2023
Động đất ở Thổ Nhĩ Kỳ: chú chó Aleks sống sót sau 23 ngày trong đống đổ nát
Chú chó Aleks có vẻ khỏe mạnh dù đã 23 ngày nằm dưới đống đổ nát. © TIN TỨC DEMIROREN AAGENCYDHA (Thông tấn xã Demiroren) / AFP
parismatch.com, Ban biên tập với, 2023-03-02
23 ngày sau trận động đất kinh hoàng, chú chó Aleks được giải cứu khỏi đống đổ nát.
Ngày thứ năm 2 tháng 3, báo chí địa phương đưa tin, chú chó Aleks, một giống lai to lớn với đôi mắt sáng, đã được giải thoát khỏi đống đổ nát 23 ngày sau trận động đất tàn phá thành phố Antakya ở miền nam Thổ Nhĩ Kỳ.
Qua các hình ảnh về cuộc giải cứu do hãng thông tấn DHA của Thổ Nhĩ Kỳ đăng tải, người xem thấy chú chó Aleks bị kẹt trong những tấm bê tông đan xen như cái giếng bị sập dưới tác động của trận động đất mạnh 7,8 độ richter xảy ra 4 giờ sáng ngày 6 tháng 2.
Đọc thêm Syria: tương lai
Ông Murat Arici, người chủ của chú cho nghe tiếng rên của nó và báo cho đội cứu hộ của chính quyền thành phố Konya (giữa). Đội cứu cấp nói trong video: “Aleks, con chó của tôi, ra đây với chúng tôi.” Họ thốt lên khi tóm được con chó to lớn, lông xù còn khỏe mạnh: “Ồ, con giỏi lắm con!”
Aleks được giao cho hội bảo vệ động vật Haytap chăm sóc để được kiểm tra trước khi trả lại cho chủ nhân của nó.
Các đội cứu cấp đã cứu được hàng trăm thú vật
Các đội cứu cấp đã cứu được hàng trăm con mèo, chó, chim, thỏ và cả bò, cừu bị mắc kẹt trong các tòa nhà đổ nát ở miền nam Thổ Nhĩ Kỳ.
Những người sống sót cuối cùng là một cặp vợ chồng đã được cứu ở Antakya ngày 18 tháng 2.
Kể từ đó, các cuộc tìm kiếm đã chính thức đình chỉ tại 9 trong số 11 tỉnh bị ảnh hưởng, ngoại trừ hai tỉnh Hatay và Kahramanmaras, nơi có tâm chấn.
Trận động đất, được cho là thảm họa lớn nhất xảy ra ở Thổ Nhĩ Kỳ đương đại, đã giết chết hơn 45.000 người và hơn 5.000 người khác ở nước láng giềng Syria, đồng thời tàn phá hàng trăm ngàn tòa nhà của người dân.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
2023
Cuộc Cách mạng Phanxicô: Hơn 10 năm qua, giáo hoàng đã phục hồi quyền lực thực sự của Giáo hội
Đức Phanxicô gặp các hồng y từ khắp nơi trên thế giới ngày 30 tháng 8 năm 2022 tại Vatican để suy tư về tông huấn Anh em hãy rao giảng Tin Mừng, Praedicate evangelium nhằm cải cách Giáo triều Rôma. (Ảnh CNS/Vatican Media)
Con đường đã vạch sẵn từ lúc đầu, nhưng sau 10 năm nhìn lại, chúng ta thấy rõ hơn: Đức Phanxicô đã đi tìm một sự biến đổi đời sống và văn hóa nội bộ cho Giáo hội công giáo, mà trọng tâm trong đó là sự chuyển hoán quyền lực.
Trong bài giảng ngày nhậm chức 17 tháng 3 năm 2013, ngài xin chúng ta đừng bao giờ quên sức mạnh thực sự là phục vụ. Lúc đó, ngài đang nói đến thẩm quyền được giao cho ngài với tư cách là giáo hoàng: được truyền cảm hứng từ “sự phục vụ khiêm nhường, cụ thể và trung thành” của Thánh Giuse, để bảo vệ người nghèo và chăm sóc tạo vật. Và ngài đã dành cả mười năm qua để giảng dạy và tạo điều kiện, tất cả thẩm quyền thực sự trong Giáo hội là sự tham dự vào cùng một thẩm quyền thiêng liêng này. Từ Rôma, qua giám mục đoàn, và mở rộng qua các thượng hội đồng, đến toàn Giáo hội, việc phục hồi thẩm quyền lực này là dấu hiệu cải cách của ngài. Và hoa quả của nó đã thấy được.
Cách đây không lâu Vatican nổi tiếng về cung cách kẻ cả với chủ nghĩa tập trung và độc đoán thì giờ đây đã có bầu khí phục vụ và tự do. Giờ đã không còn kiểu đường hướng chỉ thị liên tục được ban hành mà không có sự tham gia của các bên; một vài chỉ thị Vatican ban hành trong những ngày này tuân theo tinh thần tham vấn sâu đậm và kiên nhẫn. Rôma không còn dùng những lời tố cáo ẩn danh (“delations”) để kỷ luật các giám mục, và cũng khó để nhớ lại có trường hợp nào trong mười năm qua mà quan điểm chính thống của một thần học gia bị đưa ra xét xử.
Cách đây không lâu Vatican nổi tiếng về cung cách kẻ cả với chủ nghĩa tập trung và độc đoán thì giờ đây đã có bầu khí phục vụ và tự do.
Các giám mục của các Giáo hội địa phương trong các chuyến đi ad limina của họ bây giờ ngạc nhiên thấy mình không còn bị đối xử như cấp dưới nữa. Các giám chức nhìn thẳng vào mắt các giám mục đến thăm, lắng nghe và giúp đỡ họ. Chương 1 trong tông huấn Anh em hãy rao giảng Tin Mừng, Praedicate evangelium được ban hành năm ngoái, nói rõ, Giáo triều “không đặt mình giữa giáo hoàng và các giám mục, nhưng phục vụ cho cả hai,” tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi các ơn giữa các Giáo hội địa phương.
Giáo triều la-mã không còn đóng vai trò ngăn chặn và kiểm soát việc đến gần giáo hoàng, và nạn tham nhũng đi kèm với vai trò gác cổng này đã vào quá khứ. Các thư ký đầy quyền lực của giáo hoàng cũng đã ra đi. Dưới thời Đức Gioan Phaolô II, các cơ quan Rôma đại diện cho một triệu nam nữ tu sĩ trên thế giới bị Vatican nghi ngờ, đã bị từ chối gặp giáo hoàng trong hơn 10 năm. Bây giờ, các cuộc gặp gỡ của Đức Phanxicô với hai tổ chức quốc tế đại diện cho các nữ tu và nam tu (tương ứng là U.S.G và U.I.S.G.) diễn ra thường xuyên nên họ cũng chẳng buồn đưa ra bình luận nào.
Guồng máy quản trị của giáo hoàng bây giờ không còn điều khiển từ xa và phi nhân hóa mà là “đồng nghị” – nghĩa là hợp tác với giám mục đoàn bằng các phương tiện tham vấn thường xuyên và trao đổi tự do. Thượng hội đồng giám mục không còn được quản lý bởi Giáo triều để ngăn chặn thảo luận cởi mở và kiểm duyệt chất vấn nhưng đã trở thành một cơ chế phân định đích thực. Năm 1999 khi hồng y Carlo Maria Martini kêu gọi “một công cụ phổ quát và có thẩm quyền hơn” để giải quyết các vấn đề học thuyết và mục vụ gai góc, “trong việc thực thi đầy đủ tính đồng nghị trong hàng giám mục,” giờ đây rõ ràng được tái sinh ở các thượng hội đồng trong thập kỷ qua, Đức Phanxicô thành lập cũng chỉ để thực hiện điều này.
Các cấu trúc và quản trị của Giáo hội hoàn vũ bây giờ phản ánh tốt hơn điều mà Đức Phanxicô gọi là “phong cách của Thiên Chúa”: ân cần, tử tế và gần gũi. Như ngài đã nói trong thánh lễ nhậm chức: “chăm sóc, bảo vệ, điều này đòi hỏi lòng tốt; chúng đòi hỏi một sự dịu dàng nào đó.” Sẽ là một sai lầm nghiêm trọng của những người chỉ trích ngài khi xem loại quyền lực dễ bị tổn thương này là yếu đuối hoặc mất can đảm. Đó là dấu hiệu cho thấy sức mạnh thực sự của Giáo hội không dựa vào quyền lực, potestas nhưng dựa vào thừa tác vụ của quyền năng thiêng liêng.
Các cấu trúc và quản trị của Giáo hội hoàn vũ bây giờ phản ánh tốt hơn điều mà Đức Phanxicô gọi là “phong cách của Thiên Chúa”: ân cần, tử tế và gần gũi.
Những thay đổi này và nhiều thay đổi khác không chỉ báo hiệu một cuộc cải cách quản trị mà còn là một thay đổi trong cơ quan: từ niềm tin nửa vời vào sức mạnh của luật pháp kiểu lạc giáo pêlagiô nửa vời, không tin vào ơn Chúa sang niềm tin mới vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Sự hiệp nhất không còn bị áp đặt qua sự ép buộc phải đồng nhất, nhưng là ơn xuất phát từ sự hiệp thông, được làm sống động bởi văn hóa hỗ tương và lắng nghe lẫn nhau. (Khi các hành vi pháp lý là cần thiết – quy định của Đức Phanxicô năm 2020 về Thánh lễ Latinh Truyền thống xuất hiện trong tâm trí – thì đó là đặt ra các ranh giới bảo vệ nền văn hóa đó.) Đức Phanxicô trong tông huấn “Praedicate Evangelium” đã nói rõ rằng cuộc cải cách là để phục hồi “kinh nghiệm về sự hiệp thông truyền giáo được các Tông đồ trải nghiệm với Chúa khi Ngài khi còn ở thế gian, và sau Lễ Hiện Xuống, trong cộng đoàn đầu tiên của Giêrusalem dưới tác động của Chúa Thánh Thần.”
Một hiến pháp mới cho Giáo phận Rôma – mà giáo hoàng trong cương vị giám mục là người trực tiếp cai quản – cho thấy một cái nhìn thoáng qua về ý nghĩa cụ thể của điều này trong giáo hội địa phương. Trong “Giáo hội Hiệp thông” – Ecclesiarium Communione – được công bố vào đầu tháng 1, nói về cuộc hoán cải truyền giáo theo phong cách người Samaritanô nhân hậu để giúp Giáo hội thực hiện tốt hơn lòng thương xót và bác ái của Thiên Chúa, đòi hỏi một cuộc hoán cải đồng nghị liên quan đến sự tham gia tích cực của tất cả các người đã được rửa tội. Đổi lại, điều này đòi hỏi một loạt các cơ quan tham vấn ở tất cả các cấp, mỗi giáo xứ có một hội đồng mục vụ, và càng có nhiều giáo dân tham gia vào các quá trình đưa ra quyết định liên quan đến các quá trình phân định càng tốt.
Sự hiệp nhất không còn bị áp đặt qua sự ép buộc phải đồng nhất, nhưng là ơn xuất phát từ sự hiệp thông, được làm sống động bởi văn hóa hỗ tương và lắng nghe lẫn nhau.
Chính để giúp Giáo hội sống ngày càng mạnh dưới tác động của Thần Khí nên tháng 10 năm 2021 Đức Phanxicô đã triệu tập Thượng hội đồng hiệp hành toàn cầu kéo dài ba năm. Ngay cả bây giờ, ở nửa chặng đường, rõ ràng là trải nghiệm lắng nghe lẫn nhau sâu sắc đã biến đổi nhiều người tham gia, đánh thức ước muốn nơi các tín hữu về trách nhiệm và tham gia nhiều hơn vào đời sống và sứ mệnh của Giáo hội. Việc phi giáo quyền hóa quyền lực, theo cách mà tinh thần lãnh đạo và thừa tác vụ trong Giáo hội có thể bắt nguồn tốt hơn từ các đặc sủng, đã được tiến hành ở Vatican, nơi giáo dân, cũng như các nữ tu, đang nắm giữ các vai trò điều hành quan trọng.
Bằng cách bắt nguồn từ thẩm quyền trong việc chăm chú lắng nghe Thần Khí được tỏ lộ trong đức tin sống động của những người bình thường, thượng hội đồng đang thể hiện điều mà Thánh John Henry Newman gọi là “sự cùng thở của các tín hữu và các mục tử,” một điều cho phép Thần Khí thực sự hướng dẫn Giáo hội. Một ý nghĩ nổi bật là, bất cứ khi nào mật nghị tiếp theo diễn ra, các hồng y sẽ bầu chọn giáo hoàng tiếp theo, biết rằng, qua cuộc họp dân Chúa chưa từng có này, Thánh Linh đã nói với Giáo hội trong thời đại chúng ta.
Một trong những dấu hiệu cho thấy quá trình chuyển đổi đang diễn ra là sự phản kháng ngày càng gay gắt tạo ra. Sự phản đối đối Đức Phanxicô trong suốt triều giáo hoàng của ngài đã trở nên gay gắt và dữ dội nhất, chính xác là trong cuộc cải cách quyền lực và quản trị của ngài, và đặc biệt là trong và xung quanh các thượng hội đồng. Có một ý chí mới trong Giáo hội công giáo theo mô hình bởi Đức Phanxicô, để giải quyết những bất đồng trong căng thẳng đã có kết quả, để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn những con đường mới vượt qua những chia rẽ. Cách tiến hành này làm cho những người đang tìm kiếm sự chắc chắn đích thực của một quá khứ tưởng tượng tức giận và sợ hãi. Họ phải được lắng nghe một cách tôn trọng và đánh giá cao nỗi sợ hãi của họ. Nhưng như Đức Phanxicô hiểu, Giáo hội chỉ có thể truyền giáo cho thế giới ngày nay bằng cách sử dụng “phong cách của Chúa” nếu phương tiện này không làm suy yếu thông điệp. Thẩm quyền thực sự của Giáo hội nằm ở chỗ được chia sẻ quyền năng của Chúa, quyền năng này luôn được thể hiện qua phục vụ khiêm tốn. Đó là một trong những thành tựu lớn nhất của Đức Phanxicô mà sau 10 năm, chúng ta không chỉ có thể hiểu được điều này mà còn có thể nhìn thấy nó trong hành động.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
2023
Một nữ tu bị bắt cóc phải trả bao nhiêu?
Giống như các quốc gia khác, Tòa thánh thường xuyên trả các khoản tiền chuộc để trả tự do cho các con tin, linh mục hoặc nữ tu. Nhưng đây có phải là chiến lược tốt nhất? Điều gì sẽ xảy ra nếu “phi chính trị hóa” các vụ bắt cóc bằng cách giao cho các tổ chức phi chính phủ giải quyết để có thể trả ít hơn không?
la-croix.com, Jean-Pierre Denis, nhà văn và nhà báo. Giám đốc Văn hóa & Tôn giáo nhà xuất bản Bayard
Tại Đền thờ Thánh Phêrô, Đức Phanxicô chào nữ tu người Colombia vừa được trả tự do sau mấy năm bị cầm tù ở Mali, trong tay các kẻ khủng bố hồi giáo. Cảnh ngày 10 tháng 10 năm 2021 thật xúc động. Nhưng nữ tu Gloria Cecilia Narvaez đã thoát tay những kẻ bắt giữ sơ như thế nào? Manh mối câu hỏi mà không ai dám đặt lại đến từ người mà gần như mọi người không thể tin. Trong phiên tòa thối hoắc, hồng y Becciu, từng là hồng y phụ tá Quốc vụ khanh bị buộc tội tham nhũng, khẳng định Vatican đã trả khoảng một triệu âu kim và giáo hoàng đã biết chuyện này.
Đúng hay sai ? Khẳng định của hồng y Becciu có thể chấp nhận. Trong một thời gian rất dài, các tổ chức công giáo được huy động để giải thoát những người bị bắt, đặc biệt những người bị cướp biển vùng Bác-ba-ri bắt ở Maghreb. Các dòng cứu chuộc như Dòng Chúa Ba Ngôi, Dòng Đức Bà chuộc kẻ làm tôi được thành lập để làm việc này. Vì thế đã có tập tục chuộc con tin từ hàng thế kỷ.
Thói quen của những tình huống tế nhị
Từ đó, chính sách ngoại giao của Tòa Thánh đã quen với những tình huống tế nhị. Các giáo hoàng tuyên bố nói chuyện với mọi người và các nhà ngoại giao của Vatican có đường đi vào hầu như ở mọi nơi. Các dịch vụ của họ được nhờ đến cũng nhờ họ biết cách làm, đặc biệt trong lĩnh vực bắt cóc. Thông tin lượm lặt được từ các tin tức gần đây chứng thực cho điều này. Ông Roger Carstens, đặc phái viên của Joe Biden về các vụ bắt cóc dừng chân ở Vatican tháng 9 năm 2022. Tương tự như vậy, tháng 1 năm 2023, chính phủ Israel xin Rôma giúp trả tự do cho ông Avera Mengistu bị Hamas bắt giam ở Gaza từ năm 2014. Ngay trước lễ Giáng sinh, gia đình của ông đã được Đức Phanxicô tiếp.
Cũng cần phải nói thêm, các vụ bắt cóc các linh mục và nữ tu là phổ biến, từ Trung Đông đến Châu Mỹ Latinh qua châu Phi. Và rất may mắn, đa số đều được giải thoát. Tuy nhiên, ngoại trừ những trường hợp đặc biệt, sẽ không được thả nếu không có tiền chuộc. Cho dù họ là mafia, khủng bố, chính trị mơ hồ, nửa-bê tha, nửa-ý thức hệ, các vụ bắt cóc hoạt động như cái chợ. Trừ khi can thiệp theo kiểu đặc công, còn không thì phải trả tiền.
Nhượng bộ trước vụ tống tiền
Nhưng giải cứu phải nhờ đến nhượng bộ có đạo đức không? Trong một quyển sách có lập luận chặt chẽ, Tiền chuộc khủng bố (La Rançon de la terreur, nxb. PUF), ông Étienne Dignat, một chuyên gia về đạo đức chiến tranh đã nói về một tình thế tiến thoái lưỡng nan khi các quốc gia đối diện với việc một công dân của họ bị bắt cóc. Nó đơn giản nhưng không thể hiểu được: “Trả tiền chuộc để giải cứu, hoặc đứng vững trước chủ nghĩa khủng bố.” Cho dù họ là nữ tu hay linh mục, binh lính, doanh nhân hay khách du lịch thì tình hình cũng không thay đổi đáng kể. Chỉ có hai cách tiếp cận có thể và cả hai đều gây tranh cãi.
Giải pháp đầu tiên là “đạo đức”. Nếu “con người tự nó là cứu cánh, thì con người có phẩm giá tuyệt đối”. Chúng ta phải cứu con tin bằng mọi giá. Đây là thông lệ không chính thức của Pháp, Tây Ban Nha, Ý hoặc Đức, ủng hộ cái mà ông Etienne Dignat gọi là cái nhìn “đoàn kết”.
Một cách tiếp cận mới
Thứ hai, được mô tả là “thuyết hệ quả” chú ý đến hậu quả của sự can thiệp có thể xảy ra. Người ta sợ các khoản thanh toán tạo ra động cơ làm gia tăng các vụ bắt cóc và củng cố các tổ chức khủng bố. Vì thế người Mỹ và người Anh lựa chọn cách tiếp cận hy sinh, dẫn đến cái chết của con tin trong đa số trường hợp. Nó cũng làm gia tăng tiền chuộc, qua các vụ hành quyết trên phương tiện truyền thông làm tăng nỗi sợ hãi, như vụ nhà báo Mỹ James Foley bị tổ chức Nhà nước Hồi giáo cực đoan chặt đầu một cách dã man.
Làm thế nào để giải thoát? Chính xác, có phương pháp và có sư phạm, ông Étienne Dignat đưa ra cách thứ ba. Ông gọi đó là “phương pháp trao quyền” và dành phần cuối cùng và sáng tạo nhất trong quyển sách của ông để nói về phương pháp này. Theo ông, bản thân những vụ bắt cóc không phải là công việc của Quốc gia, thậm chí cũng không phải là công việc của các Quốc gia hay công việc mà các Quốc gia làm một cách có hiệu quả nhất. Trên thực tế, nếu các chính phủ muốn biến nó thành đặc quyền chủ quyền của mình, là để thể hiện hoặc khôi phục quyền lực đang bị thách thức của họ, chứ không phải vì mục đích hiệu quả.
Chỗ đứng của Giáo hội
Khi các chính phủ tham gia, những kẻ bắt cóc có thể mong đợi thu được “nhiều tiền hơn và còn hơn cả nhiều tiền”, dưới hình thức nhượng bộ chính trị hoặc cố gắng tống tiền nhiều hơn bằng cách ngụy trang các hoạt động tội ác là khủng bố. Vì thế, vấn đề là “phi chính trị hóa” các vụ bắt cóc để làm cạn kiệt một phần thị trường khủng bố. Tác giả lập luận, các Quốc gia có “trách nhiệm tiêu cực” trong việc ngừng can thiệp vào các cuộc mặc cả. Họ phải học cách “ủy nhiệm”. Chúng ta không còn cấm trả tiền chuộc, chúng ta cũng không từ chối, nhưng chúng ta điều chỉnh nó, như phụ đề đưa ra, “kiểm soát thị trường con tin”.
Theo logic này, “các công ty, cá nhân hoặc công ty bảo hiểm được đặt ở tuyến đầu vì lợi ích của hoạt động nhượng bộ thuê bên ngoài”. Logic bảo hiểm, đã được thử nghiệm bởi các công ty lớn, gồm một phần là để phòng ngừa, một phần khác là để quản lý thảm họa. Dĩ nhiên nhà nước vẫn chịu trách nhiệm về quy định và trên hết là truy tìm tội phạm. Các tổ chức phi chính phủ cũng có thể được chấp nhận, đặc biệt là để bảo vệ những người dễ bị tổn thương, những người không có một công ty đa quốc gia đứng sau họ để có thể đưa ra chính sách bảo hiểm chống bắt cóc. Cách tiếp cận của ông Étienne Dignat là “tự do” mà ở Pháp thường bị xem như một từ bẩn thỉu. Nhưng về cơ bản, chẳng phải các dòng cứu chuộc trong quá khứ đã đóng vai trò trung gian chuyên nghiệp, kín đáo và thực dụng đó hay sao?
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
2023
Andrea Tornielli: Chúng ta không bao giờ biết Chúa Giêsu cho đủ
Nhà báo người Ý xuất bản quyển sách “Cuộc đời Chúa Giêsu”, một câu chuyện nổi tiếng được Đức Phanxicô, người ông rất gần viết lời nói đầu. Bài phỏng vấn. Nhà xuất bản Cerf vừa phát hành quyển sách Cuộc đời Chúa Giêsu ấn bản tiếng Pháp của tác giả Andrea Tornielli, nhà báo, nhà vatican học. Ông làm việc cho nhật báo Ý La Stampa trong nhiều năm, tác giả của nhiều quyển sách về lịch sử Giáo hội và tiểu sử các giáo hoàng, bạn thân của Đức Phanxicô, hiện là giám đốc biên tập của các phương tiện truyền thông, đài phát thanh, truyền hình, bài viết được phát hành trên toàn thế giới.
Ấn bản tiếng Pháp Cuộc đời Chúa Giêsu ra mắt ngày 9 tháng 2 tại Pháp, với số lượng 20.000 bản. Với phong cách nhiều màu sắc, đúng là sách như một kỹ thuật phim màu, technicolor, các cảnh trong Phúc âm được tác giả dựng lên từng chi tiết, các đoạn trong sách thánh và các lời bình luận của Đức Phanxicô. Ông Jean-François Colosimo, sử gia tôn giáo và là ông chủ nhà xuất bản Cerf tuyên bố: “Không ai thực sự còn biết Chúa Giêsu là ai nữa. Người ta nói về một Chúa Giêsu do thái, Chúa Giêsu hồi giáo hay Chúa Giêsu phật giáo, nhưng ngày càng ít nói về Chúa Giêsu của các phúc âm kitô giáo. Với quyển sách này, độc giả bước vào cuộc đời của Chúa Kitô như đi vào một quyển tiểu thuyết. Đọc dễ dàng đến mức nó sẽ thu hút độc giả như Stephen King đã lôi cuốn độc giả với Harlequin của ông.”
Nhà văn Andrea Tornielli lấy cảm hứng từ các bản văn Kinh thánh, các bài giảng của giáo hoàng cũng như quyển sách Cuộc đời Chúa Giêsu sâu sắc và tinh tế của nhà văn công giáo François Mauriac, mà ở cuối lời nói đầu của ấn bản đầu tiên, ông đã nhắc lại câu nói của những người lính canh mà các giáo hoàng đã khiển trách vì đã không đặt tay trên Chúa Giêsu: “Chưa bao giờ có một người nào nói như người này.”
Vì sao ông kể lại cuộc đời Chúa Giêsu?
Andrea Tornielli: Vì chúng ta không bao giờ biết đủ về Chúa Giêsu. Vậy mà Chúa Giêsu lại hiện diện trong cuộc sống của mọi người. Khi chúng ta viết một bức thư hoặc một e-mail, chúng ta ghi ngày tháng bằng cách đếm số năm kể từ ngày Chúa giáng sinh. Tất cả chúng ta đều cảm thấy hạnh phúc khi nhận quà Giáng sinh, hoặc ngủ nướng thêm một chút sáng chúa nhật, dù chúng ta không tin vào Chúa. Chúa Giêsu tiếp tục tác động đến cuộc sống chúng ta, nhưng ngày càng có nhiều người không nhận thức được ảnh hưởng của Ngài với nền văn hóa và xã hội chúng ta.
Cuộc đời của Chúa Giêsu “của ông” khác với cuộc đời của những người viết tiểu sử khác như thế nào?
Sự khác biệt lớn là tôi xen vào văn bản cổ điển của các sách Phúc âm, những bình luận ngắn gọn từ giáo hoàng và thành quả của trí tưởng tượng của tôi. Ba phần phù hợp với nhau trong một câu chuyện duy nhất và dễ tiếp cận, nhưng chúng khá khác biệt, cho phép độc giả nắm bắt được sự khác biệt. Tất cả mọi thứ được xây dựng thành một câu chuyện duy nhất, đọc dễ dàng.
Đâu là nguồn cảm hứng của ông?
Tôi đã đọc nhiều sách về cuộc đời Chúa Giêsu, nhưng đặc biệt là quyển sách cơ bản của cha xứ Ricciotti xuất bản vào những năm 1940, tái tạo lại cuộc đời của Chúa Giêsu không chỉ từ quan điểm lịch sử mà còn từ quan điểm khảo cổ học và chú giải. Tôi cũng cảm hứng từ quyển sách Cuộc đời Chúa Giêsu của tác giả François Mauriac, trong đó tôi mượn đoạn văn viết về các Mối phúc và suy tư của linh mục thần học gia Thụy Sĩ Maurice Zundel, ngài nhấn mạnh và theo tôi, đó là đoạn văn đưa ra định nghĩa về kitô giáo phù hợp nhất, trước hết đó là cuộc gặp với một con người, chứ không phải với một học thuyết hay một triết lý.
Đó là ba quyển sách quan trọng vì chúng nắm bắt được toàn bộ cuộc đời Chúa Giêsu. Nhưng đó là bài bình luận thần học, cho phép chúng ta đi vào sự hiện hữu của Chúa Giêsu. Quyển sách của tôi ở mức độ thấp hơn. Tôi không tìm cách làm một công trình thần học, mà chỉ muốn kể câu chuyện cuộc đời của Chúa Giêsu.
Đức Phanxicô viết lời nói đầu mạnh mẽ cho quyển sách của ông, và những suy tư của ngài xuyên suốt văn bản. Một số người nói chính ngài nhờ ông viết quyển này…
Chuyện không phải như vậy. Trong thời gian khủng hoảng Covid, trong lần cách ly đầu tiên, mỗi buổi sáng Đức Phanxicô dâng thánh lễ ở Nhà nguyện Thánh Marta và được trực tiếp truyền hình, ngài chú giải cuộc đời Chúa Giêsu trong nhiều bài giảng khác nhau, như ngài vẫn làm kể từ đầu triều của ngài. Những bài giảng tự phát, xuất phát từ trái tim, không phải là bài diễn văn nên có nhiều tác động. Một hôm, một người bạn là linh mục gọi cho tôi và nói: vì sao anh không kể lại cuộc đời Chúa Giêsu qua các lời bình luận của giáo hoàng, dùng các bài giảng của ngài? Đây là cách ý tưởng được sinh ra.
Những nguồn nào ông đã dùng để kể cuộc đời Chúa Giêsu?
Tôi đã viết nhiều tác phẩm về tính lịch sử của các sách Phúc âm; và một khảo sát lịch sử về sự ra đời và phục sinh. Tôi đã đọc rất nhiều về chủ đề này nên đã giúp tôi nhiều để viết câu chuyện này. Từ đó tôi vào trọng tâm những cảnh trong Tin Mừng, cố gắng đặt mình vào vị trí của một nhân chứng kể lại những gì họ thấy, bằng cách mô tả càng sát càng tốt những cảnh sinh hoạt hàng ngày, họ ăn gì, mặc gì… Ngay cả những tên tôi dùng cũng gần nhất có thể với những tên của những người cùng thời.
Với ông, Chúa Giêsu là ai?
Tất nhiên, đó là Thiên Chúa nhập thể, Đấng bao gồm nhân tính trong con người của Ngài ở đỉnh cao. Chúng ta có thể nhìn thấy ở Ngài một nhân tính trọn vẹn, hoàn tựu. Đặc điểm của Chúa Giêsu trong mối quan hệ với người khác là để cho thực tại chạm đến mình, kể cả để cho chính mình bị tổn thương vì nó. Ngài không thờ ơ trước đau khổ của người khác. Như chúng ta thấy trong cảnh ở thành Naim. Chúa Giêsu dẫn môn đệ đi vào thành và Ngài đi ngang qua một đám tang. Một người phụ nữ góa chồng đưa con trai duy nhất của bà về nơi an nghỉ cuối cùng. Đó là một đám tang đầy đau khổ và nước mắt, rời thành phố để chôn đứa con. Hai nhóm chạm nhau. Chúa Giêsu nhìn người phụ nữ này, Ngài xúc động vì nỗi đau của người góa phụ, Ngài đến gần và làm cho con bà sống lại. Đức Phanxicô nhấn mạnh, trong các sách Tin Mừng, cái nhìn quan trọng hơn là lời nói.
Không phải chúng ta đã biết mọi thứ về cuộc đời của Chúa Giêsu Kitô sao?
Mỗi lần đọc lại Tin Mừng, chúng ta dừng lại ở một điều gì đó mới mẻ đang thách thức chúng ta. Chẳng hạn khi viết quyển sách này, tôi nhận ra sự vĩ đại của viên đại đội trưởng la-mã. Ông là người tốt, ngoại giáo, được các nhà chức trách tôn giáo của Capharnaum đánh giá cao. Mọi người vào thời điểm đó đều muốn đón Chúa Giêsu Kitô vào nhà họ. Và người đàn ông này, dường như rất xa cách với Chúa đã nói một câu cơ bản mà ngày nay được lặp lại trong tất cả các cử hành phụng vụ: “Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh.” Và Chúa Giêsu ngạc nhiên, Ngài nói với các môn đệ: “Ta chưa bao giờ thấy ai có đức tin mãnh liệt như người này.” Vậy mà ông là người ngoại đạo.
Làm thế nào chúng ta có thể chắc chắn về tính xác thực của những câu chuyện này?
Không ai còn nghi ngờ Chúa Giêsu đã tồn tại. Hiện nay có một số nguồn bên ngoài các sách Phúc âm hỗ trợ thực tế này. Sau đó, việc tin Chúa Giêsu là con Đức Chúa Trời lại là một chuyện khác. Các thánh sử viết Phúc âm đi theo Ngài bằng con mắt đức tin. Trở thành một phần của câu chuyện này không có nghĩa là chúng ta kém khách quan hơn. Kitô giáo là một sự kiện nối liền với lịch sử thế giới. Mỗi chúa nhật, ở mọi nơi trên thế giới, người công giáo đọc Kinh Tin Kính, là một tổng hợp ngắn gọn về những gì họ tin. Và từ niềm tin này xuất hiện một cái tên, quan tổng trấn Philatô, một người ít được biết đến trong vùng Giuđê. Ông có một liên kết rất mạnh với lịch sử của thời điểm đó. Vì thế cuộc đời của Chúa Giêsu Kitô có một liên hệ với không gian và lịch sử chính xác và không thể nghi ngờ. Những khám phá về khảo cổ học và lịch sử không phủ nhận lời tường thuật của Phúc âm.
Ông là người gần gũi với Đức Phanxicô, ông tìm thấy gì nơi ngài về Chúa Giêsu Kitô?
Tôi biết hồng y Bergoglio năm 2005, tôi chạy theo ngài ở Quảng trường Thánh Phêrô để tặng ngài một trong những cuốn sách của tôi. Điều làm tôi ấn tượng nhất lúc đó là sự gần gũi của ngài với mọi người và lòng thương xót của ngài. Về điểm này, ngài là môn đệ xứng đáng của Chúa Giêsu. Thông điệp quan trọng nhất trong triều Đức Phanxicô là nói với mọi người, có một Thiên Chúa yêu thương chúng ta, đang chờ chúng ta để ôm chúng ta trong vòng tay Ngài và tha thứ cho chúng ta.
Làm thế nào để ông đến gần với giáo hoàng?
Tôi biết ngài trước khi ngài là giáo hoàng. Vì vậy, khi cần, ngài gởi các tờ giấy viết tay, được một trong các thư ký của ngài chụp lại và gởi cho tôi qua e-mail. Hoặc ngài gọi cho tôi, ngài luôn dùng điện thoại bàn, không bao giờ ngài dùng điện thoại di động.
Ngài có thay đổi khi ngài là giáo hoàng không?
Tôi thấy không có khác biệt trong mối quan hệ cá nhân giữa tôi và ngài. Nhưng trong tiếp xúc với mọi người là có thay đổi, chắc chắn. Khi còn là hồng y, ngài là người rất dè dặt. Ngài đã biến đổi khi là giáo hoàng.
Bây giờ ngài như thế nào?
Chúng ta biết ngài bị đau đầu gối, ngài đi lại khó khăn. Nhưng ngài tiếp tục hoàn thành chức vụ của ngài, lên kế hoạch cho những chuyến đi, nghĩ về tương lai. Tôi có thể đảm bảo với ông, ngài sẽ đi trọn con đường. Sự chú ý của thế giới đang tập trung vào cuộc chiến ở Ukraine, nhưng ngài chuyển sự chú ý sang những cuộc xung đột đã bị lãng quên, đặc biệt là ở Nam Sudan, nơi tôi đã đi theo ngài gần đây.
Ông có sẽ nói, như một số người ở Rôma nói, rằng sự ra đi của Đức Bênêđictô XVI sẽ làm cho Đức Phanxicô được tự do hơn không?
Không. Đức Bênêđictô XVI không bao giờ là một gánh nặng, mà đúng hơn là một trợ giúp. Ngài là người hiện diện, ngài không chống đối. Năm 2013, trong một phỏng vấn trên máy bay, Đức Phanxicô đã nói về ngài như người ông chúng ta có trong nhà. Phải nhìn nhận mối quan hệ của họ như vậy.
Giáo hội Công giáo có thể làm gì để thoát khỏi cuộc khủng hoảng cấu trúc mà Giáo hội đang sa lầy?
Sự kiện gặp Chúa Giêsu vẫn là giải pháp cho mọi vấn đề của Giáo Hội, quá khứ, hiện tại và tương lai. Lịch sử đã trải qua những giai đoạn khó khăn hơn nhiều. Hồng y Consalvi là hồng y Quốc vụ khanh vĩ đại nhất trong lịch sử Giáo hội dưới thời Đức Piô VII, khi được tin Napoléon muốn tiêu diệt Giáo hội, ngài đã vặn lại: “Ông sẽ không bao giờ thành công, chúng ta, chúng ta đã không đến đó trong suốt thời gian này, dù chúng ta tội lỗi, dù các tai tiếng của chúng ta.” Câu này đã được hồng y Ratzinger, trước khi là giáo hoàng Bênêđictô XVI nhắc lại năm 2000, khi trình bày việc thanh tẩy ký ức được Đức Gioan Phaolô II yêu cầu, cụ thể là lời xin tha thứ cho mọi tội lỗi giáo dân đã phạm trong suốt lịch sử. Có cần nhắc lại điều gì đã duy trì Giáo hội không thuộc thứ trật loài người không?
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch