2023
Các bằng chứng về sự tồn tại của Chúa: “Nghi ngờ là cấu thành của khoa học cũng như của tôn giáo”
“Người tin không cần đến ‘bằng chứng’ và Chúa lại càng không!” Câu chắc nịch này được tác giả Jacques Arnould đưa ra trong quyển sách của ông khi ông so sánh lịch sử khoa học và đức tin kitô giáo. Một cách có phương pháp, tác giả tố cáo những người theo thuyết tạo dựng đã lợi dụng các khám phá khoa học để biện hộ cho chủ thuyết của họ.
Ông đặt tựa cho quyển sách mới nhất Chúa không cần có ‘bằng chứng’ để ám chỉ đến quyển sách “Chúa. Khoa học, bằng chứng” của hai tác giả Michel-Yves Bolloré và Olivier Bonnassies được xuất bản tháng 10 năm 2021, quyển sách bán chạy và là một thành công lớn với công chúng. Làm thế nào ông đề cập đến vấn đề này?
Jacques Arnould: Con người tin tưởng nhưng cần bằng chứng: con người cần kinh nghiệm để đặt lòng tin nơi bạn bè, tài xế xe buýt, đồng nghiệp, phi công… Nhưng vì sao khi tin tưởng một cái gì cao siêu, siêu hình, tôn giáo thì con người lại không có cùng ước muốn chứng minh? Về phần tôi, tôi không bao giờ quên, liên quan đến vấn đề Thiên Chúa, chúng ta không khựng lại ở thuyết tạo dựng, nhưng chúng ta vấp ở: đau khổ, bệnh tật, cái chết của người thân, đó là những thử thách khó khăn hơn cho chúng ta.
Làm thế nào để giải thích có một số tín hữu tìm cách củng cố đức tin của họ với khoa học?
Quyển sách của hai tác giả Michel-Yves Bolloré và Olivier Bonnassies là một minh họa tốt cho điều này: muốn khoa học cung cấp cho chúng ta bằng chứng cái mà chúng ta gọi là thuyết hòa hợp. Với những người theo thuyết này, các khám phá khoa học sẽ xác nhận các quan điểm tôn giáo. Đây là cám dỗ của Đức Piô XII, năm 1951, trước các thành viên của Giáo hoàng Học viện Khoa học, ngài khẳng định khoa học và vật lý thiên văn xác nhận sự tồn tại của một Thiên Chúa tạo dựng.
Vụ nổ lớn? Quá lý tưởng để thành sự thật, đó là dấu vết của thần thánh. Và chúng ta quên, khoa học trước hết là công việc của nghi ngờ, hiếu kỳ, giả thuyết, thử nghiệm, quan sát, những chuyện không bao giờ ngừng thay đổi để tiến lên phía trước. Trong tiến trình khoa học, bằng chứng là thứ phải bị phá hủy hoàn toàn để tiến lên phía trước…
Điều gì thúc đẩy những người đương thời của chúng ta đến kiểu đơn giản hóa này, thậm chí như một biếm họa của khoa học?
Tôi còn muốn đi xa hơn, tôi gọi đây là giả mạo. Có một đam mê khoa học mang đến cho chúng ta những phát minh công nghệ ngày nay, nhưng đồng thời khoa học bị công cụ hóa để có thể giới thiệu các hệ tư tưởng. Một số đi xa đến mức phát triển một khoa học sáng tạo sai lầm, mâu thuẫn với kết quả hữu hình. Nhưng nghiên cứu là con đường suy tư phi thường không trái ngược với đức tin: Tôi lớn lên mỗi ngày nhờ tôi gặp các nhà nghiên cứu cống hiến trí tuệ, thời gian của họ.
Darwin và những người khác cho chúng ta biết chúng ta đang sống ở thế giới nào, chúng ta là gì, chúng ta đến từ đâu… Cùng với đó, chúng ta vẫn phải phát triển về mặt nhân bản, kể cả trong đức tin.
Nhưng làm thế nào Giáo hội công giáo có thể kết hợp đức tin và kiến thức khoa học?
Chúng ta phải nhớ những gì Đức Gioan Phaolô II đã nói trong bài phát biểu “Về sự tiến hóa” trước Học viện Giáo hoàng Khoa học ngày 22 tháng 10 năm 1996. Về tất cả các công trình khoa học, chúng ta phải xác định các sự kiện – có những hóa thạch, những thế giới trên trái đất này – và không nghi ngờ gì về chúng.
Sau đó, ngài nói, có những lý thuyết khoa học, những xuất phát từ đầu óc con người, mà chúng ta phải tôn trọng và biết những lý thuyết này có thể bị ảnh hưởng bởi một khái niệm của con người, thậm chí là một hệ tư tưởng. Cuối cùng, một khi chúng ta tập trung vào con người là gì, thì khoa học không thể nói mọi điều về con người.
Vì vậy, không có sự lựa chọn giữa đức tin và khoa học?
Chúng ta ở trong hai lãnh vực bị chủ nghĩa tín điều đe dọa. Vấn đề lớn với các phi hành gia là họ luôn ở trong tình trạng vô trọng lực và không thể dựa vào bất cứ gì. Còn chúng ta cần điểm dựa. Trong lãnh vực khoa học cũng như trong đức tin, chúng ta có những quy chiếu, những tín điều, là những hỗ trợ để tiến tới. Nhưng nếu chúng ta không nhúc nhích nữa, nó sẽ trở thành chủ nghĩa giáo điều. Chuyển động là tìm kiếm, nghiên cứu, nghi ngờ, là cấu thành của khoa học cũng như tôn giáo. Tất cả những gì khoa học mang lại cho tôi về kiến thức thực tại, từ xa xôi nhất đến gần gũi nhất, đều làm cho tôi phải suy nghĩ.
Làm thế nào để các truyền thống tôn giáo và thiêng liêng, vốn có một di sản kiến thức về con người, lại bỏ qua những gì khoa học mang lại? Người ta có thể ngạc nhiên trước những gì các nhà khoa học đang nói ngày nay. Chúng ta, những người chỉ là hạt bụi, chúng ta lại có thể nhìn thấy không gian và thời gian lên đến hàng tỷ năm. Hãy để chúng ta được mê hoặc.
Trong một xã hội được đánh dấu bởi tinh thần khoa học, làm thế nào để định nghĩa đức tin?
Đó là một sự hiếu kỳ vô cùng. Trí tò mò luôn hướng về phía trước, nó tiếp tục làm cho tôi có năng lực. Và khoa học gia là người tò mò. Khoa học nuôi dưỡng sự tò mò của riêng tôi. Bằng chứng sẽ ngăn chặn đầu óc tò mò, và như thế thật đáng sợ. Có những lúc đức tin đến để trấn an, để an ủi… để là chỗ dựa. Nhưng chúng ta phải tiến về phía trước. Đức tin đang chuyển động.
Tác giả Jacques Arnould, thần học gia, kỹ sư nông nghiệp, tiến sĩ về lịch sử khoa học. Cựu tu sĩ Dòng Đa Minh, giám đốc dự án tại Trung tâm Nghiên cứu Không gian Quốc gia (Cnes), hỗ trợ cho các nhà nghiên cứu và kỹ sư về các vấn đề đạo đức.
Marta An Nguyễn dịch
2023
Rượu mùi Dòng Thánh Brunô Chartreuse chắt lọc hương vị của lịch sử
Di chúc thiêng liêng của linh mục Dysmas, người muốn hạn chế sự phát triển rượu mùi vì lý do sinh thái
Tìm hiểu công ty duy nhất có chương trình cho 200 năm sắp tới của họ, lại quyết định chặn sự phát triển vì “sự tăng trưởng vô hạn không còn khả thi”
Rượu mùi Dòng Thánh Brunô Chartreuse chắt lọc hương vị của lịch sử
Trong hơn bốn thế kỷ, các tu sĩ Dòng Thánh Brunô đã giữ bí mật công thức pha chế rượu mùi Chartreuse, một pha trộn tài tình của 130 loại thực vật và gia vị. Với nhà máy chưng cất mới, khánh thành cuối tháng 8 năm 2018, công ty muốn đảm bảo tương lai của mình trong 200 năm sắp tới, nhưng không quên di sản tu viện của họ.
la-croix.com, Julien Da Sois, ở Voiron và Entre-deux-Guiers, 2018-09-26
Ở trung tâm vùng rừng rậm Chartreuse, Isère, giữa những đỉnh núi được bao phủ bởi rừng cây xanh dày đặc là bí quyết được lưu giữ từ hơn 400 năm nay. Cho đến bây giờ, công thức rượu mùi Chartreuse, với hương thơm của hoa hồi, dầu chanh và cây cối với những tên không quen thuộc đã thành loại rượu khó ai địch nổi. Ông Emmanuel Delafon, giám đốc điều hành công ty mặc áo có logo Chartreuse cười nói: “Trên mỗi hóa đơn, sư huynh Jean-Jacques dùng hệ sửa lỗi tự động xóa các tên thực vật được dùng trong công thức sản xuất rượu mùi!”
“Thần dược” của 130 loại cây
Chỉ có hai tu sĩ – thầy Jean-Jacques và cha Benoỵt – là biết công thức của thức uống huyền ẩn có nguồn gốc từ năm 1605 này. Ông Emmanuel Delafon nói: “Khi họ có công việc cần đi ra ngoài, họ không bao giờ đi cùng máy bay hoặc cùng xe hơi.”
Công thức vẫn còn tồn tại, được giữ trong thư viện của tu viện Grande-Chartreuse, ở Saint-Pierre-de-Chartreuse, nhưng hai tu sĩ này là những người duy nhất biết tỷ lệ của từng loại cây!
Công việc này được thầy Jean-Jacques làm trong “phòng thực vật” của tu viện. Một mình trước hàng chục bao, thầy tỉ mỉ hái, ngửi và chọn từng chiếc lá, từng loại gia vị. Hàng năm có không dưới 24 tấn thực vật được chuyển đến tu viện trong các bao nặng 150 kí lô.
Du khách bình thường không thể đơn giản vào tu viện. Đạo diễn người Đức, Philip Grưning, đã phải chờ 16 năm trước khi được đặc quyền quay bộ phim Im lặng Cao cả, Le Grand Silence ở đó. Phim đã trở thành cuốn phim nổi tiếng được chiếu tại Pháp năm 2006.
Độ rượu, 69 độ
Trên đồng cỏ của tu viện rộng lớn có khoảng ba mươi tu sĩ sinh sống. Từ đó chúng ta có thể thấy các tịnh cốc của các tu sĩ ở dãy nhà nhỏ lợp mái đen.
Chính tại tu viện thế kỷ 16 này, Rượu Thực vật của Dòng Thánh Brunô ra đời lần đầu tiên năm 1737, sau hơn một thế kỷ tìm tòi không kết quả, với nồng độ cồn 69% được dùng để điều trị rối loạn tiêu hóa. Ông Emmanuel Delafon nói: “Từ thuốc tiên này đã làm rượu mùi Chartreuse. Sản phẩm màu xanh lục của thương hiệu Chartreuse cồn 55 độ, được phát triển gần ba mươi năm sau năm 1764, và màu vàng với 40 độ cồn năm 1838.
Nhưng lịch sử của rượu mùi không phải là lịch sử của một dòng sông dài êm đềm. Bị phân tán trong cuộc Cách mạng Pháp năm 1789, các tu sĩ chỉ trở lại vùng đất của họ năm 1816. Công việc sản xuất rượu chiếm quá nhiều chỗ trong tu viện, năm 1860 họ xây nhà máy chưng cất ở Fourvoirie gần chỗ ở của họ vài cây số, và đây là lần đầu tiên những người không có chuyên môn tham gia vào quá trình sản xuất.
Trục xuất lần thứ hai và một quyết định khó khăn
Năm 1903, hai năm trước khi Giáo hội và Nhà nước tách ra, các tu sĩ bị trục xuất lần thứ hai. Nhà máy chưng cất Fourvoirie và tu viện bị giao cho Nhà nước. Ông Emmanuel Delafon nói: “Vào thời điểm đó, hai trường hợp đã thành đề tài trên các báo: vụ Dreyfus và việc trục xuất các tu sĩ Dòng Thánh Brunô. Họ về ẩn ở Tarragona, Tây Ban Nha, tại đây họ xây một nhà máy chưng cất mới.
Mãi đến năm 1930, họ mới về Fourvoirie. Nhưng cũng không kéo dài bao lâu. Năm năm sau, một trận lở đất đã phá hủy nhà máy chưng cất nằm trên sườn núi. Ngày nay, tàn tích là nhân chứng cho hoạt động kinh tế hưng thịnh trong quá khứ. Vì thế năm 1935, các tu sĩ gấp rút chuyển cơ sở sản xuất của họ đến Voiron, cách đó 15 cây số, nơi họ đã có một căn hầm và nhà kho.
Từ đó không còn cuộc phiêu lưu nào trong hơn 75 năm. Cho đến năm 2011. Ông Emmanuel Delafon cho biết: “Năm đó, các quy định của châu Âu phân loại rượu này là hydrocacbon, vì nó là chất lỏng rất dễ cháy.”
Ông Delafon là cựu kiểm toán viên của hãng Gucci đảm nhận chức vụ năm 2013, ngay lập tức ông đối diện với một lựa chọn khó khăn: đầu tư để bảo vệ di tích lịch sử Voiron, nơi lưu trữ hai triệu lít rượu ở trung tâm thành phố, hay phải dọn đi. Quyết định là phải dọn đi. Ông giải thích: “Quá tốn kém để làm cho nhà máy chưng cất đạt tiêu chuẩn.”
Vì thế công ty phải tìm một địa điểm sản xuất mới. Lựa chọn là vùng Aiguenoire, một ngôi làng ở thị trấn nhỏ Entre-deux-Guiers, nằm giữa đồng cỏ bát ngát. Ông Emmanuel Delafon cho biết: “Đó là nơi về nhà của các tu sĩ, họ đã ở đây từ năm 1618 đến năm 1791, thời đó họ làm nghề nông và đánh cá.”
Nồi chưng được dùng để chưng cất rượu xanh hoặc rượu vàng. / Stephane/Couchet
Sau 18 tháng làm việc và đầu tư 10 triệu âu kim, tháng 11 năm 2017, nhà máy chưng cất thứ bảy trong lịch sử của các tu sĩ Dòng Thánh Brunô bắt đầu hoạt động. Lễ khánh thành ngày 30 tháng 8, đây là ngày mang tính biểu tượng vì kỷ niệm 400 năm các tu sĩ đến vùng đất này.
Dịp này, các tu sĩ tìm thấy lịch sử của họ ở đây. Trước mặt họ là nhà máy chưng cất đã được xây theo một kiến trúc tương tự, tạo hiệu ứng như tấm gương soi. Bên trong là ba nồi chưng cất, một bằng đồng đem từ Voiron đến, được giữ gìn rất tốt dù tuổi đời đã cao. Ông Bertrand de Nève, cựu thương gia rượu, người quản lý nhà máy chưng cất giải thích: “Các túi chứa hỗn hợp thảo mộc, công thức được mã hóa được đem đến đây để vào ba quy trình sản xuất: chưng cất, ngâm và chiết xuất.”
Để tránh cho hai tu sĩ phải liên tục đi lại giữa tu viện và nhà máy chưng cất, một hệ thống liên kết máy tính đã được lắp đặt. Cứ ba tuần các tu sĩ thu được gần 42.000 lít rượu mùi.
Dự án di tích lịch sử
Sau khi xong giai đoạn chưng cất, rượu được các ống đồng chuyển đến hầm ủ lâu năm, tại đây có các thùng gỗ sồi khổng lồ được xếp thành hàng có thể chứa đến hai triệu lít. Sau đó rượu nằm yên nghỉ trong nhiều năm. Và thời gian ủ thì ông Bertrand de Nève trả lời vòng vòng: “Khoảng, có khi nhiều hơn một chút…” Bí mật!
Nhưng không có chuyện từ bỏ di tích lịch sử ở Voiron. Đây là một phần không thể thiếu trong dự án “Tương lai lớn” của công ty, một hành trình “trong 200 năm tới”. Việc đóng chai vẫn làm ở Voiron, và chuyển giao cho Aiguenoire năm 2020. Nhưng hầm ủ rượu, “dài nhất thế giới với 164 mét” sẽ tiếp tục cung cấp 10% sản lượng, trong hàng chục thùng cũ được cất cạnh nhau trong bóng tối.
Ông Emmanuel Delafon nói: “Mục đích là biến di tích lịch sử Voiron thành nơi du lịch tâm linh đích thực. Một trong các dự án của chúng tôi là bày biện các bàn ăn chung quanh tu viện.”
Nhưng, theo cách nói của ông chủ trẻ, lợi nhuận không phải là chuyện công ty phải chạy theo: “Chúng tôi muốn chúng tôi vẫn là công ty lớn nhất của những nhà sản xuất rượu mùi nhỏ làm theo kiểu thủ công. Năm ngoái, doanh thu của công ty là 17 triệu âu kim.”
Ông nói: “Ngày nay chúng tôi bán ở nước ngoài nhiều hơn ở Pháp, đặc biệt là ở Hoa Kỳ. Bằng chứng cho sự nổi tiếng ở nước ngoài của rượu Dòng Thánh Brunô: đạo diễn Quentin Tarantino đã dùng rượu của Dòng trong các cảnh quay của hai phim Boulevard de la mort (Đại lộ Tử thần) và Inglourious Basterds (Những người khốn kiếp không vinh hạnh) của ông.
Các con số của rượu Dòng Thánh Brunô
10.000 du khách mỗi năm
Có hai công ty riêng biệt: Công ty Pháp Grande Chartreuse, quản lý việc sản xuất và công ty Chartreuse Diffusion bán rượu từ những năm 1970.
Hai công ty này có 70 nhân viên, trong đó có hai tu sĩ được trả bằng tiền bản quyền.
Sản xuất 1,5 triệu chai mỗi năm. Xuất cảng trên hơn 50 quốc gia, chính yếu ở Hoa Kỳ, Đức, Tây Ban Nha, Canada và Mexico.
Hiện nay rượu Chartreuse màu xanh lá cây chiếm 80% doanh số bán của công ty, vào cuối thế kỷ 19, nó chỉ là một phần ba.
Một chai 70 cl khoảng 30 âu kim. Rượu sưu tập được sản xuất tại Tarragona, Tây Ban Nha trong những năm 1960, bây giờ có giá từ 2.000 đến 2.500 âu kim.
Trung tâm rượu mùi Chartreuse ở Voiron đón 100.000 du khách mỗi năm.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
2023
Sử gia Antoine Mourges: “Việc điều tra vụ ông Jean Vanier đã làm tôi thay đổi cách đọc Tin Mừng”
Sử gia Antoine Mourges: “Việc điều tra vụ ông Jean Vanier đã làm tôi thay đổi cách đọc Tin Mừng”
Antoine Mourges, nhà sử học đầu tiên làm việc về lịch sử của Hiệp hội Arche khi còn là sinh viên, sau đó là nhà nghiên cứu tập trung vào khía cạnh tối của ông Jean Vanier, nói lên quan điểm cá nhân của ông về những nghiên cứu ông đã làm từ hơn mười năm trước.
Một bức tranh trừu tượng trên tường, các kệ vẫn còn hơi trống: Antoine Mourges vừa dọn về đây vài tháng trước, ông mới có chút thì giờ để lấy sách ra khỏi các thùng. Nhà sử học, giáo sư trung học từ mười năm nay đã hy sinh một chút thoải mái của mình để tập trung vào công việc trong ủy ban nghiên cứu được Hiệp hội Arche ủy thác để điều tra mặt tối của ông Jean Vanier, người sáng lập Hội. Những kết luận đã được công khai ngày 31 tháng 1 và được công bố. Kể từ đó, ánh mắt của giáo sư sử gia 39 tuổi mới thanh thản, một thanh thản chúng tôi chưa hề thấy ở ông cho đến bây giờ.
Cuộc phiêu lưu của Antoine Mourges với Hiệp hội Arche bắt đầu ở cộng đồng Brittany, nơi ông ở bốn năm khi vừa đến tuổi trưởng thành. Sau đó ông theo học lịch sử ở Montpellier (Hérault). Người thanh niên chọn đối tượng nghiên cứu quen thuộc trong quá khứ của mình là một thực tế phổ biến. Ông đã không ngờ khi đào xới móng của Hiệp hội Arche, mấy năm sau ông đã phải đào những xác chết bẩn thỉu nhất. Ông trả lời báo La Vie, nhìn lại hơn mười năm điều tra và tiết lộ mặt trái của công việc cũng như hành trình cá nhân của ông.
Năm 2009, ông đã làm “cuộc điều tra” đầu tiên về Hiệp hội Arche. Hôm nay ông vẫn còn tự hỏi “làm sao tôi lại không nhìn thấy?”
Sử gia Antoine Mourges. Nhờ tất cả những công việc chúng tôi làm trong những năm gần đây, bây giờ tôi hiểu vì sao tôi không biết và không thể nhìn thấy. Tôi còn trẻ, những năm tháng của tôi ở Arche vẫn còn gần đây và tôi vinh dự được làm công việc này khi có đặc quyền tiếp xúc với ông Jean Vanier, người sáng lập. Có một phần mù quáng của tôi cũng như nhiều người khác. Nhưng bây giờ tôi hiểu, nếu không có kiến thức chính xác về các sự kiện thì không thể đo lường mức độ nghiêm trọng của vấn đề. Chắc chắn chúng tôi đã có rất nhiều thông tin: các lời buộc tội của phụ nữ với linh mục Thomas Philippe, sự lên án của Vatican, sự ủng hộ không điều kiện của ông Jean Vanier dành cho người cha thiêng liêng của ông trong suốt đời ông… Tuy nhiên, không la bàn, không có chi tiết thì điều này vẫn chưa rõ ràng : không ai có thể đoán được tổng hợp nhưng tin tưởng thầm kín và mức độ điên cuồng trong hành động. Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã có hàng chục giờ phỏng vấn ông Jean Vanier, tôi đã nghe lại cho công việc gần đây. Tôi đã đặt câu hỏi về chuyện này, về sự trừng phạt này… và ông Jean Vanier đã trả lời! Nhưng ông đi bên cạnh chủ đề.
Hay đúng hơn, bây giờ tôi hoàn toàn nắm bắt được vấn đề, khi tôi ở giữa những sự thật nửa vời, những lời biện minh thần bí mà ông tin suốt đời: đó không phải là vấn đề đạo đức, không phải là chuyện tình dục, mà là một trải nghiệm thần bí mà chúng ta đã không hiểu, ông giải thích cho tôi. Tôi, người chưa bao giờ ở cạnh con người này, tôi chỉ mới đọc hai quyển sách của ông, tôi đã nghe ông giảng mười hay mười lăm lần trong mười tám tháng làm việc, nơi tôi thường đến Trosly-Breuil, nơi ông chết ở đó. Ông là diễn giả tuyệt vời, bây giờ tôi hiểu động lực của ông: với giọng nói nhỏ nhẹ, cách nói chậm rãi, ông tạo ấn tượng về sự khiêm tốn cao cả và lần nào ông cũng làm tôi xúc động. Nhưng ông có một từ chủ yếu dựa vào tình cảm, như nhà thần học Gwennola Rimbaut đã chứng minh.
Ông đã được bật đèn xông cho công việc đầu tiên của ông. Làm thế nào ông hiểu ông đã được chấp nhận?
Ngay cả bây giờ tôi vẫn còn tự hỏi vì sao ông Vanier đã đồng ý. Có lẽ ông không nghi ngờ tôi có nhiều thông tin như vậy. Các tu sĩ Đa Minh, không cần mở tất cả các kho lưu trữ của họ, đã chấp nhận cho tôi tham khảo các tài liệu nói tích cực về Nước Hằng Sống, trung tâm tâm linh nơi ông Jean Vanier đã gặp linh mục Thomas Philippe. Nhờ giám đốc nghiên cứu Michel Fourcade của tôi, tôi đã có thể truy cập tài liệu Maritain, trong đó nhà triết học nổi tiếng đưa ra một số thông tin về các vấn đề xung quanh linh mục Thomas Philippe. Trong bài luận tốt nghiệp dài hơn 300 trang của tôi, tôi thuật lại điều mà lúc đó được gọi là “bí mật gia đình”, được che đậy bởi bí mật giáo hoàng và liên quan đến đạo đức và thuyết thần bí.
Nhưng phải đến năm 2019, ông mới khám phá ra nội dung chính xác của “bí mật gia đình” này.
Mùa hè năm 2019, Hiệp hội Arche đưa cho tôi những thùng tài liệu được tìm thấy ở nhà ông Jean Vanier với chữ “NFA” (not for all, không dành cho tất cả, có thể dịch là “dành cho người được thông báo”) và cho tôi biết, tôi có thể hoàn toàn truy cập kho lưu trữ của Dòng Đa Minh. Sau đó, tôi làm việc với các tài liệu này với ba câu hỏi Hiệp hội ủy thác tôi làm: chuyện gì đã xảy ra, ông Jean Vanier đã biết gì, trách nhiệm của Hiệp hội Arche là gì? Đó là khó khăn khi đào sâu trong một cái đầu bệnh hoạn. Vì tôi chủ yếu có những bức thư của linh mục Thomas Philippe gởi cho đệ tử Jean Vanier. Chữ viết không thể đọc được và bằng ngôn ngữ được mã hóa. Tôi đã sao chép mọi thứ để có thể dò tìm và cố gắng ghi lại ngày. Là người đọc, tôi liên tục bị ấn tượng tất cả đều bị vặn vẹo, mà không cần phải đặt ngón tay vào gì…
Sau đó, lưu khố của Dòng Đa Minh cho phép tôi kiểm tra chéo các sự kiện, cấu trúc mọi thứ. Các thư từ của “NFA” cho thấy một bầu khí đầm lầy thiêng liêng, nơi người ta bị chìm xuống mà không thấy các yếu tố vững chắc nào để bám vào; song song đó, các tài liệu của Dòng Đa Minh đưa ra sự thật, dù có một số nghi vấn, nhưng gần như đã được chứng minh rõ ràng. Tôi mò mẫm rất lâu trước khi tìm ra ý nghĩa. Sau đó, tôi làm được bản thảo đầu tiên tổng quan về cái mà tôi gọi là “10.000 mảnh ghép”! Tôi đi về phía trước như đang đi trong đường hầm, với một tinh thần nghiêm khắc và xa cách, giữ trong đầu các vấn đề của Hiệp hội Arche như kim chỉ nam, dù một câu hỏi khác nhanh chóng được thêm vào: chính ông Jean Vanier đã làm gì? Tôi gởi cho họ một tài liệu khoảng 80 trang, trong đó tôi cân nhắc từng chữ. Tôi cảm thấy trách nhiệm và tầm quan trọng trong vai trò của một sử gia với một cường độ đặc biệt.
Đó có phải là lý do tại sao ông muốn tiếp tục?
Khi Hiệp hội Arche nói với tôi họ sẽ thành lập một nhóm đa ngành để tiếp tục công việc, tôi đồng ý tiếp tục vì tôi hiểu chúng tôi phải đi xa hơn nữa để có được tất cả các câu trả lời cho những câu hỏi vẫn còn rất nhiều.
Ông không có ấn tượng xâm phạm vào cõi mật thiết của linh mục Thomas Philippe và ông Jean Vanier một cách hung bạo sao?
Cách tiếp cận của nhà sử học là tham gia đối thoại ngay cả khi mọi người đã chết. Thông qua các tài liệu, dấu vết, chúng tôi cố gắng tìm hiểu họ là ai và ý nghĩa hành động của họ. Tôi luôn trải nghiệm công việc này như một dạng của mối quan hệ. Ở đây, mức độ thân mật rất mạnh mẽ, nhưng không phải theo nghĩa mà bà muốn nói: Tôi thường có ấn tượng chính sự thân mật của tôi đã bị hủy hoại khi ở bên cạnh hai người đàn ông như thế này… Đó là công việc rất nặng nhọc. Nhưng không bao giờ có vấn đề của thói nhìn trộm, việc tìm hiểu cuộc sống dối trá của họ trở nên cần thiết và cấp bách, vì linh mục Thomas Philippe và đặc biệt là ông Jean Vanier đã có ảnh hưởng đến hàng ngàn người và cộng đồng, và chúng ta phải thực thi công lý cho những nạn nhân mà họ gây ra.
Ông cảm thấy thế nào trong suốt những năm điều tra này?
Dần dần, tôi bị thu hút bởi mức độ lớn lao của bóng tối được tiết lộ. Khi chúng tôi biết về việc phá thai của một phụ nữ, việc tôn kính thai nhi, áp lực tâm lý buộc một phụ nữ phải từ bỏ đứa con của mình để đi tu… chúng tôi tự hỏi chúng tôi sẽ đi xuống đáy này bao sâu. Có một mặt bào mòn không thể phủ nhận. Cứ từng yếu tố thấy được, tôi có cảm tưởng như rơi xuống từng chút một khi những yếu tố chắc chắn đã được thiết lập. Đôi khi chúng tôi ở hàng tuần hoặc thậm chí hàng tháng trước khi có thể xác nhận chi tiết khủng khiếp như vậy, chuyện này rất khó để chịu đựng.
Công việc này có làm lung lay mối liên hệ của ông với Hiệp hội Arche không?
Với tư cách là một cựu thành viên của Arche và vẫn là bạn của Arche, tôi chia sẻ sự suy sụp, buồn bã và cảm giác bị phản bội của nhiều người khác. Giống như nhiều người, tôi hiểu tôi đến Arche không phải để gia nhập vào một nhóm tà phái hay để đi theo linh mục Thomas Philippe hay thậm chí đi theo ông Jean Vanier. Tôi biết, có lẽ hôm nay còn hơn hôm qua, chính cuộc gặp gỡ đặc biệt với người khuyết tật đã làm tôi xúc động và đó mãi mãi là một phần cuộc đời tôi. Tình bạn được sinh ra ở đó không phai nhạt dưới ánh sáng của những tiết lộ này. Dĩ nhiên, tôi đã đọc lại ý nghĩa thiêng liêng tôi đã có thể mang lại cho kinh nghiệm sống cộng đồng của tôi, tôi đã xây dựng lại và xem xét lại và nó không ngừng mang lại hoa trái cho tôi.
Đức tin của ông có thay đổi vì cuộc điều tra này không?
Có, việc điều tra về ông Jean Vanier đã tác động đến cách tôi đọc Tin Mừng, nó đến với tôi và biến đổi tôi. Tôi nhận được từ những người sáng lập hiệp hội Arche sự đồng cảm với Phúc âm Thánh Gioan, với cách đọc hơi thần bí. Tuy nhiên, ở một thời điểm trong quá trình điều tra, tôi nhận ra rằng ông Jean Vanier và linh mục Thomas Philippe đã đi xa đến mức bóp méo Tin Mừng như thế nào. Trong khi tôi tin tưởng họ sẽ làm cho tôi khám phá Tin Mừng, thì họ lại bóp méo Tin Mừng. Tôi có cảm giác mất phương hướng sâu đậm khi nhận ra điều này.
Ông có cầu nguyện được trong thời gian này không?
Tôi đã được những người khác đồng hành trong lời cầu nguyện. Thời gian chúng tôi làm việc với nhóm đa ngành là lúc chúng tôi ở giữa cuộc khủng hoảng Covid, đồng thời cũng là thời gian tôi chuẩn bị luận án về Anh em Tiểu đệ Chúa Giêsu, tôi sống cách ly trong nhà của họ để gần với lưu khố. Sự hỗ trợ của họ đã giúp tôi. Tôi nghĩ, trong ba đến bốn năm tìm hiểu này, tôi đã học lại cách cầu nguyện. Bằng cách liên tục bị bức bách, đức tin của đã được “cắt tỉa”, nhưng từ đó nó lại được điều chỉnh. Tôi trải nghiệm một hiệu ứng phản chiếu: nhận thấy sự nhầm lẫn, từ khóa trong vụ này và sự siêu thiêng liêng hóa tất cả các mặt của cuộc sống của họ, với ông Jean Vanier và linh mục Thomas Philippe, tôi buộc phải tự vấn bản thân về mối quan hệ của chính tôi với đức tin.
Đôi khi tôi tự hỏi: nếu tôi cắt tỉa một lần nữa, liệu có còn lại gì không? Tôi vẫn là một tín hữu, nhưng điểm neo này, nếu nó được củng cố, thì nghịch lý thay, nó lại càng ngày càng trở thành một dấu hỏi. Tôi tìm thấy một chú tâm mới để Tin Mừng vang vọng trong tôi ở những khía cạnh nhân bản và đời thường nhất. Tôi đã xem lại từ “lời” rất nhiều: lời của con người, lời của Chúa. Câu đọc trong thánh lễ “xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ được lành mạnh” đã đi cùng tôi, thực sự có một cái gì đó về một lời chữa lành.
Dấu hiệu hy vọng nào ông còn giữ trong công việc từ mười năm nay này?
Giữa tất cả nỗi kinh hoàng, có những phụ nữ đã nhìn thấy ánh sáng và lên tiếng. Sự im lặng và xa lánh đã bị phá vỡ vì những khát khao cho sự thật, điều này thật dễ chịu. Vai trò của hồng y Paul-Pierre Philippe, người đã chấp nhận sự trừng phạt theo giáo luật với linh mục Thomas Philippe, sự trong sáng mà ngài đảm nhận vai trò thiết lập sự thật và đứng về phía nó trong công lý, điều này đã m
Cuối cùng, không phải sự điên rồ thắng thế. Khi chúng tôi suy nghĩ về kết quả cuối cùng của ủy ban nghiên cứu, chúng tôi đã đồng ý về một khía cạnh rất quan trọng: chúng tôi phải công bố và cho phép mọi người tiếp cận rộng rãi các kết luận của chúng tôi. Chúng tôi phải trả lại toàn bộ câu chuyện này cho những người sở hữu nó và những người đã là tù nhân của bí mật “tà phái” này đã quá lâu. Kể từ khi công bố, chúng tôi đã nhận được nhiều tin nhắn khẳng định quyết định của chúng tôi. Một số người đã trải qua những tình huống bị lạm dụng đã viết thư cho chúng tôi, họ cho biết việc đọc bản điều tra là một cách để chữa lành cho họ, để tiến về phía trước mà không cảm thấy choáng ngợp bởi sự thật. Hy vọng của tôi là ở đó, trong tầm quan trọng của một lời, đó là con đường của sự thật và mở ra con đường tái xây dựng lại con người.
Marta An Nguyễn dịch
2023
Ông Ernest, người vô gia cư hàng đêm chăm sóc người vô gia cư khác
Sau khi được “thiên thần hộ mệnh” cứu, ông Ernest McPherson quyết định đến lượt ông, ông trông chừng những người vô gia cư khác.
Ông Ernest McPherson, 54 tuổi ở Meadow Lake, Canada đã suýt chết trong trận bão tuyết năm ngoái, khi nhiệt độ xuống -38 độ âm, ông mất ý thức về thời gian và ngủ quên trong giá lạnh. Ông được một người cứu bằng cách đá vào ông. Bây giờ mỗi đêm ông canh gác để giúp những người vô gia cư khác trong cộng đồng của ông có thể sống sót qua mùa đông lạnh giá. Vào những giờ đầu ngày, ông đi quanh thị trấn nhỏ Meadow Lake để thăm khoảng 20 người vô gia cư ngủ trong xe hoặc trong những tòa nhà đổ nát.
Meadow Lake không có nơi trú ẩn cho những người vô gia cư nên họ không có nơi nào để sưởi ấm ban đêm. Ông Ernest McPherson cố gắng giúp họ bằng cách cho họ quần áo ấm và đưa họ vào những nơi để họ có thế tránh lạnh.
Ngủ ở nhiệt độ -38 độ âm
Ông nói với hãng tin CBC: “Như thử không còn chỗ nào cho họ và cũng không ai muốn chứa chấp họ. Họ rất vui khi thấy tôi đến. Và tôi rất vui khi gặp họ vì họ có thể bị chết cóng ở đây.”
Ông Ernest McPherson cũng đã suýt chết trong hoàn cảnh này năm ngoái, nên kể từ đó, ông muốn giúp người khác sống sót: “Chừng nào họ không có nơi ẩn náu, tôi sẽ ở lại đây trông chừng mỗi đêm cho họ.”
Bà Natanis Bundschuh, phụ trách tổ chức bếp tập thể giải thích: “Những người vô gia cư ở thị trấn nhỏ này nhận được sự giúp đỡ của tổ chức kitô giáo – Meadow Lake Outreach Ministries – nhưng tổ chức này chỉ mở cửa vài ngày một tuần.”
Phần thưởng cho sự cống hiến của ông
Vì những nỗ lực của ông giúp những người vô gia cư khác, ông đã nhận Huân chương bạch kim của Nữ hoàng Elizabeth II. Bà Natanis Bundschuh nói: “Chúng tôi hãnh diện khi thấy có người trong cộng đồng chúng tôi được khen thưởng vì đã quan tâm đến những người không ai quan tâm.”
Ông Ernest McPherson nhận Huân chương bạch kim của Nữ hoàng Elizabeth I
Theo ông Ernest McPherson, giải thưởng này rất quan trọng với tất cả những người vô gia cư: “Thật vinh dự khi được công nhận vì tất cả những gì tôi làm để giúp đỡ người vô gia cư ở Meadow Lake. Tôi rất vui khi có mặt ở đây hôm nay để thay mặt các bạn vô gia cư của tôi phát biểu.”
Nhờ tấm gương của ông, thị trấn nhỏ Meadow Lake đã can thiệp để giúp đỡ người vô gia cư trong những tình huống bấp bênh. Các công ty đã quyên góp và một trung tâm tiếp nhận sẽ được mở, tạo cơ hội cho những người vô gia cư được sưởi ấm 20 giờ một ngày.
Ông Ernest tiếp tục giúp đỡ những người gặp khó khăn. Câu chuyện của ông nhắc chúng ta tầm quan trọng của việc luôn tìm cách giúp đỡ người khác, ngay cả khi chúng ta đối diện với những khó khăn của chính mình.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch