2023
Từ Bergoglio đến Phanxicô: đổi mới và truyền thống của một giáo hoàng trong lịch sử
Đức Gioan-Phaolô II và hồng y Bergoglio tại công nghị năm 2001
Một tài liệu được giáo sư Massimo Borghesi biên tập và được nhà xuất bản Studium phát hành, thu thập các ý kiến của mười bốn chuyên gia về nhiều chủ đề liên quan đến giáo hoàng. Từ mối quan hệ với các vị tiền nhiệm, đến mối quan hệ với vùng ngoại vi, với văn hóa Nam Mỹ, và đến vai trò của ngài trên chính trường quốc tế.
vaticannews.va, Michele Raviart, Vatican, 2021-02-10
Kể lại mười năm sâu đậm, đôi khi đầy kịch tính trong triều giáo hoàng Phanxicô bắt đầu từ kinh nghiệm của ngài ở Buenos Aires đến việc hình dung ra tương lai của Giáo hội. Đây là điều mà mười bốn chuyên gia và học giả đề xuất trong các tiểu luận của họ được thu thập trong tập “Từ Bergoglio đến Phanxicô. Một triều giáo hoàng trong lịch sử”, được giáo sư Massimo Borghesi, giáo sư triết học luân lý tại Đại học Perugia biên tập, được nhà xuất bản Studium phát hành và giới thiệu hôm qua tại Đại học Lumsa ở Rôma.
Từ mối quan hệ với những vị tiền nhiệm, đến mối quan hệ với các vùng ngoại vi và văn hóa Nam Mỹ, đến sự đóng góp của Fratelli Tutti và vai trò trên chính trường quốc tế, mục tiêu là để hiểu giáo hoàng Phanxicô đổi mới như thế nào và trong sự tiếp nối với truyền thống.
Giáo hội truyền giáo và Giáo hội mở ra của Đức Phanxicô
Giáo sư Massimo Borghesi giải thích: “Sự đóng góp ban đầu chắc chắn nằm ở việc phục hồi một Giáo hội đã thu vào chính mình và như chính Đức Phanxicô từng nói, như thế là có nguy cơ thành ‘giáo quyền’, để khởi động lại Giáo hội trong viễn cảnh truyền giáo và mở ra như Đức Phanxicô thường nhấn mạnh: ‘Đó là phạm trù của một Giáo hội ra đi, một Giáo hội là bệnh viện dã chiến, tiêu chuẩn cho một chiều kích đức tin mà toàn thể Giáo hội được mời gọi khám phá lại’. Và đây là chiều kích người nghèo, đi theo trục lộ chính là lòng thương xót, mà đức tin có thể đến được với con người hiện đại.”
Tornielli: Con đường của lòng thương xót và gặp gỡ
Trên thực tế, con đường của lòng thương xót như ông Andrea Tornielli, giám đốc biên tập của Bộ Truyền thông nhấn mạnh, là một trong những chìa khóa để giải thích triều của ngài. Một khái niệm đã được nói lên trong giờ Kinh Truyền Tin đầu tiên ngày 17 tháng 3 năm 2013 và sau đó được lặp lại trong Năm Thánh ngoại thường dành cho chủ đề lòng thương xót. Lòng thương xót không phải chỉ là một ‘việc tốt’ và không bao giờ là đủ, vì như một bà cụ muốn được giám mục phụ tá giáo phận Buenos Aires, Bergoglio lúc đó giải tội, bà nói, “nếu Thiên Chúa không tha thứ, thì cả thế giới này sẽ không tồn tại”. Bản thân Giáo hội, như chính Đức Phanxicô nhắc lại, không ở trong thế giới để lên án nhưng để cho phép cuộc gặp chủ yếu với lòng thương xót của Thiên Chúa. Như thế phải trở về với loan báo đầu tiên, vì tình yêu đến trước cuộc gặp và lòng thương xót Chúa, đó là việc rao giảng Tin Mừng đầu tiên.
Buttiglione: nối tiếp với Đức Gioan Phaolô II
Ông Rocco Buttiglione, cựu Bộ trưởng Di sản và Hoạt động Văn hóa Ý, nhấn mạnh cuộc gặp với Chúa Kitô là vấn đề của tình yêu. Thật vậy, một người trở thành kitô hữu khi họ đặt trung tâm cảm xúc của mình vào Chúa Kitô, một khái niệm không trừu tượng, nhưng được thực hiện với cuộc gặp với các tín hữu kitô cụ thể, sau đó là với Giáo hội. Trong bài tiểu luận của mình, ông Buttiglione nhấn mạnh một số điểm liên tục giữa Đức Phanxicô và Đức Gioan Phaolô II, ông cố gắng vượt qua một số khuôn mẫu. Trong chuyến tông du quốc tế đầu tiên của giáo hoàng Wojtyla tới Mexico năm 1979, sự đóng góp của nhóm các nhà thần học thân cận với Bergoglio rất quan trọng, với các bài phát biểu lên án thần học giải phóng lệch lạc của chủ nghĩa mác-xít, đồng thời nhìn nhận sự cần thiết của một thần học đặc thù cho châu Mỹ Latinh. Về vấn đề người ly dị, việc mở ra với tông huấn Niềm vui Tình yêu, Amoris Laetitia không gì khác hơn là hệ quả của con đường mà Đức Gioan Phaolô II đã bắt đầu với việc hủy bỏ vạ tuyệt thông.
Pierangeli: Những nhà văn yêu thích của Đức Phanxicô
Giáo sư Fabio Pierangeli, giáo sư văn học tại Đại học Rôma Tor Vergata và là tác giả của một bài tiểu luận dành riêng cho chủ đề này, là một trong số các nhà văn yêu thích của Đức Phanxicô, ông nói: “Borges, Camus, Hưlderling là những nhà văn yêu thích của Đức Phanxicô. Nếu tôi phải chọn một từ liên kết họ với nhau, thì đó sẽ là ‘bồn chồn’, một từ mà Đức Phanxicô triển khai trong hướng đi tới đức tin của ngài. Còn tác giả Ý thì có Manzoni, tôi nghĩ đến trang tuyệt vời Không tên, một trong những trang Đức Phanxicô nghiên cứu nhiều nhất và luôn theo sát ngài như lời cảnh báo về nhận thức một cuộc gặp mà với ngài, nó đã thay đổi cuộc đời ngài.” Ông kết luận: “Trong các bài phát biểu của ngài có hai yếu tố, những trích dẫn trực tiếp từ những tác giả này và sau đó là tính văn học làm chúng ta nhận ra, dù ngài không trích dẫn chúng, sự có mặt của các tác giả này trong các bài phát biểu của ngài. Vì vậy, có hai hướng dẫn: những trích dẫn rõ ràng từ các nhà thơ châu Âu và Argentina và những trích dẫn khó hiểu hơn một chút là một phần trong nền tảng văn hóa của ngài.”
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
2023
Đức Phanxicô là mục tử của thế giới
Đức Phanxicô chào một bà lớn tuổi ở khu dân cư nghèo ở Asuncion, Paraguay ngày 12 tháng 7 năm 2015. Ảnh CNS/Paul Haring
ncroline.org, Michael Sean Winters, 2023-02-13
Một tháng kể từ hôm nay sẽ là ngày đánh dấu kỷ niệm 10 năm bầu chọn Đức Phanxicô. Trong những tuần sắp tới, tôi sẽ viết một số bài để suy ngẫm về thập kỷ đáng kể này trong lịch sử giáo hoàng. Đây không phải là một bài cáo phó sớm. Tôi cũng sẽ giải thích trong 10 năm qua lịch sử đã vẽ như thế nào về những gì chúng ta có thể mong chờ ở giáo hoàng khi ngài bắt đầu thập kỷ thứ hai lèo lái chiếc thuyền Phêrô.
Điểm nổi bật đầu tiên là cách tiếp xúc của Đức Phanxicô trong chức vụ giáo hoàng là tính nhạy cảm mục vụ của ngài. Đây là điều làm cho ngài nổi bật vào đêm đầu tiên khi ngài được bầu năm 2013. Sau khi chào đám đông bằng câu “chào buổi chiều, buona sera” và nói các hồng y đã đi “tận cùng thế giới” để tìm một giám mục mới cho Rôma, ngài xin mọi người cầu nguyện cho ngài, cho giáo hoàng danh dự Bênêđictô XVI tiền nhiệm của ngài. Sau đó, ngài xướng Kinh Lạy Cha, Kính Mừng và Sáng Danh ở Quảng trường Thánh Phêrô, những kinh mà cả trẻ em cũng thuộc. Trước khi ban phép lành, ngài xin mọi người cầu nguyện cho tân giám mục của họ, ngài nghiêng mình cúi đầu và để thinh lặng bao phủ đám đông khổng lồ ở đây. Tiếp theo ngài nói lời chúc phúc và chúc mọi người ngủ ngon.
Ngày hôm sau, chúng ta biết ngài sẽ không ở dinh tông tòa mà về ở Nhà trọ Thánh Marta, nhà khách dành cho các giáo sĩ vãng lai khi họ có việc về Vatican. Điều này nói lên tinh thần khó nghèo của ngài. Căn hộ của giáo hoàng ở dinh tông tòa thật sự không đặc biệt sang trọng. Bức họa Raphael và các căn hộ Borgia mà khách du lịch có thể ghé thăm trong chuyến thăm bảo tàng Vatican đều sang trọng, nhưng căn hộ của giáo hoàng thì không. Và Đức Phanxicô cho biết, việc ngài dọn về ở Nhà trọ Thánh Marta là ngài muốn được ở gần mọi người.
Ngay từ đầu triều giáo hoàng, ngài đã tạo xôn xao khi, trong cuộc họp báo trên chuyến bay từ Brazil về Rôma, ngài nói về các linh mục đồng tính. “Nếu ai đó là người đồng tính và họ có thiện tâm đi tìm Chúa thì tôi là ai để phán xét?” Đầu óc nổ tung, mọi người ngạc nhiên! Làm sao một giáo hoàng lại có thể nói như vậy? Những nhà phê bình bảo thủ tỏ ra “bối rối”, nhưng phần còn lại của chúng tôi, chúng tôi nhận ra đây là một mục tử thực sự quan tâm đến việc khuyến khích mọi người hơn là phán xét họ.
Sau đó ngài giảng lễ mỗi ngày ở Nhà nguyện Thánh Marta và Vatican đăng bài giảng tóm tắt. Các bài giảng là nồng ấm, dễ đọc. Có một mức độ dày đặc trong bài giảng của Đức Bênêđictô XVI, nhưng với Đức Phanxicô thì không. Điều đó không có nghĩa các bài giảng của ngài nhẹ nhàng. Nhưng ngược lại nó có một mức độ triệt để. Sở trường của ngài là đi vào trọng tâm vấn đề và vì thế tạo được tiếng vang nơi người ngồi nghe.
Một trong những bài giảng tôi yêu thích là bài giảng ngày 15 tháng 12 năm 2014, khi ngài giảng về các thầy cả chất vấn Chúa Giêsu về thẩm quyền nào mà Chúa Giêsu giảng dạy. Ngài nói về sự quá thận trọng của mỗi thời: “Đây là vở kịch đạo đức giả của dân tộc này. Chúa Giêsu không bao giờ nhân nhượng với trái tim Con Thiên Chúa của mình, nhưng Ngài cởi mở với dân chúng, luôn tìm con đường để giúp họ. Họ: “Nhưng điều này không thể làm được; kỷ luật của chúng tôi, học thuyết của chúng tôi nói rằng điều này không thể làm được! Tại sao các môn đệ của ông ăn lúa trên cánh đồng ngày sa-bát, không thể được!” Kỷ luật của họ quá cứng nhắc: “Không, không được đụng vào kỷ luật, kỷ luật là thiêng liêng.” Ngài thú nhận: “Khi tôi thấy một tín hữu kitô thuộc loại này, với một trái tim mềm yếu, không vững vàng, không bám trên đá là Chúa Giêsu, với sự cứng nhắc bên ngoài của họ như vậy, tôi xin Chúa: ‘Nhưng lạy Chúa, xin xin Chúa để vỏ chuối trước mặt họ, để họ ngã, họ xấu hổ vì mình là kẻ tội lỗi, làm cho họ đi tìm Chúa, nhận ra Chúa là Đấng Cứu Rỗi’. Thường thường tội lỗi làm chúng ta cảm thấy xấu hổ, và làm chúng ta đi tìm Chúa, Đấng tha thứ cho chúng ta, như những người bệnh đã ở đó, họ đến xin Chúa chữa lành.”
Tôi nhớ tôi đã bật cười thành tiếng khi ngồi trước máy tính và đọc đoạn vỏ chuối này!
Đôi khi, phong cách mục vụ của giáo hoàng làm cho những người theo chủ nghĩa tự do cảm thấy khó chịu. Ngay từ đầu triều, rõ ràng ngài thường đề cập đến ma quỷ nhiều hơn là các tiền nhiệm sau công đồng của ngài. Xem sự dữ như một điều gì đó được nhân cách hóa không phải là cách mà hầu hết những người hiện đại nghĩ về sự dữ, nhưng Chúa Giêsu không có cùng đắn đo như vậy. Lòng đạo đức bình dân, đặc biệt là nơi những người thực sự bị gạt ra bên lề luôn có ý tưởng, cái ác hiện diện theo cách gợi ý về một nhân cách hóa mạnh mẽ siêu việt.
Chúng ta không còn thấy ngài ở giữa đám đông như những năm đầu tiên. Đầu gối đau của ngài làm cho ngài đi đứng khó khăn. Nhưng hình ảnh ngài dừng xe giáo hoàng để các cha mẹ bồng con cho ngài ban phép lành, hoặc bước ra khỏi xe để gần gũi thăm hỏi người bị biến dạng nghiêm trọng, những hình ảnh này cho thấy ngài đã dấn thân vào thế giới bằng con mắt của Chúa Giêsu. Khó có thể tìm ra một định nghĩa nào tốt hơn về một mục tử hơn là định nghĩa đó, đến với mọi người bằng con mắt của Chúa Giêsu.
Đức Phanxicô dừng lại để hôn một em bé khi ngài đi trên xe giáo hoàng ở Hội trường Độc lập ngày 26 tháng 9 năm 2015 ở Philadelphia. (CNS/Reuters/Jim Bourg)
Một phẩm chất đáng lưu ý của ngài là ngài chỉ dành những lời cay nghiệt cho những người đạo đức giả và những chiếc áo nhồi bông, hay nói đúng hơn là những chiếc áo chùng nhồi bông. Với dân Chúa, ngài quảng đại và thông cảm. Còn với âm mưu của Giáo triều la-mã thì không.
Sự bất công cũng làm cho ngài nổi giận, nhưng nó không bắt nguồn từ một cam kết cao cả nào để có một trật tự xã hội khác, nhưng từ kinh nghiệm của ngài với tình trạng nghèo đói cùng cực, đầu tiên là ở các khu ổ chuột ở Buenos Aires và bây giờ là ở các khu ổ chuột khác nhau trên toàn thế giới, gần đây nhất là ở châu Phi. Ngài tố cáo kinh tế học tân tự do không phải từ quan điểm kinh tế mà từ quan điểm con người, từ những gì con người làm, chứ không từ các lý thuyết của nó. Ngài hiểu và yêu thương những người bị bỏ rơi bên lề đường sau khi gặp những tên cướp Giêricô tân tự do. Có phải chỉ có tôi nghĩ thế, hay dường như ngài có vẻ thoải mái hơn khi ở nhà giữa những người nghèo cùng cực hơn là ở các buổi lễ chào đón ở sân bay khi xung quanh ngài là những người có quyền lực và các người cầm quyền của họ không?
Trong hầu hết hai thế kỷ qua, các hồng y đã bầu các nhà ngoại giao hoặc các ứng cử viên có kinh nghiệm mục vụ làm giáo hoàng. Trớ trêu thay, các nhà mục vụ như Đức Piô IX và Đức Piô X lại có khuynh hướng phản đối sự thay đổi hơn, và các nhà ngoại giao như Đức Piô VII, Đức Bênêđictô XV và Đức Gioan XXIII lại có khuynh hướng mục vụ hơn. Vào thời chúng ta, Đức Gioan-Phaolô II không phản động, nhưng ngài đưa ra một cách giải thích Công đồng Vatican II bảo thủ hơn so với nhiều giám mục anh em của ngài. Đức Bênêđictô XVI đã ngồi bàn giấy ở Giáo triều 24 năm khi ngài được bầu chọn. Đức Phanxicô, người con của Châu Mỹ Latinh hưởng lợi từ việc lục địa này đón nhận Công đồng Vatican II với quyết tâm không ngừng đặt ra câu hỏi: Lựa chọn ưu tiên cho người nghèo có nghĩa là gì? Cuộc đấu tranh để trả lời câu hỏi đó đã định hình phong cách mục vụ của ngài rất nhiều.
Mục tử. Đó là từ đầu tiên đến trong đầu chúng ta khi chúng ta cố gắng hiểu Đức Phanxicô. Chắc chắn ngài sắc sảo về mặt thần học, nhưng ngài được đào tạo về thần học mục vụ cũng như nghiên cứu về tín lý hoặc đạo đức. Ngài không ngại tiếp xúc với các chính trị gia trên thế giới, nhưng ngài thiếu sự thận trọng của một nhà ngoại giao. Ngài bước vào thế giới với vòng tay rộng mở và thế giới yêu mến ngài vì điều này. Giáo hoàng Phanxicô là cha xứ của thế giới, và phẩm chất này tạo cơ sở và định hình mọi khía cạnh khác trong triều giáo hoàng của ngài.
Marta An Nguyễn dịch
2023
Hồng y Walter Kasper tròn 90 tuổi, ngài nhìn lại Công đồng, Giáo hội và Con đường Công nghị Đức
Hồng y Walter Kasper tròn 90 tuổi, ngài nhìn lại Công đồng, Giáo hội và Con đường Công nghị Đức
Hồng y Walter Kasper | Flickr – CC BY-NC-SA 2.0
Năm nay hồng y người Đức Walter Kasper 90 tuổi, ngài có cái nhìn sáng suốt về Giáo hội của đất nước ngài và Giáo hội hoàn vũ. Từ lâu ngài đã được xem là nhà cải cách, bây giờ ngài cảnh báo về nguy cơ lệch lạc của Con đường Công nghị ở Đức, ngài lưu ý: “Giáo hội đang ở trong cuộc khủng hoảng rất sâu đậm. Nếu không nhìn thấy nó sẽ là mất trí.”
Sinh ngày 5 tháng 3 năm 1933 tại Hedenheim, Würtemberg, Walter Kasper là giáo sư thần học ở Münster, sau đó ở Tübingen trước khi được bổ nhiệm làm giám mục Rottenburg-Stuttgart năm 1989. Năm 1999, Đức Gioan-Phaolô II xin ngài về Rôma để đứng đầu Hội đồng Tòa Thánh về Hiệp nhất các Kitô hữu, một vị trí ngài giữ cho đến khi ngài về hưu năm 2010. Mặc dù không còn giữ chức vụ chính thức, nhưng ngài vẫn là giám mục được lắng nghe ở Rôma và ở Đức. Ngài cũng là tác giả của nhiều quyển sách.
Nhìn lại hơn 90 năm cuộc đời, điều gì đặc biệt làm cho cha xúc động?
Hồng y Walter Kasper: Trên hết là lòng biết ơn. Vì tôi vẫn còn tương đối khỏe mạnh, tôi vẫn có thể tự mình làm mọi việc, điều này không dễ dàng ở tuổi tôi. Và biết ơn cho tất cả những gì tôi đã sống trong những năm tháng này.
Cha đã sống qua thời Công đồng Vatican II cách đây 60 năm, cha còn nhớ gì không?
Đó là thời điểm đổi mới! Thật là một ngạc nhiên lớn khi chúng tôi nghe tin Đức Gioan XXIII công bố tổ chức công đồng đại kết. Khi đó tôi đang học ở Đại học Tübingen, tôi vừa xong tiến sĩ và sau đó là chính thức. Công đồng đã khơi dậy một nhiệt tình lớn lao, đó cũng là thời gian tuyệt vời với tôi. Rất nhiều thứ đã thay đổi. Những người cho rằng Giáo hội không thể cải cách, họ nên nhớ sự thay đổi sâu sắc này! Tôi đã sống kinh nghiệm này.
Vào thời đó, người ta thích được là người công giáo, mọi cánh cửa mở ra. Bỗng nhiên, các nhà thần học công giáo và tin lành có thể gặp gỡ và thảo luận với nhau, điều chưa từng có trước đây. Chúng tôi trau dồi điều này rất nhiều ở Tübingen, mỗi tháng một lần chúng tôi gặp nhau, Hans Küng, Jürgen Moltmann, Eberhard Jüngel và tôi (hai người công giáo và hai người tin lành), trước tiên chúng tôi ăn với nhau, sau đó uống rượu vang và thảo luận sôi nổi cho đến quá nửa đêm. Đó là thời gian không thể nào quên.
“Tôi không thích cách thần học gia Hans Küng hành động và tranh luận nơi công cộng. Người ta nói đây là người Thụy Sĩ cứng đầu”
Nhưng không vì thế mà cha không lên tiếng ủng hộ việc loại thần học gia Hans Küng ra khỏi phân khoa thần học.
Những tuần đó là thời gian khó khăn nhất trong sự nghiệp học vị của tôi. Tôi có quan hệ ở trường học với ngài và đã học rất nhiều từ ngài. Nhưng sau đó tôi không đồng ý với ngài về những quan điểm lớn. Trước khi bị rút giấy phép giảng dạy, các giảng viên đã chia rẽ, một số phản đối quyết định này, một số cho rằng quyết định đó là hợp lý. Tôi là một trong số những người cho đó là quyết định hợp lý. Nhưng những người khác quyết định. Điều làm cho tôi đặc biệt không hài lòng là cách Küng hành động và tranh luận trước công chúng, ngài là người Thụy Sĩ cứng đầu.
Chúng ta trở lại với Công đồng: 60 năm sau, dường như những vấn đề quan trọng, mang tính thời sự ngày nay, vẫn chưa được giải quyết vào thời điểm đó.
Những vấn đề rất quan trọng đã được giải quyết, nhưng tất nhiên không phải tất cả. Chẳng hạn, Công đồng đã đặt sự tương tác giữa các giám mục và giáo hoàng, cũng như giữa giáo dân và giáo sĩ trên cơ sở thần học mới. Nhưng cụ thể công việc này như thế nào thì vẫn chưa được làm rõ. Đây là điều mà bây giờ Đức Phanxicô muốn làm sáng tỏ với Thượng hội đồng về tính đồng nghị.
“Vấn đề phụ nữ trong Giáo hội vào thời điểm đó vẫn chưa được giải quyết, và bây giờ nó rơi vào chân chúng ta”
Hơn nữa, trên thực tế, đây là cuộc cải cách rất bảo thủ, bởi vì các thượng hội đồng luôn là một phần của đời sống Giáo hội. Sau thời Trung cổ, nó đã bị mất đi một chút và bây giờ nó đang được hồi sinh theo một cách mới. Mặt khác, giáo dân, cũng như các ông hoàng, ngày đó có ảnh hưởng lớn trong các thượng hội đồng.
Và các vấn đề mới nào đã xuất hiện? Vấn đề phụ nữ, chủ đề của bản sắc và khuynh hướng tình dục?
Công Đồng đã nói rất nhiều về vấn đề phụ nữ, nhất là về địa vị của họ trong xã hội. Nhưng vấn đề phụ nữ trong Giáo hội đã bị bỏ ngỏ vào thời điểm đó, và bây giờ nó rơi vào chân chúng ta. Điều tương tự cũng xảy ra với các vấn đề khác. Mối quan hệ đồng giới vẫn còn là điều cấm kỵ vào thời đó. Tất cả những điều này chỉ xuất hiện sau năm 1968, tức là sau Công đồng.
Sau này một trong những người tiếp nhận những vấn đề này là học trò của cha, thần học gia luân lý Eberhard Schockenhoff, đã qua đời năm 2020. Đối với Con đường Công nghị ở Đức, ông là người đi trước về những chủ đề này. Mối quan hệ của cha với học trò của cha là gì?
Chúng tôi là bạn bè. Mỗi lần ông về Rôma, chúng tôi có những cuộc trao đổi rất sâu đậm. Không phải lúc nào chúng tôi cũng hoàn toàn đồng ý với nhau. Nhưng khi ông đi xa, khi nào lập luận của ông cũng rất vững chắc. Tôi đã đọc nhiều đoạn trích từ quyển sách đạo đức tình dục xuất bản sau khi ông qua đời. Rõ ràng đây là cả một thay đổi não trạng – nhưng nó không đi xa như những gì hiện đang xảy ra trên Con đường Công nghị. Đó là những phần mở đầu, nhưng luôn dựa trên Kinh thánh và truyền thống. Điều này hiện đang thiếu, đặc biệt là để cung cấp cho Con đường Công nghị một nền tảng thần học tốt.
Điều dẫn chúng ta đến Con đường Thượng hội đồng. Cha nghĩ sao? Nó dẫn đến đâu?
Tôi sợ chúng ta đang có một số ảo tưởng. Tôi nghĩ hoàn toàn loại ra việc chúng ta có thể áp đặt mình vào Giáo hội hoàn vũ với các quyết định của Con đường Công nghị. Tất nhiên, cũng có những người ở các quốc gia khác cũng nghĩ như vậy. Nhưng không phải đa số. Chẳng hạn vấn đề liên quan đến việc phong chức cho phụ nữ. Hay tư tưởng dân chủ tham gia quản lý Giáo hội. Giáo hội không phải là một nền dân chủ! Về chủ đề này nói riêng, nhiều điều chưa được nghĩ ra về mặt thần học hay truyền thống. Chúng ta không thể tái tạo lại Giáo hội.
Hồng y Kasper: “Con đường Công nghị Đức mắc phải một lỗi từ khi phát sinh”
“Đức không nên cư xử như thể mình nắm sự thật”
Các giám mục và hồng y khác cảnh báo về một cuộc ly giáo. Đây có phải là nỗi sợ của cha không?
Con đường Công nghị tiếp tục nhấn mạnh họ không muốn ly giáo, và tôi tin điều đó. Nhưng chúng ta cũng có thể rơi vào tình trạng ly giáo. Kiểu như các cường quốc vấp phải trong Thế chiến thứ nhất, trong khi không ai thực sự muốn. Họ nên thực hiện điều này một cách nghiêm túc. Các câu hỏi đến từ các hội đồng giám mục khác cũng nên được xem xét một cách nghiêm túc ở Đức và không nên cư xử như thử mình nắm sự thật. Vì thế người Đức luôn làm cho họ không được yêu chuộng ở nước ngoài. Khi tôi gặp các hồng y Đức ở Rôma, người Đức lắc đầu. Vì vậy, tôi cũng cố gắng giải thích một số điều.
Một tuần sau sinh nhật lần thứ 90 của cha, sẽ tròn mười năm Đức Phanxicô được bầu chọn. Tôi nghĩ cha đã bầu cho ngài lúc đó. Có khi nào cha hối hận không?
Tôi ủng hộ ngài, nhưng không có nghĩa tôi thấy mỗi lời hay mỗi hành động của ngài là đúng. Nhưng khi một giáo hoàng được bầu, nguyên tắc trung thành được áp dụng, đặc biệt là với Giáo triều, nếu không thì công việc không chạy. Hiện tại, tôi không còn gặp ngài thường xuyên như trước nhưng mỗi khi ngài gọi điện cho tôi, tôi đều đến và có lời khuyên nếu ngài yêu cầu.
Ngài đang chịu áp lực từ hai phía: trước hết là với những người bảo thủ, ngay từ đầu họ đã từ chối phong cách của ngài, và bây giờ, ở phương Tây, chẳng hạn như ở Đức, cũng có người chỉ trích ngược lại, họ muốn thúc đẩy cải cách. Nhưng ngài là người đến từ Nam bán cầu, ngài có những mối quan tâm khác quan trọng với ngài, chúng ta phải hiểu điều này. Những gì ngài đã đặt ra sẽ cần một hoặc hai triều giáo hoàng để hoàn thành đầy đủ. Tôi hy vọng sau ngài sẽ có người thực hiện những thôi thúc này theo cách riêng của họ.
“Giáo hội đang ở trong một cuộc khủng hoảng sâu đậm. Nếu không nhìn thấy nó thì sẽ là mất trí”
Một số nhà cải cách tin rằng thay đổi sẽ là câu trả lời tốt nhất cho cuộc khủng hoảng lớn trong Giáo hội thời chúng ta. Cha nhìn thấy nó như thế nào?
Giáo hội đang ở trong cuộc khủng hoảng rất sâu đậm. Nếu không nhìn thấy nó sẽ là mất trí. Và nguyên nhân không chỉ là vụ tai tiếng lạm dụng. Cuộc khủng hoảng rộng hơn và sâu hơn nhiều. Nó ảnh hưởng đến toàn bộ thế giới phương Tây. Giáo hội đang trong thời kỳ biến động. Chúng ta không thể tiếp tục như không có chuyện gì xảy ra, đó là điều không thể chối cãi.
Nhưng tương lai của Giáo hội sẽ diễn ra cụ thể như thế nào thì không ai trong chúng ta biết được. Điều tôi biết là nếu thời đó tôi không sống qua sự đổi mới do Công đồng mang lại, thì tôi sẽ gặp khó khăn khi đương đầu với cuộc khủng hoảng này. Nhưng tôi nghĩ nhiệm vụ của một thế hệ mới trong Giáo hội là đưa ra câu trả lời.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
2023
Tương lai nào cho hai em Jinan và Abdel được cứu như phép lạ trong trận động đất ở Syria?
Đoạn video về Jinan, một bé gái 6 tuổi người Syria bị mắc kẹt dưới đống đổ nát, bảo vệ em trai Abdel đã lan truyền khắp thế giới. Chúng tôi đã nói chuyện với bác sĩ chăm sóc hai em ở Harem, Syria. Ông yên tâm về tình trạng sức khỏe của hai em nhưng lo lắng cho hậu quả tâm lý của các em.
Video đau lòng của hai em Jinan và Abdel
Bác sĩ Yassin Ahmed ở bệnh viện Harem cho biết: “Jinan không nói, không cười, và em trai Abdel không cử động, em ở đó, không khóc, không phản ứng. Các em bị sốc nặng, bị tác động tâm lý nặng nhưng không may, chúng tôi không có khoa tâm thần nào có thể theo dõi các em, chúng tôi lo sức khỏe cho các em.” Bệnh viện Harem ở cách gia đình các em 50 cây số.
Tôi vô cùng ngưỡng mộ em bé dũng cảm này – Ông Tedros Adhanom Ghebreyesus, tổng giám Tổ chức Y tế Thế giới WHO
Em Jinan bị thương hở ở chân, em Abdel bị phỏng ở mức độ 2. Bác sĩ cho biết, tình trạng chung của hai em tốt, ông không biết chính xác Jinan và Abdel Junaid bị chôn vùi bao nhiêu giờ, chỉ biết các em đến bệnh viện khuya ngày đầu tiên 6 tháng 2.
Đoạn video ngắn về em Jinan 6 tuổi bị mắc kẹt dưới đống đổ nát nhưng vẫn bảo vệ được em trai Abdel 20 tháng tuổi của em đã lan khắp thế giới. Tôi vô cùng ngưỡng mộ em bé dũng cảm này, ông Tedros Adhanom Ghebreyesus, tổng giám đốc WHO, Tổ chức Y tế Thế giới viết trên Twitter.
Chỉ còn cánh tay mặt là còn có thể nhúc nhích, em Jinan che và vuốt ve nhẹ đầu em Abdel. Đầu Jinan gối lên tấm chăn, trong khi toàn cơ thể bị kẹt dưới lớp bê tông, Jinan nói với người cứu cấp: “Xin ông đưa tôi ra khỏi đây, tôi sẽ làm bất cứ điều gì ông muốn, tôi sẽ làm người giúp việc cho ông, nhưng xin đưa tôi ra khỏi đây.”
Abdel đang nằm trên tấm nệm. Chúng tôi hình dung căn phòng, đống gạch vụn rơi xuống đầu các em lúc nửa đêm khi các em còn ngủ. Các em chưa biết tin, nhưng các em là những người sống sót duy nhất trong gia đình. Cha mẹ và bốn chị em của các em đã chết. Họ ở đâu đó, rất gần các em, dưới đống đổ nát.
Em Jinan ở bệnh viện
Trong khẩn cấp và bối rối của những giờ đầu, mới đầu các phóng viên gọi Jinan là Mariam và nghĩ cha của em còn sống. Nhưng danh tính của Jinan và của Abdel đã được bác sĩ và người cậu Hassan Yassin của hai em xác nhận với chúng tôi.
Mariam, 7 tuổi, bảo vệ em dưới đống đổ nát trong khi chờ được cứu
Sau trận động đất, các cuộc bắn phá vẫn tiếp tục
Ông Mahmoud Mohamed Junaid, cha của hai em sinh ở Atarib. Cho đến năm 2018, thành phố phụ thuộc vào tỉnh Aleppo dưới sự kiểm soát của chế độ Syria, sau đó thành phố này bị người Hồi giáo của Hayat Tahrir al-Sham (Tổ chức Giải phóng Levant, HTS) chiếm đóng.
Ngày nay, Atarib là trạm kiểm soát cuối cùng của phe nổi dậy trước khi tiến vào khu vực của chính phủ. Ở lại đó có nghĩa là phải hứng chịu các cuộc tấn công liên tục của quân đội Syria và các cuộc bắn phá vẫn tiếp tục sau trận động đất. Trong năm năm, người dân sống ở đó không có điện, vì không còn dịch vụ nào hoạt động, và vì một tia sáng nhỏ nhất nào cũng biến mình thành mục tiêu bắn phá.
Địa ngục này, người cha Mahmoud Mohamed Junaid muốn trốn thoát. Là thợ sửa xe hơi, ông đến định cư ở làng Besnaya-Bseineh, gần Harem. Dù khu vực này cũng nằm dưới sự kiểm soát của lực lượng hồi giáo HTS, nhưng an toàn hơn. Mẹ của Jinan và Abdel lớn lên ở đó. Jinan được sinh ra ở đó ngay sau khi họ đến.
Kể từ khi bắt đầu cuộc xung đột, Họ ở trong số hàng ngàn người đổ về từ khắp nơi trên đất nước để tìm một chút an toàn. Họ sống sót trong những trại tạm bợ đông đúc.
Mahmoud và vợ thuê được một căn hộ ở tầng hai của một tòa nhà sáu tầng, nơi họ ở cùng sáu đứa con khi tòa nhà chôn vùi họ.
Trẻ em chiến tranh mồ côi vì thiên tai
Trong những ngày gần đây, người tị nạn từ Besnaya-Bseineh và Harem đã phải đón những người tị nạn khác, đó là những người sống sót sau trận động đất đã phá hủy hoàn toàn tỉnh Atarib. Trong lều, trong lán bằng tôn, có mười hoặc hai mươi người sống ở đó. Không thể cầm cự được lâu giữa mùa đông, trong điều kiện nghèo đói và bừa bãi như vậy, đến mức một số gia đình muốn đi về, dù đi về là phải sống dưới bom đạn và trong những ngôi nhà bị phá hủy của họ.
Và Jinan và Abdel sẽ sống như thế nào? Chú của các em hoặc một người trong gia đình sẽ chăm lo các em. Các em là trẻ mồ côi vì thiên tai. Và chiến tranh vẫn đang chờ các em. Tất cả sẽ phải đối diện với nghịch cảnh, không biết lần này là lần thứ bao nhiêu, một nghịch cảnh vượt quá khả năng của họ. Chỉ có một điều chắc chắn cho em Abdel: Jinan sẽ ở đó để bảo vệ em.
Omar Rahal, chú của hai em ở bên cạnh Jinan trong bệnh viện dã chiến. Ảnh: Alessio Mamo/The Guardian
Marta An Nguyễn dịch