2022
Sống chiều kích hoán cải vì một Hội thánh hiệp hành
SỐNG CHIỀU KÍCH HOÁN CẢI VÌ MỘT HỘI THÁNH HIỆP HÀNH
An Bình, C.Ss.R.
Một Hội Thánh hiệp hành
Như đã biết, chủ đề của Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ XVI (THĐGM XVI) là hướng tới một Hội Thánh hiệp hành: hiệp thông, tham gia và sứ vụ. Ngoài sự mới mẻ của hạn từ “Chiesa sinodale – Hội Thánh hiệp hành”, nghĩa là “mọi thành phần trong Hội Thánh bước đi cùng nhau trên cùng một con đường”[1], thì các hạn từ còn lại xem ra quá quen thuộc với người Kitô hữu. Nhưng vì quá quen thuộc nên chúng ta dễ dàng tầm thường hóa chúng. Thiết nghĩ, để tránh việc biến những hạn từ này thành câu “khẩu hiệu” quen thuộc hay trở thành những câu chữ trên mặt giấy, chúng ta được mời gọi phải làm rõ mục đích của Thượng Hội đồng hơn là cố gắng giải thích chủ đề của Thượng Hội đồng. Chính ĐTC Phanxicô khẳng định, Thượng Hội đồng không phải để tạo ra các tài liệu, mà là để “gieo mầm ước mơ, làm sống lại tính ngôn sứ và tầm nhìn, làm trổ sinh niềm hy vọng, khơi dậy niềm tin, băng bó các vết thương, cùng nhau kiến tạo tương quan, đánh thức bình minh hy vọng, học hỏi lẫn nhau và tạo ra những hiệu ứng tích cực giúp khai mở trí tuệ, sưởi ấm trái tim, phục hồi sức mạnh đôi tay”[2]. Như vậy, Hội Thánh hiệp hành là một Hội Thánh “cùng nhau hành động, cùng nhau bước đi” chứ không phải “cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa các hạn từ”. Những câu hỏi được đặt ra và phải cùng nhau trả lời là: Làm sao để có được một Hội Thánh hiệp hành? Làm sao để thực hành tính hiệp thông, tham gia và sứ vụ? Chứ không phải giải thích và học hỏi tính hiệp hành, tính hiệp thông, tính tham gia và sứ vụ là gì?
Theo đó, ý định của Thượng Hội đồng là đặt Hội Thánh trong tình trạng lên đường, một Hội Thánh ở trạng thái “chuyển động”, chứ không phải “đứng yên”. Hay nói cách khác, một Hội Thánh mà trong đó, mọi thành phần cùng nắm tay, cùng bước đi, trên cùng một con đường như chính hạn từ “hiệp hành” định nghĩa. Hiệp hành không phải là đi trên cùng một con đường hiểu theo nghĩa kẻ trước người sau và giữa những người lữ hành không quen biết nhau, không liên hệ đến nhau và không thuộc về nhau. Nhưng hiệp hành nghĩa là tôi biết rõ người bên cạnh tôi là ai, hoàn cảnh của người đó như thế nào? Tôi cũng biết mối liên hệ và ràng buộc giữa tôi và những người đồng hành với tôi. Trong hành trình cùng nhau đó, mọi người đóng vai là những người lữ hành, không phân biệt tư tế thừa tác (phẩm trật) hay tư tế phổ quát, trí thức hay bình dân, giàu sang hay nghèo khổ, lành mạnh hay bệnh tật, cao niên hay mới sinh và đảm bảo rằng mọi người được tôn trọng phẩm giá như nhau và không một ai bị bỏ lại phía sau. Hơn thế nữa, trên quãng đường cùng đi giữa những người lữ hành phải làm phát sinh sự quan tâm, nâng đỡ, đối thoại, đồng cảm, thấu hiểu và bình đẳng với nhau.
Đích điểm cuối cùng của Thượng Hội đồng là làm cho Hội Thánh tiến gần hơn tới chiều kích viên mãn của mình. Với những người lữ hành, hành trang họ mang theo là nhu yếu phẩm cần thiết để duy trì hành trình. Thì cũng vậy, tiến trình Thượng Hội đồng cần phải chuẩn bị cho mình hành trang cần thiết để đảm bảo rằng, mọi người đều có thể đạt tới đích điểm cuối cùng. Hành trang đó không gì khác hơn đó là đời sống cầu nguyện. Vì, ngang qua cầu nguyện, chúng ta mời và cho phép Đức Kitô cùng đi với chúng ta và đặt Ngài vào vị trí Người Dẫn Đường. Và do đó, trong hành trình “hiệp hành” giữa tôi và bạn, hay giữa hai đối tượng bất kỳ, không chỉ có hai người cùng đi mà là ba: tôi, bạn và Đức Kitô. Nếu chúng ta không cho phép Đức Kitô “hiệp hành” với chúng ta, coi chừng chúng ta đang đi chệch hướng. Đó cũng là tiến trình của Thượng Hội đồng hướng tới, chúng ta bước đi cùng nhau và cùng với Đức Kitô trên cùng một con đường.
Thiết nghĩ, để bước vào tiến trình của Thượng Hội đồng và hiện thực hóa chủ đề mà Thượng Hội đồng đã đề nghị, thì lời mời gọi đầu tiên dành cho mọi thành phần Dân Chúa là lời mời gọi hoán cải: hoán cải để trở về với con người thật của mình; hoán cải để quyết tâm thay đổi đời sống; hoán cải để mở ra một hướng đi và thiết lập mối tương quan mới; hoán cải để có cảm thức thuộc về nhau và hoán cải để cùng nhau sống sự hiệp thông, tham gia và sứ vụ trong Hội Thánh.
Hoán cải là gì?
Ba nhà đạo sĩ trong câu chuyện Tin Mừng (x. Mt 2,1-12) sẽ chỉ cho chúng ta câu trả lời hoàn hảo: hoán cải là thay đổi lối đi. Thật vậy, sau khi được thỏa mãn khao khát gặp gỡ Vua Dân Do Thái, các ông tiến dâng cho Ngài những gì quý giá nhất và sau đó đã đi lối khác mà trở về quê hương mình (x. Mt 2,12). Một điểm đáng chú ý, các ông không thể tự mình thay đổi lối đi, nhưng cần có sự tác động và sự chỉ dẫn của Thiên Chúa. Như vậy, hoán cải luôn là một đòi hỏi kép, một đàng chính chủ thể dấn thân gặp gỡ Thiên Chúa và đàng khác là biến đổi đời sống. Chúng ta chỉ chắc chắn mình đã gặp gỡ Đức Kitô khi hướng đi của cuộc đời: suy nghĩ, hành động, lối sống, tâm trí và con tim của chúng ta được biến đổi.
Tại sao phải hoán cải?
Trong Tin Mừng, thánh sử Mác-cô thuật lại cho chúng ta việc Đức Giêsu chữa lành người bị bại tay (Mc 3,1-6). Chúng ta thấy gì nơi những người Pha-ri-sêu? “Họ rình xem Đức Giêsu có chữa người ấy trong ngày sa-bát không để tố cáo Người” (c.2). Nghĩa là họ không hướng ánh nhìn vào người đang chịu đau khổ đang hiện diện trước mặt, mà họ tập trung vào hành động và lời nói của Đức Giêsu để bắt bẻ Người. Chúng ta cũng có thể là những người “Pha-ri-sêu thời đại mới”, nếu chúng ta không có cái nhìn của Đức Giêsu, tức là cái nhìn hướng đến nỗi đau của người khác. Trong tiến trình Thượng Hội đồng, nếu chưa có sự hoán cải, nghĩa là chưa thay đổi toàn bộ con người mình cả về cách suy nghĩ lẫn hành động, cả về lối sống lẫn con tim, chúng ta có nguy cơ trở thành những “Pha-ri-sêu khác”. Khi đó, trong sự gặp gỡ, lắng nghe, thay vì để thấu hiểu và đồng cảm lẫn nhau, chúng ta lại biến chúng thành cơ hội để chỉ trích và lên án những lầm lỗi, những thiếu sót và thậm chí cả tội lỗi của nhau. Hệ quả là phân định chỉ dừng lại ở việc “rút kinh nghiệm” chứ không phải là tìm một hướng đi mới cho hành trình của Hội Thánh dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần. Nhưng thay vào đó, nếu có sự hoán cải, thì trong những cuộc gặp gỡ, lắng nghe và phân định, chúng ta sẽ mang lấy cái nhìn của Đức Giêsu. Chúng ta tập trung vào những thương tích, những gánh nặng, những khổ đau của nhau, không bỏ rơi nhưng cam kết đồng hành với nhau. Lẽ dĩ nhiên, chúng ta không thể lãng quên quá khứ, nó là một phần tất yếu của cuộc sống, nhưng thay vì nhìn về quá khứ để than vãn, trách móc và nuối tiếc chúng ta hãy nghĩ về tương lai trong sự quyết tâm cùng nhau thay đổi. Hoán cải là để tìm về lại với con người thật của mình, trong sự mỏng giòn, yếu đuối, nhưng riêng biệt, không lặp lại. Chỉ khi nào chúng ta kinh nghiệm được sự bất toàn, sự giới hạn và cả tội lỗi của mình, chúng ta mới hy vọng có một con tim biết chạnh thương trước nỗi đau của người khác. Như vậy, nhờ sự hoán cải chúng ra dễ dàng cảm thông, chia sẻ, sẵn sàng gánh lấy trách nhiệm cùng nhau và tìm cách chữa lành những vết thương cho nhau.
Nếu như chưa có sự hoán cải mà đã đi vào sự hiệp thông, sự tham gia và sứ vụ thì chúng ta cũng có nguy cơ rơi vào tình trạng bi đát mà Tin Mừng cảnh báo: “Rượu mới mà đổ vào bầu da cũ thì rượu sẽ làm nứt bầu, rượu sẽ chảy ra và bầu cũng hư. Nhưng rượu mới thì phải đổ vào bầu da mới” (x. Lc 5, 37-38). Tinh thần của Thượng Hội đồng được ví nhưng một “làn gió” mới mẻ và tươi mát thổi vào đời sống của Hội Thánh, để canh tân Thân Thể Mầu Nhiệm của Đức Kitô. Hội Thánh không phải là một tổ chức hành chính, nhưng là một cơ cấu có phẩm trật, nơi đó mỗi người Kitô hữu là một chi thể, và mọi chi thể dính dự và liên đới với nhau. Công Đồng Vatican II xác định: “Trong Hội Thánh, mọi người bình đẳng với nhau về phẩm giá nhưng mỗi người có bổn phận khác nhau tùy theo bậc sống của mình” (LG, #32). Phẩm trật sinh ra trong Hội Thánh là để phục vụ và giữ gìn, chứ không phải để quản trị hiểu theo nghĩa trần thế. Giờ đây, Hội Thánh với sự đa dạng nhưng duy nhất của mình cùng nắm tay nhau bước đi trên cùng một con đường – con đường mang tên Giêsu. Điều đó cũng có nghĩa là giờ đây không còn chuyện “của tôi”, chuyện “của bạn”, chuyện “của anh ta”, chuyện “của họ”, chuyện “của Giáo Hoàng, của các giám mục, của các linh mục” nhưng là chuyện “của chúng ta”. Hội Thánh là của mỗi chúng ta, những người đã được chịu Phép Rửa trong Đức Kitô. Hội Thánh không thuộc về con người cách thuần túy, nhưng thuộc về chính Đức Kitô, Đấng là Đầu và là Người Dẫn Đường. Vì thế, chúng ta không được “thay thế”, nghĩa là làm mọi sự hoàn toàn theo ý riêng của mình, vai trò dẫn dắt Hội Thánh, nhưng hãy để Thần Khí của hướng dẫn và hành động trong chúng ta. Điều cần thiết là chúng ta cần có sự nhạy bén và khôn ngoan để lắng nghe sự mách bảo của Ngài. Vì thế, tinh thần mới mẻ đó của Thượng Hội đồng không thể được thổi vào những tâm hồn vẫn còn ở lại mãi trong con người cũ của mình, nhưng phải là những con người đã được hoán cải, nghĩa là đã được đổi mới tâm trí và con tim. “Rượu mới” đã sẵn sàng thì đòi hỏi “bình” cũng phải mới. Khi được đổi mới, người ta mới sẵn sàng đi vào sự hiệp thông, tham gia và sứ vụ một cách tích cực và hứng khởi. Vì cái tôi và con người cũ đã bị bỏ lại sau lưng, giờ đây tôi chỉ hướng về phía trước, chỉ nghĩ về cái chung – cái của chúng ta, với một tinh thần lạc quan và xây dựng, tràn đầy niềm vui và hy vọng. Hoán cải để có được cảm thức thuộc về. Tôi không chỉ thuộc về gia đình tôi, giáo xứ tôi, hội dòng tôi mà giờ đây tôi và bạn thuộc về Hội Thánh của chúng ta, cũng là Hội Thánh của Đức Kitô. Trong đó, mỗi người là một thành phần không thể thay thế.
Những ai cần hoán cải?
ĐTC Phanxicô nhận định: “Bước đi cùng nhau, cả Giáo dân, Mục tử, Giám mục Rôma, là một ý niệm dễ diễn tả bằng lời, nhưng không dễ để đưa ra thực hành”[3]. Do đó, để có thể cùng nhau hiệp hành một cách tự do thì mọi thành phần dân Chúa, từ Giáo Hoàng đến giáo dân, ở cấp độ cá nhân hay tập thể, đều được mời gọi hoán cải. Mỗi cá nhân được mời gọi duyệt xét và làm mới lại mối tương quan của mình với Thiên Chúa, với tha nhân, với vũ trụ vạn vật và với chính mình. Mỗi gia đình, hội đoàn, giáo xứ, cộng đoàn dòng tu cũng hoán cải về chính ơn gọi, bổn và sứ vụ của mình. Và cuối cùng, mỗi vị mục tử được giao trách nhiệm chăm sóc và gìn giữ Hội Thánh cũng cần phải hoán cải vai trò mục tử của mình.
Làm sao để hoán cải?
Như đã nói ở trên, hoán cải luôn là một đòi hỏi kép: gặp gỡ Thiên Chúa và biến đổi chính mình. Bước đầu tiên của việc hoán cải là mỗi người, mỗi cộng đoàn, mỗi giáo xứ, mỗi giáo phận và toàn thể Hội Thánh phải đích thân gặp gỡ Thiên Chúa. Hãy để cho Đức Kitô đụng chạm vào những “vết thương” của chúng ta và cho phép Ngài chữa lành chúng. Mẹ Hội Thánh cung cấp nhiều cách thế khác nhau giúp con cái mình được gặp gỡ Thiên Chúa, nhưng cách hữu hiệu nhất là Lời của Ngài và các bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh Thể. Bởi vì, Lời Chúa thì có khả năng chất vấn, thức tỉnh và làm biến đổi lương tâm; Lời Chúa thì có sức mạnh giúp chúng ta vượt qua những cám dỗ của thế gian và xác thịt; Lời Chúa là kim chỉ nam cho những suy nghĩ và hành động của chúng ta. Còn bí tích Thánh Thể, không những Ngài là Thần Lương nuôi dưỡng xác hồn, nhưng Ngài còn sẵn sàng lắng nghe và chuyện trò với con người. Ngài ở bên cạnh ta, Ngài ở trong ta ngay cả trong những hoàn cảnh bi thương, đau khổ nhất. Vì vậy, chúng ta cần chạy đến với Ngài để được Ngài hướng dẫn và chở che.
Sau khi đã gặp gỡ được Chúa, chúng ta hãy can đảm làm theo sự chỉ dẫn của Ngài, như ba nhà đạo sĩ, hãy “bước sang lối khác mà đi”, đừng trở về lối mòn trước đây nữa. Nghĩa là sẵn sàng khước từ những thói quen không phù hợp với tinh thần Tin Mừng và can đảm nhận lấy những nhiệm vụ mới mà Đức Kitô mời gọi.
Thay lời kết
Chính Đức Giêsu, ngay sau khi công khai sứ vụ rao giảng, điều đầu tiên Ngài hướng đến dân chúng là lời mời gọi sám hối, thay đổi đời sống và tin vào Tin Mừng (x. Mc 1, 15). Cũng vậy, Hội Thánh đang khởi đầu tiến trình hiện thực hóa THĐGM XVI, lời mời gọi hoán cải vẫn rất quan trọng và mang tính cấp thiết đối với mọi người. Hoán cải để hiểu nhau, hoán cải để đón nhận nhau và hoán cải để bước đi cùng nhau. Khi có sự hoán cải thì Thượng Hội đồng không là nơi để bày tỏ chính kiến của cá nhân và tìm kiếm sự đồng thuận của số đông, nhưng là nơi thánh ý của Thiên Chúa được thực hiện. Hay nói theo ngôn ngữ của linh mục Luigi Maria Epicoco:“Thượng Hội đồng không dành cho những người bỏ phiếu hay biểu lộ ý kiến, nhưng là nơi dành cho những người chuyên cần cầu nguyện”[4]. Đức Hồng Y Grech, Tổng thư ký THĐGM, trong một bài phỏng vấn với báo Vatican News cũng bày tỏ: “Tôi mơ về thời điểm chúng ta sẽ không cần bỏ phiếu trong Thượng Hội đồng nữa, bởi vì chúng ta có thể hiểu nhau mà không cần tới đa số hay thiểu số”[5]. Khi chúng ta nghĩ về một Thượng Hội đồng không cần bỏ phiếu, thì cũng đồng nghĩa mỗi nghị viên đã được gặp Chúa, đã được hoán cải và được hướng dẫn bởi một Thần Khí duy nhất. Ước mong sao trong thời gian diễn ra Thượng Hội đồng, mọi thành phần Dân Chúa ý thức đầy trách nhiệm về căn tính và ơn gọi của mình, can đảm làm một cuộc hoán cải tận căn để cùng nắm tay nhau, cùng bước bên nhau trên Con Đường Giêsu tiến về quê hương vĩnh cửu.
[1] x. Ủy ban Thần học quốc tế, Tính hiệp hành trong đời sống và sứ vụ của Hội Thánh, các số 3-5.
[2] ĐTC Phanxicô, Diễn từ khai mạc Thượng Hội đồng về giới trẻ năm 2018, https://www.vatican.va/content/francesco/it/speeches/2018/october/documents/papa-francesco_20181003_apertura-sinodo.html
[3] ĐTC Phanxicô, Diễn từ kỷ niệm 50 năm thành lập Thượng Hội đồng giám mục, https://www.vatican.va/content/francesco/it/speeches/2015/october/documents/papa-francesco_20151017_50-anniversario-sinodo.html
[4] Luigi Maria Epicoco, Bài viết trên báo Quan Sát Viên Roma, https://www.osservatoreromano.va/it/news/2021-10/quo-230/il-sinodo-e-dei-poeti-e-di-chi-prega.html
[5] Đức Hồng y Grech, Trả lời phỏng vấn với báo Vatican News, https://www.vaticannews.va/it/vaticano/news/2021-09/sinodo-vescovi-grech-intervista-documento-preparatorio.html
2022
Sứ điệp cho Ngày Thế giới Bệnh nhân lần thứ 30 (11.02.2022)
“Hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Ðấng nhân từ ( Lc 6, 36); Đứng bên người đau khổ trên nẻo đường Đức ái” là chủ đề của Sứ điệp Đức Thánh Cha Phanxicô dành cho Ngày Thế giới Bệnh nhân lần thứ 30, sẽ được cử hành tại Roma vào ngày lễ Đức Mẹ Lộ Đức 11.02.2022. Sau đây là toàn văn nội dung Sứ điệp của Đức Thánh Cha.
“Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em Ðấng nhân từ” (Lc 6, 36).
Đứng bên người đau khổ trên nẻo đường đức ái
Anh chị em thân mến,
Cách đây 30 năm, Thánh Gioan Phaolô II đã thiết lập Ngày Thế giới Bệnh Nhân để khuyến khích dân Chúa, các tổ chức y tế Công giáo và xã hội dân sự lưu tâm đến bệnh nhân và những người chăm sóc họ.[1]
Chúng ta tạ ơn Chúa vì những tiến bộ đạt được trong những năm gần đây trong các Giáo hội địa phương trên toàn thế giới. Đã có nhiều bước tiến, nhưng vẫn còn một chặng đường dài phía trước để đảm bảo rằng tất cả mọi bệnh nhân, ngay cả những người sống ở những nơi, những hoàn cảnh đói nghèo cùng cực và bị loại ra bên lề, đều nhận được sự chăm sóc sức khỏe mà họ cần, cũng như sự chăm sóc mục vụ, để giúp họ trải nghiệm bệnh tật trong sự kết hợp với Chúa Kitô chịu đóng đinh và phục sinh. Ước mong Ngày Thế giới bệnh nhân lần thứ 30 năm nay – dù vì đại dịch, nên không thể diễn ra tại thành phố Arequipa ở Peru như dự kiến nhưng tại Đền thờ thánh Phêrô ở Vatican – giúp chúng ta gia tăng sự gần gũi và phục vụ bệnh nhân và gia đình của họ.
- Thương xótnhư Chúa Cha
Chủ đề được chọn cho Ngày Thế giới lần thứ 30 này, “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Ðấng nhân từ” (Lc 6, 36), mời chúng ta, trước hết hãy hướng nhìn lên Chúa, Đấng “giàu lòng thương xót” (Ep 2, 4); Đấng luôn đoái nhìn đoàn con bằng tình yêu thương của một người cha, ngay cả khi chúng quay lưng với Ngài. Thương xót là danh xưng hoàn hảo của Thiên Chúa; thương xót, không hiểu như một tình cảm ủy mị nhất thời mà là một động lực luôn hiện hữu và tích cực, diễn tả chính bản tính của Thiên Chúa. Lòng thương xót kết hợp cả sức mạnh và sự dịu dàng. Đây là lý do tại sao chúng ta có thể nói, với sự ngạc nhiên và biết ơn rằng, lòng thương xót của Thiên Chúa bao gồm cả tình phụ tử lẫn tình mẫu tử. (x Is 49, 15). Thiên Chúa chăm sóc chúng ta bằng sức mạnh của một người cha và bằng sự dịu dàng của một người mẹ; Ngài luôn mong muốn ban cho chúng ta sự sống mới trong Thánh Thần.
- Chúa Giêsu, lòng thương xót của Chúa Cha
Chứng nhân tối cao cho tình yêu thương xót của Chúa Cha dành cho bệnh nhân là Con Một của Ngài. Biết bao lần các sách Phúc âm kể lại những lần gặp gỡ của Chúa Giêsu với những người mắc nhiều chứng bệnh khác nhau! Người “đi khắp miền Galilê, giảng dạy trong các hội đường của họ, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền của dân.” (Mt 4, 23). Chúng ta cũng nên tự hỏi tại sao Chúa Giêsu lại tỏ ra quan tâm đến những người đau yếu như vậy, đến nỗi Người coi đó là điều tối quan trọng trong sứ mạng của các tông đồ, những người được Thầy sai đi loan báo Tin Mừng và chữa lành những người đau yếu (x. Lc 9, 2).
Một nhà tư tưởng của thế kỷ XX gợi ý cho chúng ta một lý do: “Đau đớn là sự cô lập tuyệt đối và chính từ sự cô lập tuyệt đối này làm nảy sinh nhu cầu thu hút người kia, kêu gọi người kia”.[2] Khi một người trải qua sự yếu đuối và đau đớn trong thân xác của mình vì bệnh tật, trái tim họ trở nên nặng trĩu, nỗi sợ hãi lan rộng, những bất ổn nhân lên, và những câu hỏi về ý nghĩa của những gì đang xảy ra trong cuộc sống của họ trở nên cấp thiết hơn. Về vấn đề này, làm sao chúng ta có thể quên được rất nhiều bệnh nhân, những người trong thời gian đại dịch này, đã trải qua chặng cuối cùng của cuộc đời trần thế trong cô đơn, tại một phòng chăm sóc đặc biệt, tuy được các nhân viên y tế tận tình chăm sóc, nhưng lại phải xa cách những người thân yêu, và những người quan trọng nhất trong cuộc đời của họ? Điều này giúp chúng ta thấy quan trọng biết chừng nào sự hiện diện của những chứng nhân về lòng nhân từ của Thiên Chúa bên cạnh chúng ta, họ là những người, theo gương Chúa Giêsu là chính lòng thương xót của Chúa Cha, đổ dầu an ủi và rượu hy vọng lên vết thương của bệnh nhân.[3]
- Chạm vào thân xác đau khổ của Đức Kitô
Lời mời gọi của Chúa Giêsu hãy có lòng nhân từ như Chúa Cha có ý nghĩa đặc biệt đối với các nhân viên y tế. Tôi nghĩ đến các bác sĩ, y tá, kỹ thuật viên phòng thí nghiệm, trợ lý và nhân viên chăm sóc bệnh nhân, cũng như rất nhiều tình nguyện viên đã dành thời gian quý báu của họ để giúp đỡ những người đau khổ. Các nhân viên y tế thân mến, việc phục vụ của các bạn bên cạnh bệnh nhân, được thực hiện bằng tình yêu và năng lực, vượt qua ranh giới của nghề nghiệp và trở thành một sứ mạng. Bàn tay của các bạn, chạm vào da thịt đau khổ của Chúa Kitô, có thể là dấu chỉ của bàn tay nhân từ của Chúa Cha. Hãy nhớ đến phẩm giá cao cả của nghề nghiệp của các bạn, cũng như trách nhiệm mà nghề này đòi hỏi.
Chúng ta hãy tạ ơn Thiên Chúa về những tiến bộ mà y khoa đã đạt được, nhất là trong thời gian gần đây; những công nghệ mới đã giúp thiết lập các liệu pháp mang lại lợi ích to lớn cho bệnh nhân; nghiên cứu tiếp tục đóng góp có giá trị trong việc đánh bại các bệnh lý cũ và mới; y học phục hồi chức năng đã mở rộng rất nhiều về chuyên môn và kỹ năng. Tuy nhiên, tất cả những điều này không bao giờ được phép khiến chúng ta quên đi tính độc nhất, phẩm giá và sự yếu đuối của từng bệnh nhân.[4] Người bệnh luôn quan trọng hơn căn bệnh của họ, và đó là lý do tại sao bất kỳ phương pháp điều trị nào cũng không thể bỏ qua việc lắng nghe bệnh nhân, câu chuyện của họ, những lo lắng và sợ hãi của họ. Ngay cả khi không thể chữa lành, vẫn luôn có thể chăm sóc. Luôn có thể an ủi, luôn có thể làm cho người ta cảm nhận được sự gần gũi, đó là quan tâm đến chính con người hơn là đến bệnh lý của họ. Vì lý do này, tôi hy vọng rằng các khóa đào tạo nhân viên y tế có thể giúp họ phát triển khả năng lắng nghe và tương tác với người khác.
- Các trung tâm chăm sóc, “ngôi nhà của lòng thương xót“
Ngày Thế giới Bệnh nhân cũng là một dịp thuận lợi để tập trung sự chú ý của chúng ta vào các trung tâm chăm sóc. Qua nhiều thế kỷ, việc bày tỏ lòng nhân ái đối với bệnh nhân đã khiến cộng đoàn Kitô mở ra vô số “những nhà trọ của người Samaritanô nhân hậu”, nơi mà những bệnh nhân thuộc mọi loại bệnh tật có thể được chào đón và chăm sóc, cách riêng những người không được đáp ứng những nhu cầu sức khỏe vì nghèo túng hoặc bị xã hội loại trừ hoặc do những khó khăn liên quan đến việc điều trị một số bệnh lý nhất định. Trong những tình huống này, trẻ em, người già và những người yếu đuối nhất thường phải hứng chịu hậu quả. Nhân từ như Chúa Cha, vô số các nhà truyền giáo đã kết hợp việc rao giảng Tin Mừng với việc xây dựng bệnh viện, trạm xá và nhà dưỡng lão. Đây là những phương thế quý giá nhờ đó đức ái Kitô giáo được thành hình và tình thương của Đức Kitô, mà các môn đồ của Người làm chứng, trở nên đáng tin hơn. Tôi đặc biệt nghĩ đến những người ở những khu vực nghèo nhất trên hành tinh của chúng ta, nơi mà đôi khi phải đi một quãng đường dài để tìm các trung tâm điều trị, mặc dù với nguồn lực hạn chế, chỉ cung cấp được những gì sẵn có. Chúng ta vẫn còn một chặng đường dài để đi; tại một số quốc gia, việc tiếp cận với dịch vụ chăm sóc thích hợp vẫn còn là điều xa xỉ. Chúng ta thấy điều này, chẳng hạn, trong sự khan hiếm vắc-xin phòng chống Covid-19 tại các nước nghèo; nhưng hơn thế nữa, trong việc thiếu phương tiện điều trị cho những căn bệnh cần những loại thuốc đơn giản hơn nhiều.
Trong bối cảnh này, tôi muốn tái khẳng định tầm quan trọng của các cơ sở chăm sóc sức khỏe Công giáo: chúng là một kho tàng quý giá cần được bảo vệ và gìn giữ; sự hiện diện của những cơ sở này đã ghi dấu ấn trong lịch sử của Giáo hội, cho thấy sự gần gũi của Giáo hội với người bệnh tật và người nghèo, và với những tình huống bị người khác coi thường.[5] Có biết bao các vị sáng lập các gia đình Dòng tu đã lắng nghe tiếng kêu than của những anh chị em của họ, những người không được tiếp cận chăm sóc hoặc được chăm sóc kém, và đã hết mình hiến thân phục vụ họ!
Ngày nay cũng thế, ngay tại những nước phát triển nhất, sự hiện diện của các trung tâm y tế này là một phúc lành, vì ngoài việc chăm sóc thể lý với các kiến thức chuyên môn cần thiết, họ luôn có thể cống hiến món quà của đức ái, tập trung vào bản thân người bệnh và gia đình của họ. Trong thời đại mà văn hóa vứt bỏ lan tràn và sự sống không phải lúc nào cũng được nhìn nhận là đáng được chào đón và sống, thì những cơ sở này, như “ngôi nhà của lòng thương xót”, có thể là mẫu mực trong việc bảo vệ và chăm sóc dành cho mọi sự sống, dù là mong manh nhất, ngay từ lúc khởi đầu cho đến khi kết thúc cách tự nhiên.
- Mục vụ thương xót: hiện diện và gần gũi
Trong suốt 30 năm qua, mục vụ chăm sóc sức khỏe cũng được coi là sự phục vụ không thể thiếu và ngày càng được nhìn nhận. Nếu sự phân biệt đối xử tồi tệ nhất mà người nghèo phải gánh chịu – kể cả người đau bệnh, tức là nghèo về sức khỏe – là sự thiếu quan tâm về mặt thiêng liêng, thì chúng ta không thể không cống hiến cho họ sự gần gũi của Thiên Chúa, phúc lành và Lời của Người, cũng như việc cử hành các Bí tích và cơ hội cho một hành trình tăng trưởng và trưởng thành trong đức tin.[6] Về vấn đề này, tôi muốn nhắc nhở mọi người rằng việc gần gũi với bệnh nhân và chăm sóc mục vụ dành cho họ không chỉ là nhiệm vụ của một số thừa tác viên được chỉ định cụ thể; việc thăm viếng bệnh nhân là một lời mời mà Chúa Kitô ngỏ với tất cả các môn đệ. Có biết bao bệnh nhân và biết bao người già đang sống tại nhà và chờ người đến thăm! Thừa tác vụ an ủi là bổn phận của mỗi người đã được rửa tội, hãy tâm niệm lời của Chúa Giêsu: “Ta đau yếu, các ngươi đã thăm Ta” (Mt 25, 36).
Anh chị em thân mến, tôi xin phó thác tất cả các bệnh nhân và gia đình của họ cho lời chuyển cầu của Mẹ Maria, Đấng cứu kẻ liệt kẻ khốn. Ước gì nhờ hiệp nhất với Đức Kitô, Đấng gánh chịu nỗi đau của thế giới, họ có thể tìm được ý nghĩa, sự an ủi và niềm tín thác. Tôi cầu nguyện cho các nhân viên y tế ở khắp nơi, rằng, với đầy lòng nhân ái, họ có thể trao tặng cho các bệnh nhân sự chăm sóc thích hợp, cùng với sự gần gũi huynh đệ của họ.
Tôi ưu ái ban phép lành Toà thánh cho tất cả mọi người.
Roma, Đền thờ thánh Gioan Lateran, ngày lễ Đức Mẹ Loreto 10/12/2021
PHANXICÔ
Nt. Anna Ngọc Diệp, OP
Dòng Đa Minh Thánh Tâm
Chuyển ngữ từ: press.vatican.va (04.01.2022)
[1] X. Thánh Gioan Phaolô II, Thư gửi Đức hồng y Fiorenzo Angelini, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về mục vụ chăm sóc sức khỏe cho người lao động, để thành lập Ngày thế giới bệnh nhân (ngày 13.5.1992)
[2] E. Lévinas, «Une éthique de la souffrance», trong Souffrances. Corps et âme, épreuves partagées, biên tập bởi J.-M. von Kaenel, Autrement, Paris 1994, trang 133-135.
[3] X. Sách lễ Roma, Kinh tiền tụng chung VIII, Đức Giêsu Người Samaritanô nhân hậu.
[4] X. Diễn từ của Đức Thánh Cha Phanxicô cho Liên đoàn quốc gia của các hội bác sĩ và nha sĩ Ý, ngày 20.9.2019
[5] X. Kinh Truyền Tin từ bệnh viện Gemelli, Rome, ngày 11.7.2021.
[6] X. Tông huấn Evangelii Gaudium (ngày 24.11.2013), 200.
2022
ĐTC gặp tổ chức thăng tiến nhân phẩm qua nghệ thuật
Sáng 04/02/2022, Đức Thánh Cha đã gặp tổ chức “Nhà của Tinh thần và Nghệ thuật”, một tổ chức phi lợi nhuận Công giáo nhằm thúc đẩy phẩm giá con người thông qua các dự án nghệ thuật, bao gồm cả việc cung cấp cho các tù nhân công việc chế tác thủ công đàn violin hoặc bánh lễ.
Cuộc gặp gỡ bao gồm các phần biểu diễn âm nhạc và nghệ thuật.
Tổ chức “Nhà của Tinh thần và Nghệ thuật”
Trên trang web, tổ chức hỗ trợ các dự án trên toàn thế giới nói rằng: “mục đích của nó là khôi phục phẩm giá của những người có liên, bằng cách để họ thể hiện tài năng của mình thông qua các con đường văn hóa và nghệ thuật”.
Tổ chức phi lợi nhuận tập trung vào các tù nhân, người di cư, thanh niên có hoàn cảnh khó khăn và những người khác bị gạt ra ngoài lề xã hội.
Tổ chức xác định: “Mọi dự án của Quỹ đều bắt nguồn từ mong muốn và ý định thực hiện, trong Giáo hội Công giáo và phục vụ Giáo hội, cùng một sự cộng tác và hòa hợp mà Công đồng Vatican II mong đợi giữa các linh mục và giáo dân, để cùng nhau làm chứng rằng: Chúa Kitô là Ánh sáng của thế giới.”
Một trong những dự án của tổ chức có tên là “ý nghĩa của Bánh”. Nó hỗ trợ việc sản xuất các bánh lễ dùng cho Thánh lễ. Các xưởng, có thể được tìm thấy ở khắp nơi trên thế giới, cung cấp việc làm cho các tù nhân, phụ nữ thoát khỏi sự bóc lột, người khuyết tật, người nghèo và thanh niên nghiện ngập phục hồi.
Tổ chức còn có một xưởng chế tạo và sửa chữa nhạc cụ ở nhà tù Opera ở Milano, trung tâm giam giữ lớn nhất của Ý, nơi hầu hết các tù nhân đang thụ án chung thân. Mục đích là đào tạo cho tù nhân các kỹ năng làm việc có thể giúp họ tái hòa nhập xã hội sau khi ra tù.
Hạt giống của hy vọng
Đức Thánh Cha Phanxicô ca ngợi tổ chức là hạt giống của hy vọng và hỗ trợ các dự án chống lại văn hóa vứt bỏ đang tràn lan. Ngài nói: “Thay vào đó, các bạn đang cố gắng xây dựng, với ‘những viên đá bị bỏ đi’, một ngôi nhà nơi mọi người có thể hít thở bầu không khí của tình bạn xã hội và tình huynh đệ.”
Ngài nhấn mạnh rằng: mặc dù mỗi người đều có tội lỗi, thất bại và giới hạn của mình, nhưng “lòng thương xót của Thiên Chúa lớn hơn, và nếu chúng ta chào đón nhau như anh chị em, thì Người sẽ tha thứ cho chúng ta và giúp chúng ta tiến bước.”
Buổi tiếp kiến kết thúc với màn trình diễn “Tiếng vĩ cầm của biển”, một tác phẩm do Nicola Piovani sáng tác và được biểu diễn bởi các nhạc công của dàn nhạc đa sắc tộc, trong đó có một cây vĩ cầm làm từ gỗ của những chiếc thuyền của người di cư. (CNA 04/02/2022) Hồng Thủy
2022
ĐTC Phanxicô: Giữa chúng ta và các thánh trên trời có sự liên kết không thể bị phá huỷ
ĐTC Phanxicô: Giữa chúng ta và các thánh trên trời có sự liên kết không thể bị phá huỷ
Trong bài giáo lý được trình bày trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ Tư ngày 2/2/2022, Đức Thánh Cha đã suy tư về sự hiệp thông của các thánh, một chiều kích của đức tin mà không phải luôn luôn được các tín hữu hiểu rõ. Ngài nói rằng mỗi thành viên của Giáo hội được kết nối chặt chẽ với nhau trong Chúa Kitô. Sự hiệp thông giữa các thánh cũng có thể thiết lập mối quan hệ của chúng ta với các vị thánh và với những người thân yêu đã khuất của chúng ta theo cách tốt nhất có thể.
Bài giáo lý của Đức Thánh Cha
Anh chị em thân mến,
Trong những tuần gần đây chúng ta đã có thể hiểu sâu sắc hơn về thánh Giuse nhờ để cho mình được hướng dẫn bởi một số thông tin ít ỏi nhưng quan trọng được các Tin Mừng thuật lại, và cũng nhờ các đặc điểm trong nhân cách của ngài mà Giáo hội qua nhiều thế kỷ đã có thể nêu bật bằng kinh nguyện và lòng sùng kính. Bắt đầu từ chính “tình cảm chung” này, điều đã đồng hành với hình ảnh thánh Giuse trong lịch sử của Giáo hội, hôm nay tôi muốn tập trung vào một điều quan trọng về đức tin, điều có thể làm phong phú thêm đời sống Kitô giáo của chúng ta và cũng định hình mối quan hệ của chúng ta với các thánh và với những người thân yêu đã qua đời theo cách tốt nhất có thể: Tôi đang nói về sự hiệp thông của các thánh.
Các thánh không phải là người làm phép lạ, nhưng là Thiên Chúa
Đôi khi, ngay cả Kitô giáo cũng có thể rơi vào những hình thức sùng kính mà dường như phản ánh một não trạng ngoại giáo hơn là Kitô giáo. Sự khác biệt cơ bản chính là lời cầu nguyện của chúng ta và lòng sùng kính của các tín hữu không dựa trên sự tin tưởng vào một con người, vào một hình ảnh hoặc một vật thể, ngay cả khi chúng ta biết rằng chúng là thánh thiêng. Ngôn sứ Giêrêmia nhắc nhở chúng ta: “Đáng nguyền rủa thay kẻ tin ở người đời, […] phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa” (17,5.7). Ngay cả khi chúng ta hoàn toàn tin cậy vào lời chuyển cầu của một vị thánh, hay thậm chí là lời cầu bầu của Đức Trinh Nữ Maria, thì sự tin cậy của chúng ta chỉ có giá trị trong mối quan hệ với Chúa Kitô. Con đường đến với vị thánh này hay với Đức Mẹ không dừng lại ở đó, nhưng trong tương quan với Chúa Kitô. Và mối dây liên kết chúng ta với Người và với nhau có một tên gọi cụ thể: “sự hiệp thông của các thánh”. Không phải các thánh là người làm phép lạ, mà chỉ có ân sủng của Thiên Chúa tác động qua họ. Các phép lạ được Thiên Chúa thực hiện, bởi ân sủng của Người ban qua một con người thánh thiện công chính. Một vị thánh là một người chuyển cầu, là người cầu nguyện cho chúng ta và chúng ta cầu nguyện với ngài, ngài cầu nguyện cho chúng ta và Chúa ban cho chúng ta ân sủng.
Sự hiệp thông của các thánh
Vậy “sự hiệp thông của các thánh” là gì? Đức Thánh Cha giải thích: Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo khẳng định: “Sự hiệp thông của các thánh là Giáo hội.” (số 946). Điều đó có nghĩa là gì? Có phải là Giáo hội được dành cho người hoàn hảo? Không. Nhưng có nghĩa nó là cộng đoàn của những tội nhân được cứu độ. Sự thánh thiện của chúng ta là hoa trái của tình yêu thương của Thiên Chúa được thể hiện trong Đức Kitô, Đấng thánh hoá chúng ta bằng cách yêu thương chúng ta trong sự khốn cùng của chúng ta và cứu chúng ta khỏi điều đó.
Thánh Phaolô nói rằng luôn luôn tạ ơn Chúa đã kiến tạo chúng ta thành một thân thể duy nhất, trong đó Chúa Giêsu là đầu và chúng ta là chi thể (x. 1Cr 12,12). Hình ảnh thân thể này ngay lập tức giúp chúng ta hiểu ý nghĩa của việc ràng buộc với nhau trong sự hiệp thông: Thánh Phaolô viết, “Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung. Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận” (1Cr 12,26-27).
Anh chị em thân mến, niềm vui và nỗi buồn trong cuộc sống của tôi ảnh hưởng đến tất cả mọi người, cũng như niềm vui và nỗi buồn xảy ra trong cuộc sống của anh chị em bên cạnh cũng ảnh hưởng đến tôi. Tôi không thể dửng dưng với người khác bởi vì tất cả chúng ta ở trong một thân thể, trong sự hiệp thông. Theo nghĩa này, ngay cả tội lỗi của một cá nhân cũng luôn ảnh hưởng đến mọi người, và tình yêu của mỗi cá nhân ảnh hưởng đến tất cả mọi người. Nhờ sự hiệp thông của các thánh, mọi thành viên của Giáo hội đều gắn bó với tôi một cách sâu xa, và mối dây liên kết này bền chặt đến nỗi nó không thể bị phá huỷ ngay cả khi chết.
Thật vậy, sự hiệp thông của các thánh không chỉ bao gồm những anh chị em đang ở bên cạnh tôi vào thời điểm này trong lịch sử, mà còn liên quan đến những người đã kết thúc hành trình trần thế của họ và vượt qua ngưỡng cửa của cái chết. Anh chị em thân mến, chúng ta hãy nghĩ rằng trong Đức Kitô, không ai có thể thực sự tách chúng ta ra khỏi những người chúng ta yêu thương; chỉ thay đổi cách thức ở cùng với họ, nhưng không có gì và không ai có thể phá vỡ mối ràng buộc này. Sự hiệp thông của các thánh gắn kết cộng đồng các tín hữu trên mặt đất và trên trời lại với nhau.
Tình bạn với các thánh trên trời
Đức Thánh Cha giải thích thêm: Theo nghĩa này, tình bạn mà tôi có thể xây dựng với anh chị em bên cạnh tôi, tôi cũng có thể thiết lập với anh chị em trên trời. Các thánh là những người bạn mà chúng ta thường thiết lập quan hệ thân thiện. Điều mà chúng ta gọi là sự sùng kính, nó thực sự là một cách thể hiện tình yêu thương từ chính mối dây gắn kết chúng ta. Và chúng ta đều biết rằng chúng ta luôn có thể hướng về một người bạn, đặc biệt là khi chúng ta gặp khó khăn và cần sự giúp đỡ. Tất cả chúng ta đều cần bạn bè; tất cả chúng ta đều cần những mối quan hệ có ý nghĩa để giúp chúng ta vượt qua cuộc sống. Chúa Giêsu cũng có những người bạn của mình, và ngài hướng về họ vào những thời điểm quyết định nhất của kinh nghiệm làm người của mình.
Trong lịch sử của Giáo hội, có một số điều không thay đổi, luôn đồng hành với cộng đoàn tín hữu: trước hết là tình cảm cao cả và mối dây liên kết rất bền chặt mà Giáo hội luôn có đối với Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa và Mẹ chúng ta và cả sự tôn kính và tình cảm đặc biệt mà Giáo hội dành cho thánh Giuse. Sau cùng, Thiên Chúa giao phó cho thánh nhân những gì quý giá nhất của Người: Chúa Giêsu Con của Người và Đức Trinh Nữ Maria. Luôn luôn nhờ sự hiệp thông của các thánh mà chúng ta cảm thấy rằng các thánh nam nữ là những người bảo trợ chúng ta – vì tên chúng ta có, vì Giáo hội mà chúng ta thuộc về, vì nơi chúng ta sống, v.v. Và sự tin tưởng này luôn phải thúc đẩy chúng ta hướng về các ngài vào những thời điểm quyết định trong cuộc đời. Lòng sùng kính các thánh không phải là một điều ma thuật, không phải là mê tín dị đoan; nó chỉ đơn giản là nói chuyện với một người anh, một người chị đang ở trước nhan Chúa, người đã sống một cuộc đời công chính, một cuộc sống thánh thiện, một cuộc sống gươngmẫu, và giờ đây đang ở trước mặt Chúa. Tôi nói với người anh người chị này và xin các ngài chuyển cầu cho những điều tôi cần.
Cầu nguyện với thánh Giuse
Đức Thánh Cha kết thúc bài giáo lý này bằng một lời cầu nguyện với thánh Giuse mà ngài đặc biệt gắn bó và đã đọc hàng ngày, trong nhiều năm. Ngài cho biết: Đây là kinh tôi tìm thấy trong sách kinh của các Nữ tu Chúa Giêsu và Mẹ Maria, vào những năm 1700. Nó thật hay, nhưng nó là một thách đố đối với người bạn này, người cha này, người bảo trợ chúng ta, thánh Giuse, hơn là một lời cầu nguyện.
Lạy cha thánh Giuse vinh hiển, quyền năng của ngài biến điều không thể thành có thể. Xin hãy đến giúp con trong những lúc đau khổ và khó khăn này. Xin hãy đặt dưới sự bảo vệ của ngài những tình huống nghiêm trọng và rắc rối mà con phó thác cho ngài, để chúng được giải quyết tốt đẹp.
Lạy Cha yêu dấu của con, con đặt tất cả sự tin tưởng của con ở nơi cha. Xin đừng để người ta nói rằng con đã cầu xin cha cách luống công, và vì cha có thể làm mọi việc với Chúa Giêsu và Mẹ Maria, xin tỏ cho con thấy rằng lòng tốt của cha cũng vĩ đại như quyền năng của cha. Amen.
Hồng Thủy