạn một thỏa thuận giữa Giáo hội và chính phủ Đông Timor, trong đó có phần công quỹ hỗ trợ cho công việc và hoạt động của Giáo hội. Theo hãng tin UCA News, năm 2022, chính phủ đã cấp 15 triệu đô la cho Giáo hội, 50% trong số đó là để hỗ trợ các mục tiêu giáo dục.
Dù có mối quan hệ thân thiết với nhà nước, tổng giám mục giáo phận Dili cũng không ngại lên tiếng trong các tiến trình chính trị vốn không phải lúc nào cũng suôn sẻ ở quốc gia non trẻ đang phát triển. Trong cuộc bầu cử tháng 4 năm 2022, ngài kêu gọi tổng thống tương lai “giữ lời hứa bầu cử của mình để người dân không mất lòng tin” và “gần gũi với người dân không chỉ trong chiến dịch tranh cử mà còn trong ý thức phải biết khó khăn mà người công dân gặp phải”. Ngài nói thêm: “Chúng ta phải tôn trọng Hiến pháp và tăng cường kỷ luật để đất nước chúng ta là một xã hội hòa bình, thịnh vượng và dân chủ.”
Một chuyến thăm có thể có của Giáo hoàng?
Đức Phanxicô dự kiến thăm Đông Timor, Indonesia và Papua New Guinea tháng 9 năm 2020. Chuyến đi chưa bao giờ được công bố chính thức nhưng không có lý do nào được đưa ra về việc hủy bỏ, đại dịch được cho là lời giải thích khả dĩ nhất.
Tuy nhiên, trong một phỏng vấn với hãng tin Argentina Telam tháng 10 năm 2021, Đức Phanxicô nói ngài muốn “giải quyết nợ chưa thanh toán cho chuyến đi Papua New Guinea và Đông Timor”. Nhưng chuyến đi Đông Timor dường như không nằm trong chương trình nghị sự, Đức Phanxicô 85 tuổi bị đau đầu gối sẽ có chuyến đi ở các quốc gia khác trong những tháng tới.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
2022
Lịch sử đằng sau cuộc bách hại Giáo Hội Công Giáo ở Nicaragua
Lịch sử đằng sau cuộc bách hại Giáo Hội Công Giáo ở Nicaragua
Một giám mục bị quản thúc tại gia, các linh mục bị cảnh sát quấy rối, Hội Thừa sai Bác ái bị trục xuất, và nhiều hạn chế trong việc thờ phượng: đây là tình trạng mà Giáo Hội Công Giáo ở Nicaragua đang trải qua ngày nay dưới chính phủ đương nhiệm của Tổng thống Daniel Ortega.
Nhưng làm thế nào mà đất nước Trung Mỹ lại đi đến khủng hoảng như vậy?
Câu chuyện này bắt đầu vào năm 1979 với việc lật đổ chế độ độc tài của triều đại Somoza và chính phủ cộng sản Sandinista đầu tiên lãnh đạo Nicaragua từ đó cho đến năm 1990. Và 40 năm sau đó, sự thù địch và đàn áp lặp lại.
Vào ngày 19 tháng 7 năm 1979, Mặt trận Giải phóng Quốc gia Sandinista, gọi tắt là FSLN, là một nhóm du kích cộng sản, đã lật đổ Anastasio Somoza Debayle, thành viên thứ ba và cuối cùng của triều đại Somocista. Anastasio Somoza Debayle cai trị Nicaragua sau cha ông, Anastasio Somoza García, và anh trai của ông, Luis Somoza Debayle.
Vào tháng 11 năm 1979, Hội đồng Giám mục Nicaragua công bố một bức thư mục vụ có tiêu đề “Cam kết của Kitô giáo cho một Nicaragua mới”, trong số những điều khác, coi “quá trình cách mạng” này là một cơ hội cho đất nước và kêu gọi dân chúng thực hiện những hy sinh cần thiết và trải nghiệm một “sự hoán cải sâu sắc của trái tim.”
Các giám mục cũng kêu gọi “không gian rộng rãi để Giáo hội được thực hiện công việc tông đồ của mình mà không bị can thiệp.”
Ngay sau khi triều đại Somoza sụp đổ, Hội đồng Quản lý Tái thiết Quốc gia gồm 5 thành viên được thành lập: 3 từ FSLN và 2 thành viên độc lập, bao gồm Violeta Chamorro, là góa phụ của Pedro Chamorro, giám đốc tờ báo La Prensa, người bị Somoza ám sát; và Alfonso Robelo. Người điều phối là Daniel Ortega.
Violeta Chamorro từ chức vào tháng 4 năm 1980 do đường hướng xã hội chủ nghĩa mà FSLN đang thực hiện và ảnh hưởng của Cuba trong chính phủ. Robelo từ chức vì những lý do tương tự và sau đó gia nhập ban lãnh đạo chính trị của cuộc kháng chiến Nicaragua, được gọi là “Contras” hay “Phản kháng”, được Hoa Kỳ tài trợ, đã tham gia một cuộc nội chiến với Sandinistas trong suốt thập kỷ. Từ đó, Hội đồng Quản lý Tái thiết Quốc gia chỉ gồm toàn các thành viên của phong trào FSLN, cho nên được gọi là nhà cầm quyền Sandinistas.
Cánh quân nhân cai trị Nicaragua cho đến năm 1985 và trao lại quyền lực cho Ortega, người đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1984 trong vai trò là nhà lãnh đạo của FSLN, trước đó đã chính thức trở thành Đảng Cộng sản Nicaragua.
Các linh mục tham gia trong guồng máy cầm quyền và sự can thiệp của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
Có ba linh mục nổi tiếng, những người thúc đẩy thần học giải phóng theo chủ nghĩa Mác đã đảm nhận các vị trí trong chính phủ Sandinista: Đó là các linh mục Miguel D’Escoto là bộ trưởng ngoại giao từ 1979 đến 1990; linh mục Ernesto Cardenal là bộ trưởng văn hóa từ 1979 đến 1987; và linh mục Edgar Parrales là thứ trưởng, phó tổng giám đốc Viện An sinh xã hội Nicaragua trong hai năm 1979 và 1980, bộ trưởng phúc lợi xã hội từ 1980 đến 1982 và đại sứ Nicaragua tại Tổ chức các quốc gia Mỹ Châu từ 1982 đến 1986.
Sự tham gia của các linh mục này trong chính phủ đã gây ra căng thẳng với các giám mục. Mặc dù ban đầu các giám mục cho phép sự tham gia này, vào tháng Giêng năm 1980, hội đồng giám mục quyết định rằng các linh mục này không thể là một phần của chính phủ Sandinista nữa.
Vào tháng 4 năm đó, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tiếp các giám mục Nicaragua tại Vatican và nói với các ngài trong một bài diễn văn rằng “một hệ tư tưởng vô thần không thể là công cụ hướng dẫn nỗ lực thúc đẩy công bằng xã hội, bởi vì nó tước đi tự do của con người, nguồn cảm hứng thiêng liêng và sức mạnh để yêu thương anh em mình, vốn có nền tảng vững chắc nhất và hoạt động trong tình yêu thương của Thiên Chúa.”
Vài tuần sau, các giám mục yêu cầu các linh mục từ chức khỏi các chức vụ của họ trong chính phủ Sandinista, nhưng các linh mục bất tuân.
Vào tháng 2 năm 1984, Đức Gioan Phaolô II đã treo chén ba linh mục này và cả Cha Fernando Cardenal, anh trai của Ernesto, người cũng tham gia vào chế độ Ortega. Từ năm đó đến năm 1990, Fernando Cardenal là bộ trưởng giáo dục.
Một Tổng Giám Mục can đảm và trò bôi lọ một linh mục
Trong thời kỳ Sandinista lần thứ nhất, một trong những thành viên nổi bật của Giáo Hội Công Giáo đã đứng ra tố cáo các vi phạm nhân quyền là Đức Tổng Giám Mục tổng giáo phận thủ đô Managua, là Đức Cha Miguel Obando y Bravo. Ngài sinh năm 1926 và qua đời năm 2018. Ngài là vị Tổng Giám Mục được Đức Gioan-Phaolô II tấn phong Hồng Y năm 1985.
Đức Tổng Giám Mục đã được biết đến với việc tố cáo các vi phạm nhân quyền trong chế độ độc tài Somoza và không giữ im lặng khi đối mặt với sự lạm dụng của chế độ Ortega.
Ngoài ra, vai trò của ngài còn có ý nghĩa quyết định trong việc ngăn chặn sự truyền bá của cái gọi là “Giáo Hội nhân dân” do các linh mục và nữ tu theo thần học giải phóng mácxít cổ xúy.
Chính phủ FSLN đã trả đũa và nhắm vào các mục tử lỗi lạc. Vào tháng 8 năm 1982, các đặc vụ của chế độ ăn mặc như cảnh sát đã bắt giữ Cha Bismarck Carballo, người lúc đó là phát ngôn viên của Giáo hội và là giám đốc của một đài phát thanh Công Giáo.
Các đặc vụ đã dẫn một phụ nữ vào một ngôi nhà nơi vị linh mục đang ở và bịa đặt một vụ tai tiếng tình dục với người phụ nữ này. Họ lột trần ngài và người phụ nữ, đưa ra ngoài đường, và công bố câu chuyện sai sự thật trên tất cả các phương tiện truyền thông chính thức.
Vào tháng 2 năm 1986, ngoại trưởng Hoa Kỳ công bố lời khai của cựu trung úy Sandinista Álvaro Baldizón Avilés, một người đào tẩu tuyên bố rằng vụ tai tiếng liên quan đến Cha Carballo là do chế độ Ortega dàn dựng.
Một trong những sự phẫn nộ khác của Ortega chống lại Giáo hội là việc trục xuất 10 linh mục thừa sai nước ngoài vào tháng 7 năm 1984. Các linh mục bị buộc tội vi phạm luật pháp quốc gia và tham gia các hoạt động chống chính phủ vì đã tham gia cuộc tuần hành do Đức Tổng Giám Mục Obando y Bravo tổ chức nhằm kêu gọi đoàn kết với Cha Luis Amado Peña, một linh mục bị chế độ buộc tội khủng bố.
Vai trò của Giáo Hội trong thoả thuận hòa bình
Trong những năm 1980, các cuộc đụng độ giữa FSLN và quân kháng chiến hay còn gọi là “Contras” khiến hàng chục nghìn người thiệt mạng. Vào ngày 7 tháng 8 năm 1987, Hiệp định Hòa bình Esquipulas II được ký kết tại Guatemala nhằm chấm dứt cuộc nội chiến ở Nicaragua và hướng đến một “nền hòa bình lâu dài” ở Trung Mỹ. Văn kiện kêu gọi các cuộc bầu cử đa đảng tự do và thành lập Ủy ban Hòa giải Quốc gia.
Đức Tổng Giám Mục Obando y Bravo và Giám Mục Phụ Tá lúc đó của tổng giáo phận Managua, là Đức Cha Bosco Vivas Robelo, đã tham gia vào ủy ban này.
Ortega tranh cử tổng thống trong cuộc bầu cử tháng 2 năm 1990 và bị đánh bại bởi Violeta Chamorro. Ortega tái tranh cử vào năm 1996 và 2001 nhưng không thành công.
Vào ngày 18 tháng 10 năm 1996, hai ngày trước cuộc bầu cử, Đức Hồng Y Tổng Giám Mục Obando y Bravo đã kể một câu chuyện – mà báo chí gọi là “câu chuyện ngụ ngôn về người chiến thắng” – khuyến khích người dân Nicaragua nên thận trọng và suy nghĩ về những gì tốt nhất cho đất nước.
Ortega giả vờ làm hòa với Giáo Hội Công Giáo
Sau khi thua trong cuộc bầu cử, Ortega – lúc đó đang lãnh đạo phe đối lập – biết rằng ông ta không thể chiến thắng nếu không làm hòa với Giáo Hội Công Giáo. Vào tháng 7 năm 2003, cựu du kích đã xin lỗi về những “thái quá” và “sai sót” của chính phủ ông ta đối với người Công Giáo trong những năm 1980.
Vào tháng 6 năm 2004, Ortega đề xuất đề cử Đức Hồng Y Obando y Bravo Giải Nobel Hòa bình, “để ghi nhận cuộc đấu tranh của ngài cho hòa giải dân tộc” và việc ký kết các hiệp định hòa bình chấm dứt cuộc nội chiến.
Tháng đó, Đức Hồng Y Obando y Bravo chấp nhận yêu cầu của Ortega muốn dâng Thánh lễ do Sandinista bảo trợ cho hàng ngàn người chết trong cuộc nội chiến.
Vào tháng 7 năm 2004, là một phần của lễ kỷ niệm 25 năm cuộc cách mạng Sandinista, Ortega đã công khai xin lỗi về những hành vi lạm dụng chống lại Giáo Hội Công Giáo trong chính phủ đầu tiên của ông và tuyên bố vụ bôi nhọ Cha Carballo là do Đảng Cộng sản Nicaragua dàn dựng.
Ortega trở lại nắm quyền vào năm 2007
Ortega đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử năm 2006 với 38% phiếu bầu nhờ những cải cách trong luật bầu cử, trong đó hạ tỷ lệ thắng cử tổng thống xuống còn 35% phiếu bầu, nếu có khoảng cách 5% so với vị trí thứ hai.
Vào tháng 2 năm 2007, Ortega mời Đức Hồng Y Obando y Bravo, lúc đó đã 81 tuổi, và là tổng giám mục hiệu tòa của Managua, chủ trì Hội đồng Hòa giải và Hòa bình Quốc gia do chính phủ mới của ông thành lập. Đức Hồng Y đã chấp nhận vị trí trên “cơ sở cá nhân” và có sự hỗ trợ của các giám mục.
Tuy nhiên, vào tháng 9 năm 2008, Đức Tổng Giám Mục Jorge Solórzano, của Matagalpa, cảnh báo rằng trong khi quan hệ với chính phủ có vẻ thân thiện, các biện pháp chống lại công việc của Giáo hội đã được dự đoán trước, chẳng hạn như loại bỏ trợ cấp của nhà nước cho các trường Công Giáo.
Vào tháng 11 năm đó, bạo lực lại bùng phát ở nước này sau những cáo buộc gian lận trong cuộc bầu cử thành phố đã trao 62% chức vụ thị trưởng trên toàn quốc cho FSLN. Các giám mục đã đưa ra một lời kêu gọi mạnh mẽ cho hòa bình.
Ortega tấn Công Giáo Hội Công Giáo một lần nữa
Đầu năm 2009, căng thẳng lại tiếp tục giữa chính phủ Sandinista và Giáo Hội Công Giáo. Vào cuối tháng 4, một email từ tổng thống Nicaragua đã gửi một tài liệu đến các phương tiện truyền thông mô tả các giám mục Nicaragua là tham nhũng, gây ra phản ứng chính thức từ hội đồng giám mục.
Vào tháng 6, Ortega cố gắng bịt miệng những lời chỉ trích mà một số giám mục đưa ra về chính phủ của ông bằng cách kêu gọi họ cầu nguyện thay vì bình luận về chính trị. Các giám mục trả lời rằng cầu nguyện là không đủ đối với những người đấu tranh cho công lý.
Vào tháng 4 năm 2010, khi khả năng Ortega tái tranh cử vào năm 2011 đang được tranh luận, các giám mục đã kêu gọi đất nước đối thoại và tố cáo “những hành vi vi phạm” đối với hiến pháp đặc biệt nghiêm cấm các nhiệm kỳ tổng thống kế tiếp.
Tuy nhiên, Tòa án Tư pháp Tối cao, với các thành viên Sandinista, đã cho phép Ortega tranh cử trong cuộc bầu cử được tổ chức vào ngày 6 tháng 11 năm 2011.
Trong bối cảnh này, Giám Mục Phụ Tá của Managua, Silvio José Báez, cảnh báo rằng Nicaragua đang trên đường “đi đến một chủ nghĩa toàn trị hữu hình hoặc bí mật” và yêu cầu sự hiện diện của các quan sát viên quốc tế.
Thư ký của Hội đồng Giám mục, Giám mục Sócrates René Sandigo, nói rằng với sự ứng cử này, đất nước thiếu pháp quyền và sự ngờ vực trong dân chúng đã tăng lên.
Gần một tháng trước cuộc bầu cử, một số giám mục cho biết đã nhận được những lời đe dọa.
Nhà lãnh đạo Sandinista đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử với hơn 62% số phiếu bầu, trong bối cảnh bị cáo buộc gian lận. Báo cáo của Trung tâm Carter cho biết, theo đánh giá của các nhà quan sát trong nước và quốc tế, các cuộc bầu cử “không minh bạch”.
Trong một tuyên bố, các giám mục nói rằng tính hợp pháp của các kết quả là “hoàn toàn đáng nghi ngờ.”
Giáo Hội Công Giáo phản đối việc tái tranh cử vô thời hạn
Sau nhiệm kỳ thứ ba, trong đó cũng có xích mích với các giám mục, Ortega quyết định tranh cử nhiệm kỳ thứ tư.
Vào tháng Giêng năm 2014, đa số các thành viên Sandinista trong Quốc hội đã thông qua việc sửa đổi hiến pháp cho phép Ortega tái tranh cử tổng thống vô thời hạn, là điều mà các giám mục chỉ trích. Cơ quan lập pháp cũng trao cho tổng thống quyền ban hành các sắc lệnh có hiệu lực luật pháp.
Vào tháng 6 năm 2016, Tòa giám mục đã kêu gọi Ortega bảo đảm rằng cuộc bầu cử ngày 6 tháng 11 sẽ diễn ra minh bạch và có sự hiện diện của các quan sát viên trong và ngoài nước.
Tuy nhiên, Ortega lại giành chiến thắng trong cuộc bầu cử với cáo buộc gian lận.
‘Chúng tôi là một Giáo hội bị đàn áp’
Cuộc khủng hoảng hiện tại ở Nicaragua bắt đầu vào tháng 4 năm 2018, trong nhiệm kỳ thứ tư của Ortega. Việc cải cách hệ thống y tế và lương hưu đã gây ra nhiều cuộc biểu tình khắp cả nước, bị cảnh sát đàn áp dữ dội và trong thời gian đó, nhiều giám mục và linh mục đã nhận được những lời đe dọa tử vong.
Trong bối cảnh này, Đức Tổng Giám Mục của Managua, Hồng Y Leopoldo José Brenes; và phụ tá của ngài, là Đức Cha Silvio José Báez; và Sứ thần Tòa thánh, Đức Tổng Giám Mục Waldemar Somertag, đã bị một đám đông ủng hộ chính phủ đánh đập khi đang thực hiện chuyến thăm mục vụ đến Tiểu Vương cung thánh đường Thánh Sebastian ở Diriamba, cách thủ đô 25 dặm.
Vào ngày 13 tháng 7 năm 2018, cảnh sát và quân cảnh đã bắn vào giáo xứ Lòng Thương Xót ở Managua, nơi những người trẻ tuổi phản đối chế độ đã đến lánh nạn.
Đức Cha Báez lên án “hành vi đàn áp tội phạm” đối với dân thường trên Twitter và yêu cầu cộng đồng quốc tế không được thờ ơ. Vị giám mục nói rằng “chúng tôi đã bắt đầu trở thành một Giáo hội bị đàn áp.”
Ngay sau đó, Giáo Hội Công Giáo đồng ý tham gia một lần nữa với tư cách là trung gian hòa giải trong các cuộc đàm phán quốc gia để giải quyết cuộc khủng hoảng khiến hàng trăm người thiệt mạng, nhưng các cuộc đàm phán đã bị đình chỉ.
Năm 2019, có một nỗ lực khác trong các cuộc đàm phán giữa chính phủ và phe đối lập, nhưng lần này Hội đồng Giám mục Nicaragua từ chối tham gia và yêu cầu “giáo dân là những người trực tiếp chịu trách nhiệm” cho quá trình này.
Vào tháng 3 năm 2019, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tiếp Đức Cha Báez trong một buổi tiếp kiến riêng tại Vatican. Hai tuần sau, Đức Hồng Y Brenes báo cáo rằng Đức Giáo Hoàng đã yêu cầu Đức Cha Báez chuyển đến Rôma vì sự an toàn của ngài. Hiện nay Đức Cha Báez định cư tại Hoa Kỳ.
Một năm sau, vào ngày 31 tháng 7 năm 2020, một trong những cuộc tấn công mang tính biểu tượng nhất chống lại Giáo hội đã xảy ra. Một cá nhân không rõ danh tính đã bước vào một trong những nhà nguyện bên trong Nhà thờ Managua và ném một quả bom lửa phá hủy hình ảnh nổi tiếng của Máu Châu Báu Chúa Kitô, một cây thánh giá 382 tuổi được người Nicaragua yêu quý.
Khi cuộc bầu cử tổng thống được tổ chức vào ngày 7 tháng 11 năm 2021, các ứng cử viên đối lập chính đã bị bỏ tù. Một ngày trước đó, hội đồng giám mục nói rằng mỗi công dân nên hành động để cân nhắc những gì là công bình nhất và tốt nhất cho đất nước.
Người ta ước tính rằng tỷ lệ dân chúng từ chối đi bỏ phiếu là 81,5%. Giám mục của León, René Sándigo, là giám mục duy nhất đi bỏ phiếu. Ortega tái đắc cử lần thứ tư liên tiếp với 75% số phiếu bầu.
Bishop Rolando Álvarez of Matagalpa, Nicaragua, is monitored by police in early August 2022. | Photo credit: Diocese of Matagalpa
Một giám mục bị quản thúc tại gia
Sau khi ra lệnh giải tán 100 tổ chức phi chính phủ, trục xuất các nữ tu Dòng Thừa Sai Bác Ái và đóng cửa một số cơ sở truyền thông Công Giáo, bọn cầm quyền hiện đã đưa giám mục của Matagalpa, là Đức Cha Rolando Álvarez, một trong những người chỉ trích mạnh mẽ nhất vào tầm ngắm.
Kể từ ngày 4 tháng 8, vị giám mục đã bị quản thúc tại nhà thờ cùng với năm linh mục, hai chủng sinh và ba giáo dân.
Vào ngày hôm đó, khi Nhà thờ cử hành lễ Thánh Gioan Mary Vianney, vị thánh bảo trợ của các linh mục giáo xứ, Đức Cha Álvarez đã ra bên ngoài với Mặt Nhật Mình Thánh Chúa và tố cáo rằng cảnh sát do Ortega cử đến đã không cho các linh mục của ngài và các cộng tác viên vào nhà nguyện để cử hành Thánh lễ.
Sau gần một giờ kêu gọi đối thoại và tôn trọng Giáo Hội Công Giáo, vị giám mục trở lại bên trong nhà thờ và cử hành Bí tích Thánh Thể với các phụ tá của mình.
Tuy nhiên, cùng buổi chiều hôm đó, cảnh sát chống bạo động đã chặn lối vào Tòa Giám Mục và không cho Đức Cha Álvarez rời khỏi Tòa Giám Mục. Trước đó, ngài đã mời các tín hữu đến nhà thờ Matagalpa để cử hành giờ thánh và Thánh lễ. Các nghi thức này đã không thể diễn ra.
Chế độ Sandinista đã đe dọa sẽ bỏ tù giám mục. Ngài nhận được sự bày tỏ tình đoàn kết từ các giám mục địa phương và từ một số quốc gia khác.
Luật sư Martha Patricia Molina Montenegro, thành viên của Đài quan sát Bảo vệ Minh bạch và Chống Tham nhũng, gần đây đã công bố một cuộc điều tra có tiêu đề “Nicaragua: một Giáo hội bị bức hại (2018-2022), “ghi lại 190 vụ tấn công và xúc phạm Giáo Hội Công Giáo tính đến tháng 5 năm nay.
Đối với những chuyên gia như Molina, không nghi ngờ gì rằng “chế độ độc tài” của Ortega “có một cuộc chiến trực diện chống lại Giáo Hội Công Giáo Nicaragua và mục tiêu của nó là xóa bỏ hoàn toàn tất cả những thể chế liên quan đến Giáo Hội.”
Trong quá khứ, Ortega đã gọi các giám mục là “những kẻ khủng bố” và “những con quỷ trong chiếc áo chùng thâm.”
Đặng Tự Do
2022
Người Công giáo trong tầm ngắm của Big Tech
Người Công giáo trong tầm ngắm của Big Tech
Một số trường hợp kiểm duyệt trực tuyến của Big Tech (Big Tech là các mạng xã hội khổng lồ như Google, Facebook, Twitter, Instagram, YouTube…) gần đây đã làm dấy lên mối quan ngại. Sự thiếu minh bạch từ các mạng xã hội này khiến cho người ta nghi ngờ về sự cố tình trù dập những bài đăng mang tính Công giáo.
Saintly Heart là một cửa hàng trực tuyến sản xuất và bán các đồ chơi Công giáo cho trẻ em mua về để tìm hiểu cách vui vẻ về các vị thánh. Rõ ràng, đó không phải là nơi làm ra các loại vật dụng có “tư thế khiêu dâm quá mức”.
Vậy mà, theo Instagram, cửa hàng Saintly Heart đã làm việc này! Vào ngày 22-1-2021, chủ sở hữu của Saintly Heart là bà Maggie Jetty đã nhận được một thông báo nói rằng: Instagram đã xóa một “hashtag” của một bài do bà Maggie Jetty đăng trên Instagram hơn một tháng trước về một sản phẩm của Saintly Heart. Sản phẩm bị cho là có “tư thế khiêu dâm quá mức”. Và sản phẩm đó lại là một bức tượng Đức Mẹ Guadalupe bằng gỗ nho nhỏ!
Jetty nói với tờ Register: “Tôi đã bị sốc vì tôi chưa bao giờ có bất kỳ vấn đề nào với Instagram”. Bà lưu ý rằng: điều trớ trêu là một hình ảnh về Đức Mẹ Guadalupe – Đấng Bảo trợ cho trẻ em – lại bị ‘gắn cờ khiêu dâm’ vào đúng ngày Giáo hội đặc biệt cầu nguyện cho việc bảo vệ các thai nhi.
Bà Jetty ngay lập tức yêu cầu Instagram xem xét lại quyết định. Tuy nhiên, cho đến nay, hơn ba tuần sau khi sự việc xảy ra, bà vẫn chưa nhận được phản hồi.
Về bản chất, những gì đã xảy ra với Saintly Heart có thể dễ dàng bị coi là một “trò lố” của các thuật toán được các mạng xã hội sử dụng để lọc các nội dung phản cảm.
Trong thực tế, các mặt hàng Công giáo không phải là sản phẩm duy nhất bị gắn thẻ nhầm là “kích dục quá mức”, ví dụ như bức ảnh chụp hành tây Walla Wallatrong giỏ đan bằng liễu gai, nhận được sự đối xử tương tự từ các thuật toán của Facebook vào tháng 10-2020. Tuy nhiên, một loạt các trường hợp kiểm duyệt tương tự gần đây đã ảnh hưởng đến các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân Công giáo, và đang làm dấy lên nỗi lo ngại về khả năng Big Tech có thiên kiến kỳ thị đối với Công giáo và các quan điểm tôn giáo truyền thống.
Ngoài Saintly Heart, một số doanh nghiệp Công giáo khác cũng cho biết: sản phẩm của họ bị chặn trên mạng xã hội vì lý do “không phù hợp”, thường là vài tháng sau khi những sản phẩm ấy lần đầu tiên được đưa lên thị trường kỹ thuật số. Chẳng hạn, một quảng cáo về nhãn dẻo “Rest in Him” của Just Love Printsđã bị Facebook kiểm duyệt vì cho rằng có nội dung “khiêu dâm”! Một số công ty khác đăng hình ảnh của các vị thánh lại bị ‘gắn cờ’ là “khuyến khích tiêu thụ rượu”, dù người ta không hề thấy có chai rượu nào bên cạnh hình ảnh của các vị thánh này.
Kiểm duyệt quan điểm
Các trường hợp kiểm duyệt trực tuyến gần đây dường như không chỉ do những lỗi thuật toán không cố ý. Một số sản phẩm của nhà xuất bản Công giáo TAN Books đã gặp khó khăn từ mạng xã hội. Tác phẩm ‘The Anti-Mary Exposed‘ của Carrie Gress đã bị xóa khỏi tài khoản Instagram và Facebook của một cửa hàng quà tặng Công giáo vào tháng Giêng – gần một năm sau khi nó được đăng lần đầu tiên – sau khi bị gắn cờ là “sản phẩm dành cho người lớn”!
Tác phẩm Motherhood Redeemed của Kimberly Cook và tác phẩm The Devil and Karl Marx của Paul Kengor – được quảng cáo trên Facebook của TAN – gần đây đã bị gỡ xuống. Tác phẩm Motherhood Redeemed bị Facebook cho là vi phạm “chính sách nội dung giật gân”. Còn tác phẩm The Devil and Karl Marxbị Facebook cho là có liên quan đến chính trị trong cuộc tổng tuyển cử được tổ chức cách đây nhiều tháng.
Có lẽ nghiêm trọng nhất là tác phẩm Các Chặng Đường Thánh Giá của Regina Doman, được mô tả dưới dạng hoạt hình không đẫm máu về Chúa Giêsu chịu đóng đinh – mang tính biểu tượng và được phổ biến nhiều nhất trong lịch sử thế giới – đã bị gỡ xuống vì bị mạng xã hội cho là chứa đựng “nội dung giật gân, kích động hoặc bạo lực quá mức”!
Một trong những trường hợp kiểm duyệt quan điểm trơ trẽn và rõ ràng nhất là tài khoản Twitter của Catholic World Report (CWR) đã bị đình chỉ sau khi đăng một đoạn tweet của Cơ quan Thông tấn Công giáo mô tả Tiến sĩ Rachel Levine – người được Tổng thống Joe Biden đề cử làm trợ lý thư ký của Dịch vụ Y tế và Nhân sinh – là “đàn ông về mặt sinh học, trở thành một phụ nữ chuyển giới.”
Tài khoản của CWR đã bị khóa vào ngày 24-1-2021 vì Twitter cho rằng dòng tweet trên đây đã vi phạm các quy tắc của Twitter về “hành vi gây thù hận”, vì CWR đã nói rằng Levine là “đàn ông về mặt sinh học”. Vào ngày 27-1-2021, Twitter đã phản hồi đơn khiếu nại của CWR, xác định rằng “đã có vi phạm và do đó chúng tôi sẽ không lật lại quyết định của mình”!
Vào ngày 29-1-2021, Twitter đã đổi ý và gỡ bỏ lệnh tạm ngưng cho CWR, nhưng không đưa ra lời giải thích trực tiếp cho CWR, chỉ nói với Cơ quan Thông tấn Công giáo rằng “hành động đình chỉ của Twitter là do nhầm lẫn và đã sửa sai”. Nhưng Carl Olson, biên tập viên của CWR, nhận xét rằng: sự thay đổi chỉ xảy ra sau khi câu chuyện bắt đầu được lan truyền, tạo ra sự phản đối chống lại ‘gã truyền thông xã hội khổng lồ’ này từ nhiều nguồn như Liên đoàn Công giáo và thậm chí từ cả các nguồn tin thế tục.
Khi được hỏi liệu ông có nghĩ tài khoản Twitter của CWR sẽ được khôi phục nếu không bị phản đối kịch liệt, Olson trả lời rằng: “Tôi sẽ phải nói là Không. Tôi phải nghĩ rằng, nếu không ai để ý đến nó và nếu chúng tôi không đề cập đến nó, thì tôi nghĩ rằng tài khoản sẽ bị khóa vĩnh viễn vì đã không đồng ý xóa tweet mà Twitter cho là vi phạm.”
Olson cho biết ông không ngạc nhiên khi dòng tweet này ban đầu bị dán nhãn là “thù hận”, do khuynh hướng toàn trị của hệ tư tưởng chuyển giới, vốn coi bất kỳ sự bất đồng nào với hệ tư tưởng này về quan niệm tính dục thì đều là hình thức bạo lực. Ông cho biết quan điểm này có ảnh hưởng lớn đến các nhân viên của Big Tech – được ghi nhận là cấp tiến và phi tôn giáo hơn nhiều so với công chúng Mỹ.
Ông cho biết những gì CWR đã trải qua là một phần của mô hình gây hấn sau bầu cử, đã phổ biến hơn từ các nền tảng Big Tech chống lại những người có quan điểm đối lập.
Olson nói với Register: “Tôi nghĩ đó thực sự là một phần của những gì đang diễn ra. Đấy là cách thử nghiệm xem những người bị chặn hoặc bị cảnh báo sẽ phản hồi như thế nào.”
Mary Eberstadt – Chủ tịch Panula tại Trung tâm Thông tin Công giáo và một thành viên cấp cao tại Viện Đức tin và Lý trí – cũng đánh giá tương tự. Viết cho Newsweek, bà gợi ý với Tổng thống Biden rằng “cuộc bầu cử của ông đã khuyến khích các đồng minh tự do và tiến bộ của ông nhắm tới mục tiêu tẩy chay và trừng phạt một nhóm ‘sa đọa’ mới: những người Công giáo của ông.” Eberstadt kêu gọi Tổng thống “hãy nói với các đồng minh cấp tiến của ông và mọi người khác rằng: định kiến vẫn là định kiến – ngay cả khi nó nhắm vào những người không bỏ phiếu cho ông.”
Thiếu minh bạch
Không thể phủ nhận rằng, gần đây, nhiều tiếng nói Công giáo đã bị ‘bộ lọc nội dung’ của Big Tech chặn lại. Nhưng các câu chuyện trên đây có nhất thiết xác định rằng: đang có khuynh hướng – ngấm ngầm được hệ thống hóa – nhằm chống lại người Công giáo và các quan điểm truyền thống khác – trong cách thức Big Tech kiểm duyệt nội dung với các thuật toán của họ – hay không?
Bovard – giám đốc chính sách cấp cao tại Viện Đối tác Bảo thủ – nói với Register: “Thật khó mà xác định được điều này, và đó chính là vấn đề cần được nêu ra. Bởi vì không có sự minh bạch, các điều khoản kiểm duyệt của Big Tech thì rất mơ hồ và không có chi tiết thực tế về cách thức hoạt động của các thuật toán do Big Tech thực hiện, nên chúng tôi đang phải ‘vò đầu bứt trán’!”
Bovard – cũng là cố vấn cấp cao cho Dự án Giải trình trên Internet – đã làm chứng về sự thiên vị của Big Tech trước Tiểu ban của Hạ viện Hoa Kỳ về Luật chống độc quyền, thương mại và hành chính vào tháng 10-2020. Bà nói: Sự thiếu minh bạch – trong việc Big Tech ra quyết định và thực hiện các thuật toán kiểm duyệt nội dung – khiến cho khó có thể kiểm chứng để buộc tội sự thiên vị của Big Tech.
Lời khai của Bovard cũng trích dẫn Mark MacCarthy – thành viên cấp cao tại Viện Luật Công nghệ và Chính sách Công tại Đại học Georgetown – là người đã gợi ý rằng: Big Tech có thể xóa tan những cáo buộc thiên vị bằng cách cho phép các nhà nghiên cứu kiểm tra các hoạt động nội bộ của họ liên quan đến việc kiểm duyệt nội dung và thuật toán trên toàn hệ thống – một giải pháp gợi ý mà Bovard lưu ý rằng chưa có công ty nào theo đuổi.
Nói với tờ Register, Bovard cho rằng: Sự thiếu minh bạch là có chủ ý, cho phép những gã truyền thông xã hội khổng lồ tiến xa trong việc ra tay kiểm duyệt nội dung vi phạm các quan điểm chính trị của họ, núp đằng sau bức màn tiêu chuẩn cộng đồng mơ hồ. Một ví dụ nổi bật gần đây là việc chặn một bài báo trên tờ New York Post vào tháng 10 – cáo buộc rằng Biden có liên quan đến việc con trai Hunter của ông có các giao dịch kinh doanh với các công ty năng lượng nước ngoài. Tài khoản Twitter của bài đăng ban đầu đã bị khóa với lý do rằng câu chuyện này dựa trên thông tin thu được một cách bất hợp pháp – một tiêu chuẩn được áp dụng không nhất quán trên toàn bộ mạng xã hội này.
Một trường hợp nổi tiếng khác gần đây là lệnh cấm vĩnh viễn cựu Tổng thống Donald Trump khỏi Facebook và Twitter vì bị cáo buộc kích động bạo loạn diễn ra tại Điện Capitol của Hoa Kỳ vào ngày 6-1-2021, một động thái mà những ‘gã công nghệ khổng lồ’ này chưa hề thực hiện như thế với các nhà lãnh đạo ở bất kỳ một quốc gia nào khác, chẳng hạn đã không thực hiện điều đó với Ayatollah Ali Khamenei của Iran – người đã kêu gọi thực hiện bạo lực chống lại Israel.
Hậu quả và biện pháp khắc phục
Ngay cả khi không có quyền truy cập vào các hoạt động nội bộ của họ, Bovard cho biết có “nhiều bằng chứng” cho thấy các Big Tech đã có thiên lệch về quan điểm. Với mức độ kiểm soát mà các công ty này áp dụng đối với quyền truy cập thông tin và cuộc trò chuyện công khai, bà cho biết chế độ kiểm duyệt của Big Tech là mối đe dọa cho một xã hội tự do và cho cả những người có tôn giáo muốn làm chứng công khai về đức tin của mình. “Khi quan điểm của người khác bị loại bỏ, khả năng truyền giáo của chúng ta sẽ bị hạn chế;” – Bovard, một người Công giáo, nói.
Mặc dù các công ty như Facebook, Twitter và Google đều thuộc sở hữu tư nhân, Bovard cho rằng sự can thiệp của chính phủ là chính đáng vì hai lý do.
Một là, bà cho biết Mục 230 của Đạo luật về Truyền thông – một biện pháp cung cấp các dịch vụ mạng xã hội với quyền miễn trừ trách nhiệm dân sự đối với nội dung được đăng trên nền tảng của họ – “tương đương với sự trợ giúp”, khiến cho các công ty này “có đặc quyền là các tác nhân của Tu chính án đầu tiên”, trong khi các hãng phim, báo chí và các nhà xuất bản khác lại không thể được như thế mà không có hậu quả.
Quan trọng hơn, Bovard gợi ý, khả năng ảnh hưởng đến cuộc trò chuyện rộng lớn hơn của các công ty tư nhân này thể hiện mối quan tâm chính đáng của công chúng.
“Vì vậy, việc chính phủ cần vào cuộc và nói: ‘Không, Big Tech, bạn không được quyết định cách chúng tôi sống cùng nhau. Bạn không được quyết định về những thông tin chúng tôi truy cập.’ – Đó là điều mà chúng ta [với tư cách là một xã hội] phải quyết định.” Bovard nói thêm rằng sự can thiệp của chính phủ trong một kịch bản như vậy là hoàn toàn phù hợp với cách hiểu truyền thống rằng chính phủ có vai trò hợp pháp, mặc dù hạn chế, trong việc bảo tồn xã hội tự do.
Về các biện pháp khắc phục, Bovard và những người Công giáo khác – như Rick Santorum, cựu Thượng nghị sĩ Pennsylvania – bày tỏ lo ngại về việc hủy bỏ hoàn toàn các biện pháp bảo vệ Mục 230, cho thấy nó có thể trao cho một chính phủ – do những người tiến bộ kiểm soát – một quyền lực chưa từng có, để kiểm duyệt các bài phát biểu trên mạng xã hội.
Thay vào đó, bà khuyến nghị thực thi nhiều hơn luật chống độc quyền của liên bang, cấm sự độc quyền của các công ty ‘chuyên tìm cách nuốt chửng các công ty nhỏ hơn’, một luật mà bà tin rằng cần áp dụng cho các Big Tech như Facebook và Twitter, đặc biệt khi gần đây họ đã xóa sổ công ty Parler khỏi thị trường.
Bovard nói: “Chúng ta đã không tha thứ cho những kẻ vi phạm pháp luật khác. Tại sao chúng ta lại tha thứ cho Big Tech? Họ đang vi phạm pháp luật.”
Việc thực thi luật chống độc quyền đối với Big Tech không nhất thiết có nghĩa là buộc phải chia tay các công ty này. Bovard cho biết chính phủ cũng có thể theo đuổi “biện pháp khắc phục hành vi”, điều này sẽ hạn chế khả năng của các Big Tech trong việc sử dụng nguồn tài chính khổng lồ của họ để hạn chế cạnh tranh trên thị trường. Một ví dụ về hành vi như thế, đó chính là khả năng Google trả số tiền cắt cổ để tự biến mình trở thành công cụ tìm kiếm mặc định chính yếu trên điện thoại và trình duyệt web, đánh bật đối thủ một cách hiệu quả.
Các câu hỏi giám sát Big Tech dự kiến sẽ được đưa ra trước Quốc hội kỳ họp này, với sự ủng hộ đáng kể của lưỡng đảng đối với Đạo luật Bảo tồn và Cạnh tranh Báo chí. Một đề xuất khác, Đạo luật ‘thực thi luật chống độc quyền và cạnh tranh’ năm 2021, sẽ đưa ra cải cách sâu rộng hơn đối với luật chống độc quyền của Hoa Kỳ.
Tham gia vào ‘Quảng trường công cộng’
Đối với một số người Công giáo, việc Big Tech leo thang kiểm duyệt cách tiềm tàng đối với các quan điểm tôn giáo truyền thống là không điều không đáng gây ngạc nhiên; nhưng đó cần phải là dấu hiệu cho thấy người Công giáo nên tìm kiếm các nền tảng khác để chia sẻ quan điểm của họ.
Một blogger của National Catholic Register là ông Matthew Archbold – cũng là blogger của Creative Minority Report.com – cho rằng: người Công giáo đã mắc sai lầm khi từ bỏ blog để chạy theo các mạng xã hội trong thập kỷ vừa qua. Những khó khăn gần đây với các mạng xã hội có thể là chất xúc tác cho sự trở lại với blog – mà ông cho rằng đây là một cách giao tiếp nhân văn hơn và ít bốc đồng hơn trên internet.
Archbold gần đây đã viết cho Register: “Tôi không nói rằng chúng ta nên đăng xuất hoàn toàn khỏi Facebook hoặc Twitter. Nhưng tôi nghĩ rằng viết blog về những suy nghĩ của bạn hoặc chia sẻ kinh nghiệm thực tế của bạn sẽ tốt hơn nhiều so với những hành động nóng vội. Một bài đăng trên blog có thể đi vào chiều sâu, trong khi một tweet thì rất hạn chế.”
Tuy nhiên Bovard nói rằng: Tất cả đều có thể trở thành “nơi trú ngụ” của các nhân chứng Kitô giáo và người Công giáo nên “công bố các chân lý Tin Mừng một cách thật tỏ tường và ở bất cứ nơi nào có thể được.”
“Là những người có đức tin, chúng ta cũng có quyền đến các ‘quảng trường công cộng’ như những người khác,” bà nói. “Và ở Mỹ, quốc gia vĩ đại nhất trên thế giới được thành lập dựa trên chủ nghĩa đa nguyên, chúng ta cần đấu tranh cho sự tự do ngôn luận và tự do tôn giáo.”
Về phần mình, nhà báo Olson của tờ ‘Phóng sự Thế giới Công giáo’ đã thực hiện cách tiếp cận ở mọi nơi. Mặc dù có một số người Công giáo cảm thấy mình được kêu gọi tham gia vào mạng xã hội với tư cách là một tông đồ, nhưng Olson cho rằng: đây không nhất thiết là một yêu cầu cho tất cả mọi người. Ngoài ra, ông kêu gọi những người Công giáo nào cảm thấy được kêu gọi tham gia vào các mạng xã hội: hãy xem xét cái giá tiềm ẩn phải trả về mặt tinh thần – chứ không chỉ về mặt chính trị và xã hội – và gợi ý rằng những người khác nên khám phá “những cách sáng tạo cho những công việc của riêng mình.”
Bà Jetty – chủ nhân của cửa hàng trực tuyến Saintly Heart – đã cho thấy sự trớ trêu của những ‘gã truyền thông xã hội khổng lồ’ khi họ ‘hạ bệ’ các vị thánh bằng cách hạn chế khả năng tiếp cận kinh doanh của bà ấy, vì mạng xã hội có xu hướng quảng bá tất cả các lối sống thế tục mà không hề hạn chế. Bà cho biết, bà mong muốn cung cấp mẫu gương hấp dẫn cho những người trẻ ngày nay – đây là lý do chính khiến bà xây dựng cửa hàng Saintly Heart. Và vì vậy, bà sẽ tiếp tục tiếp thị trên Facebook và Instagram, trong phạm vi có thể.
Bà nói: “Trẻ nhỏ của chúng ta cần những gương mẫu tốt. Các em cần tìm hiểu về đức tin ngay khi còn bé; các em đang học rất nhiều về cuộc sống trên mạng xã hội mà đó lại không phải là nơi tuyệt vời cho các em”.
Jonathan Liedl
Vi Hữu lược dịch