2023
Bộ Giáo lý Đức tin: Người Công giáo vẫn bị cấm tham gia hội Tam điểm
“Người Công giáo vẫn bị cấm tham gia hội Tam điểm” là câu trả lời của Đức Hồng Y Victor Fernandéz, Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin, đã được Đức Thánh Cha phê chuẩn, đối với câu hỏi liên quan đến vấn đề này của Đức cha Julito Cortes, Giám mục của Dumanguete ở Philippines.
Tại Giáo phận Dumanguete, trong thời gian gần đây có sự gia tăng các tín hữu tham gia vào hội Tam điểm, trước tình hình này, Đức cha Cortes đã xin ý kiến Toà Thánh để có thể giải quyết thích đáng từ quan điểm mục vụ và giáo lý.
Trong văn bản trả lời ký ngày 13/11/2023, Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin cũng hướng đến Hội đồng Giám mục Philippines để “có sự phối hợp chiến lược giữa các Giám mục, bao gồm hai cách tiếp cận”.
Đầu tiên liên quan đến bình diện giáo lý. Đức Hồng Y Victor Fernandéz nhắc lại rằng: “Người Công giáo bị cấm tham gia hội Tam điểm, bởi vì không có sự hoà giải giữa giáo lý Công giáo và giáo lý của hội Tam điểm”.
Điều thứ hai liên quan đến bình diện mục vụ. Bộ Giáo lý Đức tin đề xuất với các Giám mục Philippines “tiến hành một khoá giáo lý cho tất cả các giáo xứ, liên quan đến lý do tại sao không thể hoà giải giữa đức tin Công giáo và hội Tam điểm”.
Cuối cùng, Đức Hồng Y Tổng trưởng mời gọi các Giám mục nhận ra rằng đây cũng là dịp để đưa ra tuyên bố công khai về chủ đề này.
Trong Tuyên bố được đưa ra vào tháng 11/1983, trước ngày Bộ Giáo luật mới thay thế Bộ Giáo luật 1917 có hiệu lực, Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI khi đó là Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin đã nhắc lại rằng những người Công giáo ghi danh vào hội Tam điểm là “đang ở trong tình trạng tội trọng”.
Tam điểm là một hội dựa trên sáng kiến, huyền bí và tình huynh đệ, phổ biến rộng rãi ở nhiều quốc gia trên thế giới, có nguồn gốc từ Anh vào năm 1717. Hội Tam điểm truyền bá một lối giáo dục có tính bí truyền, tiên phong sử dụng những biểu tượng và nghi lễ. Hội khuyến khích thành viên hành động vì sự tiến bộ nhân loại, nhưng để cho mỗi người lựa chọn cách để thực hành điều đó. Hội phát triển một số lượng lớn các nghi lễ và biểu tượng nhưng không phải luôn luôn được thông hiểu giữa các thành viên.
Nguồn: vaticannews.va/vi
2023
Sứ điệp Ngày Giới trẻ Thế giới năm 2023 – “Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng” (Rm 12, 12)
Hôm 14.11, phòng báo chí Toà thánh đã công bố Sứ điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô cho Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ 38 với chủ đề: “Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng” (Rm 12, 12). Năm nay, ngày Giới trẻ Thế giới sẽ được cử hành theo cấp giáo phận vào Chúa nhật ngày 26.11.2023, lễ Chúa Kitô Vua Vũ trụ. Sau đây là nội dung Sứ điệp của Đức Thánh Cha:
SỨ ĐIỆP ĐỨC THÁNH CHA
CHO NGÀY GIỚI TRẺ THẾ GIỚI
Lần thứ 38, ngày 26.11.2023
“Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng” (Rm 12,12)
Các bạn trẻ thân mến,
Tháng 8 vừa qua, cha đã gặp gỡ hàng trăm ngàn người trẻ cùng độ tuổi với các con từ khắp nơi trên thế giới quy tụ về Lisbon để tham dự Ngày Giới trẻ Thế giới. Trong thời kỳ đại dịch, giữa rất nhiều điều bất ổn, chúng ta hy vọng rằng khoảnh khắc gặp gỡ tuyệt vời này với Đức Kitô và với những người trẻ khác có thể diễn ra. Niềm hy vọng này đã thành hiện thực, và đối với nhiều người hiện diện – trong đó có cả cha – sự kiện đó đã vượt quá sự mong đợi. Cuộc gặp gỡ của chúng ta ở Lisbon thật tuyệt vời, một trải nghiệm đích thực về sự đổi mới, và một sự bùng nổ của ánh sáng và niềm vui!
Vào cuối Thánh lễ bế mạc tại “Cánh đồng ân sủng”, cha đã nói về chặng tiếp theo của cuộc hành hương xuyên lục địa của chúng ta: Seoul, Hàn Quốc, vào năm 2027. Nhưng, trước đó, cha mời các con đến Rôma vào năm 2025 để mừng Năm Thánh Giới Trẻ, nơi các con cũng sẽ là “Những người hành hương của Hy vọng”.
Là người trẻ, các con thực sự là niềm hy vọng hân hoan của một Giáo hội và của một nhân loại luôn chuyển động. Cha muốn nắm tay các con và cùng các con bước đi trên lộ trình hy vọng. Cha muốn nói với các con về vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo âu của chúng ta, cũng như của tất cả anh chị em trong gia đình nhân loại (x. Hiến chế Gaudium et Spes, 1). Trong hai năm chuẩn bị cho Năm Thánh này, trước hết chúng ta sẽ suy niệm lời của Thánh Phaolô, “Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng” (Rm 12, 12), và sau đó chúng ta sẽ đào sâu lời của ngôn sứ Isaia, “những người cậy trông Ðức Chúa thì chạy hoài mà không mỏi mệt” (Is 40, 31).
Niềm vui này đến từ đâu?
“Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng” là lời khuyên nhủ của Thánh Phaolô dành cho cộng đoàn tín hữu Rôma, một cộng đoàn đang trong thời kỳ bị bách hại khắc nghiệt. Thật vậy, “Vui mừng vì có niềm hy vọng” được Thánh Tông đồ rao giảng xuất phát từ mầu nhiệm vượt qua của Đức Kitô, và từ quyền năng phục sinh của Người. Niềm vui này không phải là thành quả của những nỗ lực, kế hoạch, hoặc kỹ năng của con người, mà là năng lượng phát sinh từ cuộc gặp gỡ với Đức Kitô. Niềm vui của Kitô hữu đến từ chính Thiên Chúa, từ việc biết rằng chúng ta được Ngài yêu thương.
Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, khi suy tư về trải nghiệm của ngài tại Ngày Giới trẻ Thế giới năm 2011 ở Madrid, đã nêu lên câu hỏi: “Niềm vui đến từ đâu? Niềm vui được giải thích như thế nào? Chắc chắn có nhiều yếu tố phối hợp với nhau. Nhưng điều cốt yếu là sự chắc chắn đến từ niềm tin: Tôi được mong muốn. Tôi có một vai trò trong lịch sử. Tôi được đón nhận, tôi được yêu thương”. Đức Bênêđictô giải thích rõ: “Cuối cùng, chúng ta cần có cảm thức mình được đón nhận vô điều kiện. Chỉ khi Thiên Chúa đón nhận tôi và tôi xác tín về điều đó thì tôi mới biết chắc chắn rằng: thật tốt đẹp khi tôi hiện hữu… Thật tốt đẹp khi tồn tại như một con người, ngay cả trong những thời điểm khó khăn. Đức tin mang lại cho con người hạnh phúc từ sâu thẳm tâm hồn” (Diễn văn trước Giáo triều Rôma, ngày 22.12.2011).
Niềm hy vọng của tôi ở đâu?
Tuổi trẻ là giai đoạn tràn đầy hy vọng và ước mơ, được thúc đẩy bởi những thực tế tươi đẹp làm phong phú cuộc sống của chúng ta: sự huy hoàng của công trình sáng tạo của Thiên Chúa, mối tương quan của chúng ta với những người thân yêu và bạn bè, những trải nghiệm của chúng ta về nghệ thuật và văn hóa, khoa học và công nghệ, những nỗ lực của chúng ta để hoạt động vì hòa bình, công lý và tình huynh đệ, và rất nhiều điều khác nữa. Tuy nhiên, chúng ta đang sống trong một thời đại mà đối với nhiều người, kể cả những người trẻ, niềm hy vọng dường như không còn nữa. Thật không may, nhiều người cùng độ tuổi với các con đang chịu cảnh chiến tranh, xung đột bạo lực, bắt hại và nhiều hình thức khó khăn khác, đang bị bao vây bởi sự tuyệt vọng, sợ hãi và trầm cảm. Họ có cảm giác như đang ở trong một nhà tù tối tăm, nơi ánh sáng mặt trời không thể lọt vào. Tỷ lệ tự tử cao trong giới trẻ ở một số quốc gia là bằng chứng rõ ràng cho điều này. Trong những bối cảnh như vậy, làm sao chúng ta có thể cảm nghiệm được niềm vui và hy vọng mà Thánh Phaolô nói đến? Trái lại, có nguy cơ là chúng ta sẽ rơi vào trạng thái tuyệt vọng, khi nghĩ rằng làm điều tốt là vô ích, bởi vì nó sẽ chẳng được ai đánh giá cao hoặc thừa nhận. Chúng ta có thể tự nhủ giống như ông Gióp: “Vậy thì hy vọng của tôi ở chỗ nào, hạnh phúc của tôi, ai là người nhìn thấy?” (G 17,15).
Khi nghĩ đến những bi kịch của nhân loại, đặc biệt là nỗi đau khổ của những người vô tội, chúng ta cũng có thể lặp lại một số Thánh Vịnh và hỏi Chúa: “Tại sao?” Nhưng đồng thời chúng ta cũng có thể là một phần trong câu trả lời của Thiên Chúa về vấn đề. Được Thiên Chúa tạo dựng theo hình ảnh và giống Ngài, chúng ta có thể trở thành dấu chỉ tình yêu của Thiên Chúa, mang lại niềm vui và hy vọng ngay cả trong những hoàn cảnh dường như vô vọng. Cha nghĩ đến cuốn phim “Cuộc sống tươi đẹp” (Life is Beautiful), trong đó một người cha trẻ, với sự tinh tế và sáng tạo tuyệt vời, đã biến thực tế khắc nghiệt thành một loại phiêu lưu và trò chơi. Ông giúp cậu con trai nhỏ của mình nhìn mọi thứ bằng “đôi mắt hy vọng”, bảo vệ cậu khỏi nỗi kinh hoàng của trại tập trung, gìn giữ sự ngây thơ của cậu, và ngăn chặn sự độc ác của con người đánh cắp tương lai của cậu. Những câu chuyện như thế không chỉ là hư cấu! Chúng ta thấy những điều tương tự diễn ra trong cuộc đời của rất nhiều vị thánh, vốn là những chứng nhân của niềm hy vọng ngay cả giữa sự gian ác tàn khốc nhất của con người. Chúng ta hãy nghĩ đến Thánh Maximilian Mary Kolbe, Thánh Josephine Bakhita, Chân phước Józef và Wiktoria Ulma cùng 7 người con của họ.
Khả năng khơi lên niềm hy vọng trong tâm hồn con người đã được Thánh Giáo hoàng Phaolô VI mô tả một cách tuyệt vời: “Một Kitô hữu hoặc một nhóm Kitô hữu khi sống giữa cộng đoàn của mình… có thể chiếu giãi một cách đơn giản và tự phát niềm tin của họ vào các giá trị lâu bền, và niềm hy vọng của họ vào một điều gì đó không thể nhìn thấy và thậm chí không dám mơ ước” (Tông huấn Evangelii Nuntiandi, 21).
Hy vọng, một nhân đức “bé nhỏ”
Thi sĩ người Pháp Charles Péguy, ở phần đầu bài thơ về niềm hy vọng, đã nói về ba nhân đức Đối thần – Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến – như ba chị em cùng bước đi bên nhau:
“Cô bé út Đức Cậy đi bên cạnh hai người chị của mình, hầu như không được ai chú ý …
Nhưng chính cô bé Đức Cậy ấy, lại là người điều khiển mọi thứ.
Bởi vì Đức Tin chỉ nhìn thấy những gì đang hiện hữu.
Và Đức Mến chỉ yêu những gì đang hiện hữu.
Nhưng Đức Cậy yêu mến những gì sẽ xảy ra.
…
Chính cô bé Đức Cậy là người giúp hai người chị tiếp tục bước đi;
Cô bé là người dẫn dắt họ,
và khiến tất cả cùng nhau bước đi”
(Cánh cửa mầu nhiệm của nhân đức thứ hai).
Cha cũng bị thuyết phục về tính khiêm tốn, nhỏ bé nhưng thiết yếu này của Đức Cậy, nhân đức về niềm hy vọng. Hãy thử nghĩ một chút. Làm sao chúng ta có thể sống mà không có hy vọng? Ngày tháng của chúng ta sẽ như thế nào? Hy vọng là muối cho cuộc sống hằng ngày của chúng ta.
Hy vọng, ánh sáng chiếu rọi trong màn đêm
Theo truyền thống Kitô giáo trong Tam Nhật Vượt Qua, Thứ Bảy Tuần Thánh là ngày của hy vọng. Nằm giữa Thứ Sáu Tuần Thánh và Chúa Nhật Phục Sinh, Thứ Bảy Tuần Thánh giống như điểm trung gian giữa nỗi tuyệt vọng và niềm vui của các môn đệ vào buổi sáng Phục Sinh. Đó là nơi hy vọng phát sinh. Vào Thứ Bảy Tuần Thánh, Giáo Hội thinh lặng tưởng niệm việc Đức Kitô xuống ngục tổ tông. Chúng ta thấy điều này được mô tả qua nhiều biểu tượng, cho thấy Đức Kitô, rạng ngời ánh sáng, đi xuống những vực sâu tăm tối nhất và xuyên qua chúng. Thiên Chúa không chỉ đơn thuần nhìn những trải nghiệm của chúng ta về cái chết với lòng trắc ẩn, hoặc chỉ gọi chúng ta từ xa; nhưng Ngài còn bước vào những trải nghiệm địa ngục của chúng ta như ánh sáng chiếu soi trong bóng tối và chinh phục bóng tối (x. Ga 1, 5). Điều này được thể hiện một cách tuyệt vời qua một bài thơ bằng tiếng Xhosa của Nam Phi: “Ngay cả khi niềm hy vọng đã lịm tắt, thì qua bài thơ này, tôi đánh thức hy vọng. Niềm hy vọng của tôi được đánh thức vì niềm hy vọng của tôi ở nơi Chúa. Tôi hy vọng rằng tất cả chúng ta sẽ nên một! Hãy vững niềm hy vọng, vì kết quả tốt đẹp đang đến gần”.
Nếu chúng ta nghĩ kỹ về điều đó, thì đây là niềm hy vọng của Đức Trinh Nữ Maria, Đấng đã đứng vững dưới chân thập giá của Chúa Giêsu, tin chắc rằng “kết quả tốt đẹp” đang gần kề. Đức Maria là người nữ của niềm hy vọng, Mẹ của niềm hy vọng. Trên đồi Canvê, “trông cậy mặc dầu không còn gì để trông cậy” (x. Rm 4, 18), Mẹ không bao giờ dao động trong niềm xác tín về sự phục sinh mà Con Mẹ đã loan báo. Chính Mẹ là người lấp đầy sự thinh lặng của Thứ Bảy Tuần Thánh bằng sự chờ đợi yêu thương và tràn đầy hy vọng, đồng thời gợi lên nơi các môn đệ niềm xác tín rằng Chúa Giêsu sẽ đánh bại tử thần và sự ác sẽ không phải là tiếng nói cuối cùng.
Niềm hy vọng Kitô giáo không phải là sự lạc quan dễ dãi, cũng không phải là liều thuốc an thần cho những người cả tin, nhưng đó là sự chắc chắn, bắt nguồn từ tình yêu và đức tin, rằng Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta và Ngài luôn trung thành với lời hứa của Ngài: “Dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng” (Tv 23, 4). Niềm hy vọng Kitô giáo không phải là sự phủ nhận đau khổ và cái chết; nhưng là sự tán dương tình yêu của Đức Kitô phục sinh, Đấng luôn ở bên chúng ta, ngay cả khi Người dường như ở rất xa chúng ta. “Chính Đức Kitô là ánh sáng hy vọng rạng rỡ cho chúng ta và soi đường chúng ta trong đêm tối, vì Người là “sao mai chiếu rạng’” (Tông huấn Christus Vivit, số 33).
Nuôi dưỡng niềm hy vọng
Sau khi được thắp lên trong chúng ta, đôi khi tia hy vọng có nguy cơ bị dập tắt bởi những lo lắng, sợ hãi và áp lực của cuộc sống thường nhật. Một tia lửa cần không khí để tiếp tục tỏa sáng, để phát triển thành ngọn lửa lớn của hy vọng. Chính làn gió nhẹ nhàng của Chúa Thánh Thần nuôi dưỡng niềm hy vọng và có một số cách thế để chúng ta hợp tác trong việc này.
Niềm hy vọng được nuôi dưỡng bằng lời cầu nguyện. Cầu nguyện duy trì và canh tân niềm hy vọng. Cầu nguyện giúp thắp lên ngọn lửa hy vọng. “Cầu nguyện là sức mạnh đầu tiên của niềm hy vọng. Bạn cầu nguyện, và niềm hy vọng lớn lên, tiến về phía trước” (Bài Giáo lý, ngày 20.05.2020). Cầu nguyện giống như leo lên đỉnh núi: Khi ở trên mặt đất, nhiều khi chúng ta không thể nhìn thấy mặt trời vì mặt trời có thể bị mây che khuất, nhưng một khi chúng ta trèo lên tới đỉnh núi, ánh sáng và sức nóng của mặt trời sẽ bao phủ chúng ta. Với trải nghiệm này, một lần nữa chúng ta nhận ra rằng mặt trời luôn có đó, ngay cả khi mọi thứ xung quanh chúng ta có vẻ tối tăm và ảm đạm.
Các bạn trẻ thân mến, khi các con cảm thấy bị bao phủ bởi những đám mây của sợ hãi, hoài nghi, lo lắng và không còn nhìn thấy mặt trời nữa, hãy đi theo lộ trình cầu nguyện. Bởi vì “khi không còn ai lắng nghe tôi nữa, Thiên Chúa vẫn lắng nghe tôi” (Đức Bênêđictô XVI, Thông điệp Spe Salvi, 32). Mỗi ngày chúng ta hãy dành chút thời gian để nghỉ ngơi trong Chúa, nhất là khi chúng ta cảm thấy bị lấn át trước những vấn đề của mình: “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, này hồn tôi hãy nghỉ ngơi yên hàn. Vì hy vọng của tôi bởi Người mà đến” (Tv 62, 5).
Niềm hy vọng được nuôi dưỡng bằng những lựa chọn hàng ngày của chúng ta. Lời mời gọi hãy vui mừng vì có niềm hy vọng của Thánh Phaolô (x. Rm 12, 12) đòi hỏi chúng ta phải có những lựa chọn cụ thể trong cuộc sống đời thường. Cha mời gọi tất cả các con hãy chọn một lối sống dựa trên niềm hy vọng. Cha xin đơn cử một ví dụ: Trên mạng xã hội, việc chia sẻ những điều tiêu cực có vẻ dễ dàng hơn những điều khơi dậy hy vọng. Vì thế, gợi ý cụ thể của cha là thế này: mỗi ngày, hãy cố gắng chia sẻ một lời hy vọng với người khác. Hãy trở thành người gieo mầm hy vọng vào cuộc sống của bạn bè và mọi người xung quanh các con. Thật vậy, “hy vọng thì khiêm tốn, và đó là một nhân đức cần được vun đắp từng ngày… Mỗi ngày chúng ta cần nhớ rằng chúng ta sở hữu những hoa quả đầu mùa của Chúa Thánh Thần, Đấng hoạt động trong chúng ta qua những điều nhỏ bé” (Suy niệm buổi sáng, ngày 29.10.2019).
Thắp lên ngọn đuốc hy vọng
Đôi lúc, khi đi chơi vào buổi tối với bạn bè, các con bật đèn pin trên điện thoại thông minh của mình để chiếu sáng. Trong những buổi hòa nhạc lớn, hàng nghìn bạn trẻ di chuyển những ngọn đèn hiện đại này theo nhịp điệu của âm nhạc, tạo nên một khung cảnh rất ấn tượng. Vào ban đêm, ánh sáng cho phép chúng ta nhìn mọi thứ theo một cách thế mới, và ngay cả trong bóng tối, vẫn có một vẻ đẹp nào đó tỏa sáng. Điều tương tự cũng xảy ra với ánh sáng hy vọng, đó là Đức Kitô. Nhờ Người, qua sự phục sinh của Người, cuộc đời chúng ta được soi sáng. Với Người, chúng ta nhìn mọi sự dưới một ánh sáng mới.
Như chúng ta được nghe kể rằng, khi ai đó đến gặp Thánh Gioan Phaolô II để nói chuyện với ngài về một vấn đề, câu hỏi đầu tiên của ngài là: “Bạn nhìn nhận điều này dưới ánh sáng đức tin như thế nào?” Khi được nhìn dưới ánh sáng của niềm hy vọng, mọi việc được nhìn nhận dưới một góc nhìn khác. Do đó, cha khuyến khích các con hãy bắt đầu nhìn mọi thứ theo cách này. Nhờ hồng ân hy vọng của Thiên Chúa, người Kitô hữu thấy mình tràn ngập một niềm vui khác, đến từ trong tâm hồn. Những thử thách và khó khăn vẫn luôn có đó, nhưng nếu chúng ta có một niềm hy vọng “tràn đầy đức tin”, chúng ta có thể đương đầu với những thử thách và khó khăn khi biết rằng chúng không có tiếng nói cuối cùng. Và chính chúng ta có thể trở thành ngọn đuốc nhỏ của niềm hy vọng cho người khác.
Mỗi người trong các con đều có thể là một ngọn đuốc như vậy, đến độ đức tin của các con trở nên cụ thể, gắn liền với thực tại, và nhạy cảm với nhu cầu của anh chị em mình. Chúng ta hãy nghĩ đến các môn đệ của Chúa Giêsu, một ngày nọ, trên một ngọn núi cao, họ đã chứng kiến Người biến hình trong ánh sáng vinh quang. Nếu các ông ở lại trên núi, thì đó sẽ vẫn là một trải nghiệm đẹp đẽ đối với họ, nhưng những người khác sẽ không được chia sẻ vẻ đẹp rực rỡ này. Các môn đệ cần phải xuống núi. Chúng ta cũng vậy, chúng ta không được chạy trốn thế gian, nhưng hãy yêu mến thời đại mà Thiên Chúa đã đặt để chúng ta vào, và không phải là không có lý do. Chúng ta chỉ có thể tìm thấy hạnh phúc khi chia sẻ ân sủng chúng ta đã lãnh nhận với anh chị em mà Chúa ban tặng chúng ta mỗi ngày.
Các con, những người trẻ thân mến, các con đừng ngại chia sẻ niềm hy vọng và niềm vui của Đức Kitô phục sinh với người khác! Hãy nuôi dưỡng tia lửa đã được nhen nhóm trong các con, nhưng đồng thời hãy chia sẻ nó. Các con sẽ nhận ra rằng ngọn lửa bùng sáng bằng cách cho đi! Chúng ta không thể giữ niềm hy vọng Kitô giáo cho riêng mình, như một cảm giác ấm áp, bởi vì niềm hy vọng ấy dành cho tất cả mọi người. Hãy gần gũi cách cụ thể với bạn bè của các con, những người mà bề ngoài có thể mỉm cười nhưng bên trong đang khóc vì thiếu hy vọng. Đừng để mình bị tiêm nhiễm bởi sự thờ ơ và chủ nghĩa cá nhân. Hãy luôn rộng mở, như những con kênh qua đó niềm hy vọng của Chúa Giêsu có thể tuôn chảy và lan tràn trong môi trường các con đang sống.
“Chúa Kitô đang sống! Người là niềm hy vọng của chúng ta, và là tuổi trẻ đẹp nhất của thế giới này!” (Tông huấn Christus Vivit, 1). Cha đã viết cho các con những lời này gần 5 năm trước, sau Thượng Hội đồng về Giới trẻ. Cha khuyến khích tất cả các con, đặc biệt là những người tham gia mục vụ giới trẻ, hãy đọc lại Tài liệu cuối cùng của năm 2018 và Tông huấn Christus Vivit. Đã đến lúc cùng nhau cân nhắc tình hình và hợp tác với niềm hy vọng hướng tới việc thực hiện đầy đủ Thượng Hội đồng đáng nhớ này.
Chúng ta hãy phó thác trọn cuộc đời mình cho Đức Maria, Mẹ của Niềm Hy vọng. Mẹ dạy chúng ta cách mang Chúa Giêsu, là niềm vui và niềm hy vọng của chúng ta, vào trong tâm hồn mình và trao tặng Chúa Giêsu cho người khác. Các bạn trẻ thân mến, cha chúc các con tận hưởng từng bước của cuộc hành trình mà các con đang thực hiện! Cha chúc lành cho các con và đồng hành với các con trong lời cầu nguyện. Và xin các con hãy cầu nguyện cho cha.
Rôma, Đền thờ thánh Gioan Latêranô, ngày mồng 09.11.2023, Lễ Cung hiến Vương cung Thánh đường Latêranô.
PHANXICÔ
Nt. Anna Ngọc Diệp, OP
2023
Đức Hồng y Semeraro: Thánh thiện không phải do anh hùng nhưng là kết quả của một cộng đoàn yêu thương
Đức Hồng y Semeraro: Thánh thiện không phải do anh hùng nhưng là kết quả của một cộng đoàn yêu thương
Các Thánh, Chân Phước, Đấng Đáng kính và Tôi tớ Chúa của Argentina
ĐỨC HỒNG Y SEMERARO: THÁNH THIỆN KHÔNG PHẢI DO ANH HÙNG NHƯNG LÀ KẾT QUẢ CỦA MỘT CỘNG ĐOÀN YÊU THƯƠNG
Hồng Thuỷ – Vatican News
Chia sẻ với báo “Avvenire” (Tương lai) của Hội đồng Giám mục Ý về ý nghĩa của Hội nghị có chủ đề “Chiều kích cộng đoàn của sự thánh thiện”, Đức Hồng y Marcello Semeraro nói rằng việc nên thánh không bao giờ chỉ là kết quả của sự dấn thân cá nhân, mà là sự cởi mở đón nhận một hồng ân và sau đó là thành quả của cả một cộng đoàn đón nhận Thiên Chúa và trở thành gương mặt cụ thể của tình yêu của Người trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.
Chính trong ý nghĩa này mà Bộ Phong Thánh tổ chức Hội nghị từ ngày 13-16/11/2023 tại Học viện Giáo hoàng Augustianum ở Roma.
Sự thánh thiện trước hết đến từ việc khiêm tốn đón nhận ân sủng của Thiên Chúa
Sự thánh thiện không phải do anh hùng. Đức Hồng y Tổng trưởng Bộ Phong Thánh giải thích: “Anh hùng, theo nghĩa thông thường, là người được trời phú cho những phẩm chất đặc biệt và là người đạt được mục tiêu bằng khả năng của mình. Tuy nhiên, theo quan niệm Kitô giáo, sự thánh thiện không phải đến từ sức riêng của mình, nhưng từ việc khiêm tốn đón nhận ân sủng của Thiên Chúa, bắt đầu từ Bí tích Rửa tội. Một ân sủng sẽ sinh hoa trái nếu chúng ta vâng theo tác động của Thánh Thần: đây chính là cách mà chính sự sống của Chúa Kitô phát triển trong chúng ta, một sự sống biến đổi chúng ta bằng cách thúc đẩy sự tự do của chúng ta”.
“Chúng ta không độc hành trên con đường nên thánh”
Đức Hồng y Semeraro chia sẻ về Hội nghị: “Với Hội nghị này, chúng tôi tiếp tục sáng kiến, đã bắt đầu vào năm ngoái… Chủ đề được lựa chọn cho năm nay được lấy cảm hứng từ một cụm từ được Đức Thánh Cha Phanxicô công bố trong bài giáo lý ngày 19/11/2014: “Chúng ta không đi một mình trên con đường nên thánh, mỗi người tự mình đi, nhưng đi cùng nhau, trong một thân thể duy nhất đó là Giáo Hội, được Chúa Giêsu Kitô yêu mến và thánh hóa”. Đức Hồng y cũng nhắc lại Tông huấn Vui mừng và Hân hoan (Gaudete et exsultate) số 141, trong đó Đức Thánh Cha viết rằng: “Sự thánh hóa là một hành trình của cộng đoàn, phải được thực hiện cùng với nhau”.
Nên thánh trong gia đình và đời sống hôn nhân
Do đó, Hội nghị chắc chắn sẽ dành thời gian đặc biệt để nói về gia đình và đời sống hôn nhân. Đức Hồng y đưa ra ví dụ như các thánh Louis và Zélie Martin, cha mẹ của Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu hay gia đình Ulma, các vị tử đạo được phong chân phước ở Ba Lan vào tháng 9.
Sự thánh thiện của dân Chúa
Đức Hồng y cho biết thêm rằng giáo huấn của Công đồng về ơn gọi phổ quát hướng tới sự thánh thiện của dân Chúa là nền tảng. Bởi vì sự thánh thiện có tính chất cộng đoàn và là một khía cạnh của sự hiệp thông giữa các thánh, mà chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính các Tông đồ. Theo Đức Hồng y, chủ đề của Hội nghị nhắm phát triển chủ đề này từ quan điểm Kinh Thánh, thần học, tâm linh và cả xã hội học”. (Avvenire 12/11/2023)
Nguồn: vaticannews.va/vi
2023
Các tu sĩ chia sẻ về đời sống tu dòng và tính hiệp hành
Sơ Eva Marie Gorman, OP tuyên khấn trọn đời trong tay Sơ Anna Grace Neenan, OP, Mẹ Bề trên tổng quyền của Dòng Nữ Đa Minh Thánh Cecilia, Nashville, Tennessee, Hoa Kỳ, hôm 25. 07. 2023. (Hình: OSV News/ Tennessee Register/Rachel Lombardi)
CÁC TU SĨ CHIA SẺ VỀ ĐỜI SỐNG TU DÒNG VÀ TÍNH HIỆP HÀNH
Kimberley Heatherington
Theo cha Timothy Radcliffe, OP, nguyên Bề trên tổng quyền Dòng Đa Minh và là một diễn giả, “có lẽ, các dòng tu có điều gì đó để cống hiến cho Giáo hội về nghệ thuật đối thoại”.
Là người được Đức Thánh Cha mời giảng khoá tĩnh tâm ba ngày cho các tham dự viên Thượng Hội đồng về hiệp hành trước khi bắt đầu phiên họp thứ nhất của Đại hội Thượng Hội đồng vào ngày mồng 04.10.2023 tại Roma, cha Radcliffe chia sẻ về các kỹ năng giao tiếp của một số vị lãnh đạo dòng tu: “Thánh Biển Đức dạy chúng ta tìm kiếm sự đồng thuận; Thánh Đa Minh thích tranh luận; Thánh Catherine Siena nghiêng về đối thoại; và Thánh Ignatius Loyola nhấn mạnh nghệ thuật phân định”.
Trong khi Giáo hội Công giáo đang trong tiến trình tìm hiểu và minh định về tính hiệp hành, thì cốt lõi của hiệp hành về cơ bản là một tiến trình nói và lắng nghe tích cực tìm kiếm để dung nạp và thu hút nhiều tiếng nói khác nhau khi tranh luận và ra quyết định mang tính tập thể.
Liệu các Dòng tu có “thực hiện” tính hiệp hành theo cách thế mà những thành viên khác của Giáo hội Công giáo có thể học hỏi chăng?
Cha Thomas Petri, OP, giám đốc và giáo sư trợ giảng về thần học luân lý và nghiên cứu mục vụ tại Dominican House of Studies ở Washington DC, Hoa Kỳ nói với trang mạng Our Sunday Visitor News (OSV News) rằng:
Tôi vẫn không hoàn toàn chắc chắn về ý nghĩa của tính hiệp hành. Nhưng nếu hiệp hành có nghĩa là một cuộc đối thoại cùng nhau – và nhìn vào sứ vụ, cũng như những gì Thiên Chúa đồng ý để chúng ta làm và mong muốn chúng ta làm, thì tôi nghĩ rằng rằng đời sống tu trì chắc chắn thực hiện tính hiệp hành, một cách tự nhiên và rõ ràng mà các ơn gọi khác có lẽ không làm được.
Dòng Giảng thuyết (The Order of Preachers) hay thường được gọi là Dòng Đa Minh do Thánh Dominic de Guzmán thành lập tại Pháp và được Đức giáo hoàng Honorius III phê chuẩn vào năm 1216. Với tôn chỉ của mình, Dòng được biết đến với khả năng giảng thuyết và học thuật. Hiện Dòng có hơn 30.000 tu sĩ, linh mục và nữ tu trên toàn thế giới.
Cha Petri giải thích: “Một phần của đời sống tu dòng đó là chúng tôi không hành động một mình nhưng luôn cộng tác với các anh em. Theo dòng lịch sử, cách thức mà tu sĩ Đa Minh trên thế giới cùng nhau phân định và cùng nhau hành động, cũng có nghĩa là luôn đối thoại với nhau“.
Chính đời sống và cơ cấu cộng đoàn cũng góp phần vào tính hiệp hành.
Theo cha Petri, “Khi là một tu sĩ, bạn ngồi vào bàn ăn với nhau, dù là ăn trưa hay ăn tối, bạn luôn ăn cùng nhau. Vì vậy, có một nghệ thuật là học để biết cách trò chuyện và thu hút mọi người tại bàn ăn. Nhưng đối với tu sĩ Đa Minh, và có lẽ cũng đúng với hầu hết các tu sĩ, điều quan trọng hơn đó là cũng có những hình thức đối thoại trang trọng, với tư cách là một cộng đoàn”.
Trong Dòng vẫn có các hình thức “hội họp” theo cấp địa phương là cộng đoàn hội, hoặc Tu viện hội; theo cấp tỉnh Dòng là Tỉnh hội; và theo cấp toàn Dòng là Tổng hội. Ví dụ, “Trong Tu viện hội, Bề trên cộng đoàn sẽ đưa ra những vấn đề, những quan ngại hoặc nhận xét, và mọi người sẽ có cơ hội để thảo luận”.
Sơ Gemma Simmonds, giám đốc Viện Đời sống tu trì tại Viện Thần học Margaret Beaufort ở Cambridge, Anh quốc, nói với OSV News rằng: “Hiệp hành không phải là điều gì mới mẻ mà thực sự mang tính truyền thống sâu sắc“.
Đề cập đến cuộc quy tụ sớm nhất của các vị lãnh đạo Giáo hội, Sơ Simmonds nêu lên câu hỏi: “Toàn bộ cách tiếp cận hiệp hành này thực sự phù hợp với các truyền thống tâm linh sâu sắc nhất trong Giáo hội. Giáo hội tiên khởi đã tìm ra những việc cần làm tại Công đồng đầu tiên ở Giêrusalem như thế nào?” Trong Cv 15, 1-31, công đồng đầu tiên của Giáo hội được cho là được tổ chức tại Giêrusalem vào khoảng năm 48-50. “Các Tông đồ ngồi xuống và lắng nghe nhau, và sau đó, cùng cầu nguyện dựa trên những gì họ đã nghe”.
Sơ Simmonds thuộc Dòng Chúa Giêsu (The Congregation of Jesus), một dòng quốc tế gồm khoảng 1.400 nữ tu hoạt động và chiêm niệm được thành lập vào năm 1609. Sơ Simmonds là 1 trong số 4 đại biểu tu sĩ được chọn để đối chiếu các câu trả lời khảo sát của Thượng Hội đồng dành cho các dòng tu cả nam lẫn nữ trên toàn thế giới, được đại diện bởi Liên hiệp các Bề trên Tổng quyền dòng nam (Union of Superiors General – USG) và Liên hiệp Quốc tế các Bề trên Tổng quyền dòng nữ (International Union of Superiors General– UISG). Bao gồm khoảng 200 dòng nam và 2.000 dòng nữ, tất cả được yêu cầu tổ chức một công nghị nhỏ (mini-synod) và đưa ra một Bản báo cáo.
Sơ Simmonds chia sẻ: “Điều khiến chúng tôi thực sự ngạc nhiên là mức độ đồng thuận trên toàn thế giới (giữa các nữ tu đến từ các châu lục khác nhau). … Và tôi nghĩ đó là vì đây là những người mà công việc cả đời của họ là lắng nghe tiếng nói của Thánh Thần”.
Theo Sơ Simmonds, đối với các tu sĩ, lắng nghe là một kỹ năng được tập luyện và rèn giũa qua đời sống cầu nguyện và đời sống cộng đoàn: “Mọi người nói rằng họ biết cách lắng nghe. Nhưng thực tế thì không phải vậy! Hầu hết mọi người – ngay cả khi ở trong nhóm nhỏ – chỉ đang lắng nghe bằng một tai, và họ đang suy nghĩ về câu trả lời của mình”.
Trái lại, hiệp hành là lắng nghe với sự chú ý và có chủ ý rõ ràng.
Do đó, với Sơ Simmonds: “Nếu mọi người muốn biết tính hiệp hành là gì, thì trước hết và quan trọng nhất là học lắng nghe theo cách thế thực sự dễ tiếp thu”.
Sơ Mary Grace cầu nguyện tại mộ của Đức Hồng Y John O’Connor, New York, Hoa Kỳ trước khi Sơ và 6 thành viên khác tuyên khấn trọn đời hôm mồng 05. 08. 2023. Dòng the Sisters of Life do ĐHY O’Connor thành lập vào năm 1991. (Hình: OSV News/Gregory A. Shemitz)
Sơ Maria Cimperman thuộc Dòng Thánh Tâm Chúa Giêsu, và là giáo sư môn đạo đức thần học Công giáo của trường Catholic Theological Union tại Chicago, Hoa Kỳ, đồng thời là giám đốc sáng lập Trung tâm Nghiên cứu Đời sống Thánh hiến, nói với OSV News: “Khi nói về tính hiệp hành, đó là một cách thế cùng nhau bước đi – nhưng đó cũng là một cách thế cùng nhau phân định. Thay vì nói: ‘Bạn nghĩ chúng ta nên làm gì?’, thì một câu hỏi sâu sắc hơn nhiều đó là: ‘Bạn cảm thấy Thánh Thần đang yêu cầu điều gì?'”
Cũng là thành viên trong số 4 đại biểu tu sĩ lượng giá Thượng Hội đồng, Sơ Cimperman giải thích, tính hiệp hành đôi khi cũng có thể là thách thức đối với các tu sĩ. “Trong cộng đoàn, bạn có thể nói, ‘Đó là một cuộc đối thoại thực sự khó chịu’, hoặc bạn có thể bực dọc với ai đó. Nhưng lời kêu gọi luôn là quay trở lại bàn hội thảo; quay lại với nhau“.
Được biết Dòng Thánh Tâm Chúa Giêsu (The Sacred Heart of Jesus) chuyên tâm về việc giáo dục do Thánh Madeleine Sophie Barat thành lập tại Pháp thời hậu Cách mạng vào năm 1800. Hiện nay Dòng có 1.800 nữ tu hoạt động tại 41 quốc gia.
Đối với Cha Ed Tlucek, một linh mục dòng Phanxicô phục vụ 2 giáo xứ ở Wisconsin, và chuẩn bị trở thành cố vấn Tỉnh của Tỉnh Dòng Đức Mẹ Guadalupe, Hoa Kỳ, “Chính trong cuộc đối thoại khi sống với anh em – môi trường cộng đoàn nơi chúng tôi đang sống – mà chúng tôi thường xuyên bị thử thách, vì đó không chỉ để chia sẻ những suy nghĩ nội tâm mà còn phải lắng nghe người khác. Và sau đó, sẵn sàng thay đổi trong cuộc đối thoại“.
Nói với OSV News, Cha Tlucek cho biết, mô hình lắng nghe đó rất quan trọng khi cuối cùng 5 tỉnh dòng Phanxicô của Hoa Kỳ trong năm nay đã quyết định sáp nhập thành một Tỉnh dòng mới đó là Tỉnh dòng Đức Mẹ Guadalupe: “Điều này không được thực hiện một cách riêng lẻ, và chắc chắn nó không được thực hiện từ trên xuống. Nhưng đó là từ việc nhận ra ý muốn của Thiên Chúa ở cấp độ căn bản”.
Được Thánh Phanxicô Assisi thành lập tại Ý vào năm 1209, các tu sĩ Phanxicô theo đuổi sự đơn giản của Tin Mừng, đồng cảm sâu xa với người nghèo và quan tâm đến công trình sáng tạo. Hiện nay Dòng có khoảng 35.000 tu sĩ dòng Nhất, 60.000 nữ tu Dòng kín, và 155.000 nam nữ tu sĩ dòng Ba.
Cha Tlucek cảm thấy Dòng của mình có điều gì đó để cống hiến cho Giáo hội ngày nay, thậm chí cho thế giới hiện đại, đặc biệt là khi nói đến truyền thông:
Chúng tôi được kêu gọi sử dụng những kỹ năng mà chúng tôi có với tư cách là tu sĩ Phanxicô và mời gọi giáo dân mà chúng tôi làm việc với, cùng suy xét những khí cụ này trong các cuộc đối thoại của họ; trong kinh nghiệm của họ; và trong sự phân định của họ. Chúng ta càng chia sẻ điều đó nhiều thì giáo hội sẽ càng phong phú hơn. Tất cả chúng ta đều cùng tham gia vào việc này.
Nt. Anna Ngọc Diệp, OP
Dòng Đa Minh Thánh Tâm