2023
Gia đình sống Bí tích Thánh Thể: Sống hy sinh cho nhau bằng một tình yêu tự hiến
Trong tông huấn Gia Đình Kitô Hữu – Familiaris Consortio, Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã dạy rằng: “Bí tích Thánh Thể chính là nguồn mạch của hôn nhân Kitô giáo. Quả thế, hy lễ Thánh Thể diễn lại giao ước tình yêu giữa Đức Kitô và Hội Thánh, vì giao ước ấy đã được ký kết bằng máu của Người trên thập giá. Chính trong hy lễ của Giao ước mới và vĩnh cửu ấy mà các đôi bạn Kitô hữu tìm được nguồn mạch tuôn trào làm cho giao ước hôn nhân của họ được khuôn đúc từ bên trong và được sinh động bền bỉ”[1].
Như thế, phẩm giá và nét đẹp của tình yêu hôn nhân gia đình là phản ánh tình yêu Chúa Kitô đối với Hội Thánh, một tình yêu trung tín và hiến dâng trọn vẹn. Tình yêu tự hiến đó được thể hiện trên thập giá mà bảo chứng là chính Thánh Thể Chúa để lại cho Hội Thánh. Gia đình sống bí tích Thánh Thể là thể hiện tình yêu tự hiến đó qua việc sống hy sinh cho nhau và vì nhau trong cuộc sống hằng ngày.
Nhờ đặc tính của Hôn nhân Kitô giáo khi sống đời hôn nhân gia đình mà “người này thuộc về người kia, đôi bạn thực sự biểu lộ tương quan giữa Đức Kitô và Hội Thánh Ngài”[2]. Và nhờ ơn thiêng của bí tích Thánh Thể, mỗi người được mời gọi sống hy sinh cho nhau bằng một tình yêu tự hiến thể hiện qua sự yêu thương, cảm thông, nâng đỡ và tha thứ cho nhau trong đời sống gia đình.
Nhận biết những biến chuyển trong lịch sử nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, “Hội Thánh hiểu biết sâu xa hơn về mầu nhiệm sâu thẳm của hôn nhân và gia đình, bắt đầu từ những hoàn cảnh, vấn đề, âu lo và hy vọng của các thanh niên, các đôi vợ chồng và các bậc cha mẹ ngày nay”[3].
Qua các nhận định từ hai Thượng Hội đồng Giám mục thế giới về gia đình 2014 và 2015, chúng ta thấy “thực tế của các gia đình hiện nay trong hoàn cảnh phức tạp, với ánh sáng và bóng tối của nó”[4]. Hoàn cảnh dịch bệnh, chiến tranh, kỳ thị, ma tuý, buôn bán người… dẫn đến tình trạng nghèo đói, thất nghiệp, di dân… Vấn nạn kinh tế khó khăn, xã hội với lối sống hưởng thụ mang đậm tính thế tục, văn hóa của những thứ phù du thống trị, hậu quả tiêu cực từ truyền thông đang tác động rất lớn đến các gia đình, làm gãy đổ các mối tương quan giữa các thành viên trong gia đình.
Đặc biệt, Đức Thánh Cha Phanxicô chỉ ra rằng: “khuynh hướng cá nhân chủ nghĩa cực đoan làm biến chất các mối liên kết gia đình và kết cục coi mỗi thành viên gia đình như một ốc đảo cô lập”[5].
Trong bối cảnh đó, tại Việt Nam, Hội đồng Giám mục (HĐGM) trong Thư Chung Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010 cũng nhấn mạnh: “Trước cuộc khủng hoảng gia đình hiện nay, Hội Thánh nhận thấy cần phải tăng cường và canh tân mục vụ gia đình, phải xem mục vụ gia đình là hoạt động quan trọng, nối kết những kế hoạch và chương trình mục vụ của giáo xứ cũng như giáo phận”[6].
HĐGM Việt Nam đã mời gọi mọi thành phần dân Chúa cộng tác vào sứ vụ “Tân Phúc-Âm-hóa thông truyền đức tin Kitô giáo”. Đặc biệt hướng về gia đình như là khởi điểm, HĐGM nhận định rằng: “Gia đình là cộng đoàn yêu thương bằng tình yêu hợp nhất thủy chung, xuất phát từ Thiên Chúa Tình Yêu. Mối tương quan giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái cũng như giữa anh chị em với nhau, phải là dấu chỉ của Tình Yêu Thiên Chúa”[7].
Quả thật, vì yêu thương Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài, ban cho họ được hiệp thông sự sống của Tình yêu Ba Ngôi và mời gọi con người cũng sống cho tình yêu ấy. Sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và con người được hoàn tất vĩnh viễn nơi Đức Giêsu Kitô, Phu Quân yêu thương và hiến mình trên thập giá cho Hiền Thê của Người là Hội Thánh để trở nên Đấng cứu độ nhân loại. Dấu chứng của Tình yêu hiến tế này chính là bí tích Thánh Thể.
Giáo lý Hội Thánh Công giáo (GLHTCG) đã dạy rằng: “Trong bí tích Thánh Thể, Đức Kitô ban chính thân mình đã bị nộp vì chúng ta trên thập giá, ban chính máu mà Người đổ ra ‘cho muôn người được tha tội’”[8]. Quả vậy, Chúa Giêsu đã hiến mình làm của lễ hy sinh vô tì tích trên thập giá dâng lên Thiên Chúa vì phần rỗi chúng ta, và đã tự hiến làm lương thực cho chúng ta trong bí tích Thánh Thể. Vì thế, “hy tế của Đức Kitô và hy tế Thánh Thể là một hy tế duy nhất”[9].
Khi Hội Thánh cử hành Thánh Thể, cuộc vượt qua của Chúa Kitô trở nên hiện diện giữa cộng đoàn, vì lễ tế của Chúa Kitô trên thập giá luôn sống động để đem lại ơn cứu độ cho mọi người ở mọi thời đại. Sách GLHTCG trích lại giáo huấn của Công đồng Triđentinô đã xác quyết rằng: “Đức Kitô là Thiên Chúa và Chúa chúng ta, … đã tự hiến cho Chúa Cha bằng cái chết trên bàn thờ thập giá một lần cho mãi mãi, để thực hiện ơn cứu chuộc muôn đời cho loài người. Tuy nhiên, bởi vì cái chết của Người không chấm dứt chức tư tế của Người [Dt 7, 24.27], nên trong bữa Tiệc Ly, ‘trong đêm bị nộp’ [1Cr 11,23], … Người đã để lại cho Hiền Thê yêu dấu của Người là Hội Thánh một hy tế hữu hình (như bản tính con người đòi hỏi); trong hy tế hữu hình này, hy tế đẫm máu được thực hiện một lần duy nhất trên thập giá được hiện diện, và việc tưởng niệm hy tế đẫm máu đó sẽ còn mãi cho đến ngày tận thế, và sức mạnh cứu độ của hy tế đó sẽ được áp dụng để tha thứ các tội lỗi chúng ta phạm hằng ngày”[10].
Khi lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa, người tín hữu được kết hợp với Chúa Kitô, nhờ đó họ được liên kết trong một gia đình, trở nên một thân thể là Hội Thánh. Do đó, bí tích Thánh Thể làm nên Hội Thánh. Như vậy, bí tích Thánh Thể là bí tích hiệp thông: các tín hữu hiệp thông với nhau, như những chi thể của một thân thể duy nhất. Bàn tiệc Thánh Thể chính là bàn tiệc yêu thương hiệp nhất và nhờ cử hành bí tích Thánh Thể, ngay từ bây giờ người tín hữu được hiệp thông và liên kết với các thành phần của Hội Thánh trên trời[11].
Như thế, Thánh Thể là bảo chứng của Tình yêu tự hiến của Chúa Giêsu đối với Hội Thánh là Hiền Thê của Người. Hiến lễ tình yêu thập giá ấy mang lại ơn cứu độ và sự sống vĩnh cửu cho con người mọi thời đại. Đây là mẫu gương cho tình yêu hôn nhân gia đình mà Thánh Phaolô đã nói đến: “chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình. Quả vậy, có ai ghét thân xác mình bao giờ; trái lại, người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác mình, cũng như Đức Kitô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh” (Ep 5, 28-29).
III. GIA ĐÌNH SỐNG BÍ TÍCH THÁNH THỂ: SỐNG HY SINH CHO NHAU BẰNG MỘT TÌNH YÊU TỰ HIẾN
Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã diễn tả mối tương quan giữa bí tích Thánh Thể và đời sống hôn nhân gia đình rằng: “Vì là sự diễn lại hy lễ tình yêu của Đức Kitô đối với Hội Thánh, phép Thánh Thể là nguồn mạch đức ái. Nơi ân huệ Thánh Thể là bí tích của Đức Ái, gia đình Kitô hữu gặp được nền tảng và linh hồn cho sự hiệp thông và cho sứ mạng của nó: Bánh Thánh Thể làm cho những phần tử khác nhau của cộng đồng gia đình trở nên một thân thể duy nhất…”[12].
Chúa đã sống vì yêu, đã chết cho tình yêu, và chính nhờ tình yêu hiến tế đó, Chúa đã đem lại sự sống vĩnh cửu và ơn cứu độ cho nhân loại. Theo đó, mỗi khi tham dự thánh lễ và đón rước Chúa Giêsu Thánh Thể, mỗi người trong gia đình hãy biết học sống như Chúa đã nêu gương, biết hành động vì tình yêu thương như Chúa đã thực hiện, biết cảm thông và tha thứ như Chúa đã làm.
Lời cam kết “yêu thương và tôn trọng nhau suốt đời” xem ra đơn giản và ngắn gọn nhưng nó đòi phải có một cố gắng bền bỉ để giữ gìn và thực hiện.
Trong Tông huấn Niềm Vui của Tình Yêu – Amoris Laetitia, số 70, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc lại ý tưởng của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI trong Thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu – Deus Caritas est, rằng “tình yêu nam nữ vốn chỉ được soi sáng đầy đủ trong tình yêu của Đức Kitô chịu đóng đinh”. Đó là tình yêu tự hiến mà “khi đến với người khác, con người sẽ không luôn hướng về mình, mà luôn ước muốn đem lại hạnh phúc cho người khác, luôn chăm sóc đến họ, tự hiến chính mình và muốn hiện diện cho họ”[13].
Vì thế, yêu thương nhau đòi buộc mỗi người phải biết nghĩ đến nhau, lo cho nhau và dành cho nhau những gì tốt nhất trong tình cảm cũng như trong hành động. Yêu thương loại bỏ sự ghen tương chua chát, tính nóng nảy hận thù, những lời thóa mạ bạo hành… Về điều này Thánh Phaolô khuyên nhủ rằng: “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3,14).
Tôn trọng nhau đòi buộc vợ chồng phải trân trọng tình yêu của nhau, nhìn nhận nhau như người bạn đời, đối xử với nhau trong sự bình đẳng vì mỗi người đều là hình ảnh của Thiên Chúa. Tôn trọng và phát huy những ưu điểm của nhau; đồng thời cần phải tôn trọng và biết đón nhận cách chân thành những góp ý của nhau và chấp nhận những khiếm khuyết, những khác biệt của nhau để bổ túc và tạo nên sự hòa hợp phong phú, giúp nhau mỗi ngày nên hoàn thiện hơn.
Chúng ta biết rằng trong đời sống gia đình, nhất là trong bối cảnh xã hội hôm nay, chúng ta phải đối diện với biết bao gian nan, thử thách. Không chỉ là việc lao nhọc kiếm sống hằng ngày, mà còn cả những thách đố làm cho mối dây liên kết giữa các thành viên trong gia đình trở nên lỏng lẻo, xa cách, có nguy cơ dẫn đến bất hòa, gây gổ và xào xáo.
Sống Tình yêu Kitô, mỗi người cần biết cảm thông với những thiếu sót, lỗi phạm của nhau, biết khiêm tốn nhường nhịn nhau trong những khi bất hòa. Vậy nên, mỗi khi tham dự bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể trong thánh lễ, mỗi người trong gia đình hãy xin tình yêu hiến tế của Chúa Giêsu uốn nắn con tim mình, và để Lời Chúa biến đổi cách sống bản thân: biết biến đổi tính kiêu căng tự đại thành lòng khiêm nhu ôn hòa, biến đổi lòng ghen ghét đố kỵ thành tình yêu thương nhân hậu, biến đổi sự giận hờn oán trách thành lòng từ bi tha thứ và biến đổi nỗi khổ đau thành niềm vui hân hoan. Nhờ ơn biến đổi đó, chúng ta có thể giúp nhau cùng biến đổi nếp sống gia đình theo tinh thần Phúc âm Chúa đã truyền dạy (x. Rm 12, 9-18 ; Cl 3, 1-17).
Trong chương bốn của Tông huấn Niềm Vui của Tình Yêu, Đức Thánh Cha Phanxicô quảng diễn bài ca đức mến của Thánh Phaolô: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr 13, 4-7).
Theo đó, ngài chỉ ra những nét tiêu biểu của tình yêu đích thực cần “được sống và được vun trồng trong cuộc sống mà hằng ngày đôi vợ chồng và con cái họ cùng chia sẻ”. Tình yêu đó “luôn bao hàm một ý thức thương cảm sâu xa dẫn tới việc chấp nhận người khác như một phần của thế giới này, ngay cả khi người ấy hành động khác với kì vọng của tôi”; là “làm điều tốt cho người khác và thăng tiến người khác”; là “quý trọng sự thành công của người khác, … rằng mỗi người có những ơn ban khác nhau và có những lối đường khác nhau trong cuộc sống”; là “thúc giục tôi làm cách nào để giúp những người bị xã hội loại bỏ cũng hưởng được chút niềm vui”; là “không hành động thô lỗ, khiếm nhã, không cư xử gay gắt, mà để tâm sống thuận thảo với những người xung quanh mình”; là “hạn chế sự xét đoán, kiềm giữ khuynh hướng muốn làm bật ra một lời lên án nghiệt ngã và bất nhẫn”; nhưng mang “thái độ tích cực muốn tìm cách thông cảm sự yếu đuối của người khác và bỏ qua cho họ, như Đức Giêsu đã nói: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,24)[14].
Hãy nhớ rằng “yêu thương là chu toàn lề luật” (Rm 13,8) và tuân giữ luật yêu thương sẽ đem lại an vui, hạnh phúc và bình an cho gia đình.
“Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Một trong những bằng chứng về tình yêu chân thật đó là sự hy sinh, quên mình. Yêu nhau mà không chấp nhận hy sinh, gian khổ vì nhau và với nhau thì chưa phải là tình yêu chân thật.
Chắc hẳn mỗi người chúng ta đều mong muốn có được cuộc sống gia đình an vui, hạnh phúc. Điều đó đòi buộc mỗi người trong gia đình trước hết phải biết cố gắng chu toàn bổn phận mình, biết hy sinh giúp đỡ lẫn nhau, biết chia sẻ trách nhiệm gia đình, đồng tâm hiệp lực để xây dựng cuộc sống gia đình đầy đủ về vật chất, thăng tiến về tinh thần và phẩm giá con người.
Với thời gian, gia đình sẽ trải qua nhiều biến cố, nên mỗi người cần biết sống cho nhau và vì nhau khi biết quan tâm và chia sẻ với nhau: biết nghĩ về nhau khi vui lúc buồn, hiện diện khích lệ nhau khi thành công hay lúc thất bại, dám hy sinh, chia sẻ đỡ đần cho nhau khi vất vả khó nhọc, dám từ bỏ cái tôi kiêu hãnh để chia sẻ gánh nặng của nhau, nâng đỡ nhau những khi phiền muộn, biết dành thời giờ chăm sóc cho nhau nhất là khi đau yếu và bệnh tật. Có như thế, chúng ta mới đem lại niềm hạnh phúc, an vui cho gia đình và cộng đoàn chúng ta chung sống.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã chỉ ra rằng “niềm vui cũng trở nên mới mẻ trong khổ đau. Như Thánh Augustinô diễn tả, ‘hiểm nguy của chiến trận càng lớn thì niềm vui chiến thắng càng cao’. Sau khi cùng sát cánh chịu đau khổ và cùng chiến đấu sát cánh nhau, vợ chồng có thể cảm nghiệm rằng đó là điều đáng giá, bởi vì họ đã nhận được điều tốt lành nào đó, họ cùng nhau học được một điều gì đó, hoặc bởi vì họ có thể trân quý chính những gì mình có. Ít có niềm vui nhân loại nào sâu xa và cảm kích cho bằng niềm vui mà hai người yêu nhau cùng trải nghiệm và cùng đạt được điều gì đó như kết quả của một nỗ lực lớn lao chung của cả hai người”[15].
GLHTCG dạy rằng: “Việc cử hành hy tế Thánh Thể hoàn toàn hướng đến sự kết hợp mật thiết các tín hữu với Đức Kitô qua việc rước lễ. Rước lễ là lãnh nhận chính Đức Kitô, Đấng đã tự hiến vì chúng ta”[16].
Theo ý hướng đó, việc hiệp lễ là ơn vô giá mà chúng ta được hưởng, khi đó chúng ta được tham dự vào chính giao ước Tình yêu giữa Đức Kitô và Hội Thánh. Nhờ được kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng ta được có Người làm bạn đồng hành, được Người trợ lực trong cuộc sống gia đình. Đàng khác, chúng ta được kết hợp nên một trong Người và nhờ đó mỗi người chúng ta biết yêu thương nhau không phải bằng một tình yêu giới hạn của mình, nhưng bằng tình yêu vô biên của Chúa.
Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch tình yêu, mời gọi vợ chồng trở nên một thân thể duy nhất và chia sẻ cho nhau. Năng đến với bí tích Thánh Thể, mỗi người trong gia đình sẽ được Chúa Giêsu biến đổi để trở nên tấm bánh tình yêu bẻ ra trao tặng cho nhau: tấm bánh của sự sống, của niềm vui, của tha thứ và của sự tâm đầu ý hợp. Bí tích Thánh Thể chính là sức sống nuôi dưỡng, củng cố và đổi mới tình yêu của đời sống hôn nhân gia đình. Nhờ tình yêu siêu nhiên ấy, gia đình có thể lướt thắng những cám dỗ, bực bội, buồn phiền. Nhất là khi kết hợp với Đức Kitô Thượng Tế trong cử hành Thánh lễ, mà đôi bạn và gia đình tham dự với chức tư tế chung do bí tích Rửa tội đem lại, cuộc sống hằng ngày của các thành viên trong gia đình trở thành “hy lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa”[17].
Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch đời sống Hội Thánh, là trung tâm và tột đỉnh của mọi hoạt động của Hội Thánh. Nơi bí tích Thánh Thể, Chúa hiến mình làm thần lương nuôi dưỡng và chữa lành vết thương tội lỗi của chúng ta, trở nên nguồn ơn trợ giúp chúng ta trong cuộc lữ hành dương thế này.
Siêng năng cùng dâng lễ và rước lễ, mỗi người trong gia đình được mời gọi sống Tình yêu Chúa Kitô và thương mến nhau hơn. Với sự hiện diện đồng hành và trợ giúp của Chúa Giêsu Thánh Thể, mỗi người trong gia đình khi sống bên cạnh nhau biết sống hy sinh cho nhau, biết cảm thông, chia sẻ và ân cần chăm lo cho nhau những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống gia đình, biết an ủi, nâng đỡ và chăm sóc tận tình lẫn nhau trong sự yêu thương đùm bọc khi mạnh khỏe cũng như khi đau yếu, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, vất vả của cuộc sống.
Có như thế, đời sống gia đình Kitô giáo mới thực sự phản ánh Tình yêu Thiên Chúa và góp phần vào việc loan báo Tin Mừng và công cuộc tân Phúc-Âm-hóa hôm nay.
Lm. Giuse Nguyễn Ngọc Thảo
[1] ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Gia Đình Kitô hữu – Familiaris Consortio, 1981, 57.
[2] ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Gia Đình Kitô hữu – Familiaris Consortio, 1981, 13.
[3] Ibid, 4
[4] ĐGH Phanxicô, Tông huấn Niềm Vui của Tình Yêu – Amoris Laetitia, 2016, 32
[5] ĐGH Phanxicô, Tông huấn Niềm Vui của Tình Yêu – Amoris Laetitia, 2016, 33.
[6] HĐGMVN, Thư Chung Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010, số 43.
[7] HĐGMVN, Thư Chung gởi Cộng Đồng Dân Chúa: Hội Thánh Công Giáo tại Việt Nam và Công cuộc Tân Phúc-Âm-Hóa, 10-10-2013, 6.
[8] GLHTCG 1365.
[9] GLHTCG 1367.
[10] GLHTCG 1366; x. Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 3.
[11] x. GLHTCG 1396. 1419 ; x. 1 Cr 10, 16-17.
[12] ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Gia Đình Kitô hữu – Familiaris Consortio, 1981, 57.
[13] ĐGH Bênêđictô XVI, Thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu – Deus Caritas est, 2006, 2 và 7.
[14] x. ĐGH Phanxicô, Tông huấn Niềm Vui của Tình Yêu – Amoris Laetitia, số 89-119.
[15] ĐGH Phanxicô, Tông huấn Niềm Vui của Tình Yêu – Amoris Laetitia, số 130.
[16] GLHTCG 1382.
[17] ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Gia Đình Kitô hữu – Familiaris Consortio, 1981, 59.
2023
Các nữ tu Công giáo nỗ lực hoạt động để trẻ em được sống trong gia đình
Tổ chức Công giáo Chăm sóc Trẻ em là một mạng lưới toàn cầu của các nữ tu Công giáo ủng hộ việc chăm sóc trẻ em trong các gia đình và cộng đồng, thúc đẩy sự phát triển lành mạnh về tinh thần và thể lý cho các em bắt đầu ở châu Phi và hiện đã mở rộng sang các châu lục khác.
Các nữ tu Công giáo tin rằng ngay khi bắt đầu, ở trung tâm của công trình tạo dựng, gia đình là kế hoạch ban đầu của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Điều này có nghĩa là gia đình không chỉ là một cơ cấu xã hội, nhưng còn là kế hoạch của Thiên Chúa để con người được phát triển một cách toàn diện.
Trong một cuộc phỏng vấn của Vatican News, sơ Mary Niluka Perera, điều phối viên của tổ chức đã nói rõ về tầm quan trọng của việc chăm sóc trẻ em ở gia đình so với các trung tâm. Sơ cho biết Tổ chức Công giáo Chăm sóc Trẻ em là một sáng kiến của Liên hiệp Quốc tế các Bề trên Tổng quyền Dòng nữ(UISG), nhằm đảm bảo các trẻ em lớn lên trong một gia đình an toàn, yêu thương hoặc một môi trường giống như gia đình.
Để làm được điều này, theo nữ tu điều phối, Tổ chức quan tâm đến ba trụ cột chính: lĩnh vực Công giáo, khoa học xã hội và quyền trẻ em. Trụ cột đầu tiên bắt nguồn từ giáo huấn xã hội của Giáo hội Công giáo, thứ hai nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nuôi dưỡng trong gia đình đối với sự phát triển toàn diện của các em, và thứ ba tập trung vào quyền có một gia đình của trẻ em.
Nhằm mục đích hỗ trợ các dòng tu đọc các dấu chỉ của thời đại và làm cho đoàn sủng phù hợp với bối cảnh ngày nay, Tổ chức Công giáo Chăm sóc Trẻ em cung cấp các khoá đào tạo trực tuyến cho các nữ tu muốn thay đổi phương pháp chăm sóc trẻ em từ chăm sóc tại các cơ sở sang chăm sóc tại gia đình hoặc các hình thức tương tự.
Sơ giải thích thêm rằng, mặc dù các trung tâm cung cấp cho trẻ em những nhu cầu căn bản, nhưng lại thiếu chăm sóc cá nhân, hỗ trợ cảm xúc và cảm giác thân thuộc mà môi trường gia đình mang lại. Hơn nữa, các nhà nghiên cứu thường gợi ý rằng trẻ em phát triển tốt hơn khi được chăm sóc tại gia đình, trải qua sự phát triển lành mạnh, cảm xúc và tâm lý so với môi trường tập thể.
Vatican News
2023
Phỏng vấn Đức Phanxicô nhân kết thúc năm 2023
Hai tháng trước khi kết thúc năm 2023, Đức Phanxicô kết thúc năm bằng cuộc phỏng vấn mới với hãng tin Yesla của Nhà nước Argentina, Ngài nói về những chuyến tông du tiếp theo, những cuộc khủng hoảng và tình hình Giáo hội.
Xin cha cho biết về những chuyến tông du quan trọng cha cần hoàn thành trong triều của cha.
Đức Phanxicô. Trước hết là Argentina, tôi muốn về thăm quê hương. Còn những chuyến đi xa nhất, tôi vẫn còn Papua New Guinea. Vì tôi sắp đi Argentina nên có người khuyên tôi nên dừng ở Rio Gallegos, sau đó đi Nam Cực, đến Melbourne và thăm Tân Tây Lan và Australia. Sẽ hơi lâu một chút…
Cha nghĩ gì về những cuộc khủng hoảng hiện nay và chủ nghĩa giải phóng kiểu thiên sai, về các phong trào cực hữu, những khủng hoảng này là nhất thời hay sẽ kéo dài? Chúng ta có thể làm gì để tránh?
Tôi thích từ khủng hoảng vì sẽ có chuyển hóa trong nội bộ. Nhưng chúng ta thoát ra khỏi khủng hoảng bằng cách đi lên, chúng ta không thoát ra bằng những mánh khóe. Chúng ta thoát ra từ trên cao và không thoát ra một mình. Những ai muốn thoát ra một mình, họ biến lối thoát của họ thành mê cung vòng vòng. Cuộc khủng hoảng là một mê cung. Hơn nữa, khủng hoảng làm chúng ta trưởng thành: khi một người, một gia đình, một đất nước hay một nền văn minh gặp khủng hoảng, nếu họ vượt qua tốt thì họ sẽ trưởng thành.
Tôi lo khi các vấn đề bị kẹt và không thể giải quyết được. Một trong những điều chúng ta cần dạy cho các em bé là làm sao xử lý được khủng hoảng. Làm sao giải quyết được khủng hoảng? Vì nó làm cho chúng ta trưởng thành. Chúng ta đã từng là người trẻ và thiếu kinh nghiệm, đôi khi các thanh thiếu niên bây giờ bám vào phép lạ, vào giải phóng kiểu thiên sai, vào ý tưởng rằng mọi việc có thể được giải quyết theo cách của người thiên sai. Đấng Thiên sai là người duy nhất đã cứu tất cả chúng ta. Những người khác chỉ là những chú hề thiên sai. Không ai trong số họ có thể hứa hẹn giải quyết xung đột, họ chỉ làm khủng hoảng leo thang. Và không chỉ thế. Chúng ta hãy nhìn về bất cứ cuộc khủng hoảng chính trị nào, ở một đất nước không biết phải quyết định điều gì, ở châu Âu có một số… Chúng ta phải làm gì? Có phải chúng ta đang tìm kiếm một thiên sai bên ngoài đến cứu chúng ta không? Không. Chúng ta phải đi tìm xung đột xuất phát từ đâu, nắm bắt và giải quyết nó. Quản lý xung đột có nghĩa là thể hiện sự khôn ngoan. Nhưng không có xung đột thì không có con đường phía trước.
Cha sẽ có hai thông điệp về trí tuệ nhân tạo, mở rộng huấn quyền trong lãnh vực này, thông điệp Ngày Hòa bình Thế giới 2024 và thông điệp Ngày Truyền thông Thế giới 2024. Sự phát triển công nghệ tăng nhanh, trong đó có trí tuệ nhân tạo, cha nghĩ làm thế nào để nó được quản lý ở góc độ nhân văn hơn?
Tôi thích chữ “tăng nhanh”. Khi một cái gì đó được tăng tốc, tôi lo vì nó không có thời gian đủ để ổn định. Từ cuộc cách mạng công nghiệp trong những năm 1950, chúng ta thấy sự phát triển không tăng nhanh, chúng có các cơ chế kiểm soát và hỗ trợ. Khi những thay đổi diễn ra với tốc độ chóng mặt, cơ chế đồng hóa không có thời gian tiến hành và cuối cùng chúng ta trở thành “nô lệ”. Việc trở thành nô lệ cho một người hoặc một công việc cũng nguy hiểm cho văn hóa.
Đường hướng chỉ đạo của tiến bộ văn hóa, kể cả trí tuệ nhân tạo, là khả năng của mọi người trong việc quản lý, tiếp thu và kiểm soát nó. Nói cách khác, mọi người, nam cũng như nữ đều là chủ nhân của sáng tạo và chúng ta không được đi chệch khỏi điều đó. Tính ưu việt của cá nhân là trên hết! Những thay đổi khoa học nghiêm túc là những tiến bộ. Chúng ta phải sẵn sàng làm điều này.
Về lãnh vực chính trị, xin cha giải thích khái niệm “an ninh toàn diện” do cha đưa ra là gì?
Chúng ta không thể có được an ninh từng phần cho một quốc gia nếu không có an ninh toàn diện cho mọi người. Chúng ta không thể nói về an sinh xã hội nếu không có an ninh phổ quát hoặc đang trong quá trình trở thành như vậy. Tôi nghĩ đối thoại không chỉ mang tính quốc gia mà còn mang tính phổ quát, đặc biệt ngày nay với tất cả các phương tiện liên lạc. Đó là lý do vì sao tôi nói về một đối thoại phổ quát, hòa hợp phổ quát, gặp gỡ phổ quát. Và tất nhiên, kẻ thù của tất cả những điều này là chiến tranh. Kể từ khi Thế chiến thứ hai kết thúc cho đến ngày nay, khắp nơi đều có chiến tranh. Đây chính là điều làm cho tôi phải nói, chúng ta đang trải qua cuộc chiến tranh thế giới từng phần. Ngày nay chúng ta nhận ra điều này vì cuộc chiến tranh thế giới này đang đến.
Về tình hình của Giáo hội, chúng ta cần loại Giáo hội nào trong thời buổi này?
Ngay từ đầu Công đồng Vatican II, Đức Gioan XXIII đã có một nhận thức rất rõ ràng: Giáo hội phải thay đổi. Đức Phaolô VI đồng ý và tiếp tục, các giáo hoàng tiếp theo cũng vậy. Đó không chỉ là một thay đổi về phong cách, mà còn là một tiến bộ hướng tới phẩm giá con người. Và có một tiến hóa thần học, thần học luân lý và mọi khoa học giáo hội, kể cả việc giải thích Kinh thánh, đã phát triển theo ý nghĩa của Giáo hội. Luôn hòa hợp. Các cắt đứr là không tốt. Hoặc chúng ta tiến bộ bằng cách phát triển, hoặc chúng ta sẽ kết thúc một cách không tốt. Những cuộc cắt đứt làm chúng ta mất đi tiến bộ. Tôi thích dùng hình ảnh cây và rễ của nó. Rễ lấy hết độ ẩm từ đất và kéo lên cao qua thân cây. Khi chúng ta cắt đứt với rễ, chúng ta thấy mình khô khan và không có truyền thống. Truyền thống theo nghĩa tốt của từ này. Tất cả chúng ta đều có một truyền thống, một gia đình, tất cả chúng ta sinh ra đều có văn hóa của một đất nước, văn hóa của một chính trị. Tất cả chúng ta đều có một truyền thống và chúng ta cần phải chăm sóc.
Làm thế nào cha giải quyết được khó khăn giữa việc thay đổi và không đánh mất một phần bản sắc?
Giáo hội, đối thoại và những thách thức mới, đã thay đổi nhiều điều. Ngay cả trong vấn đề văn hóa. Chẳng hạn, khi nói đến đời sống của một giáo hoàng. Việc một giáo hoàng trả lời các phỏng vấn như thế này không phải là chuyện phổ biến vào cuối Công đồng Vatican I. Trong một thế kỷ rưỡi, bây giờ chuyện này đã được làm. Trong một thế kỷ rưỡi, mọi thứ đã phát triển rất nhiều, nhưng luôn theo cùng một hướng. Một nhà thần học thế kỷ thứ 4 cho rằng những thay đổi trong Giáo hội phải đáp ứng ba điều kiện mới có thể xác thực: ổn định, phát triển và hoàn thiện theo năm tháng. Đây là định nghĩa truyền cảm hứng của Thánh Vincent de Lerins ở thế kỷ thứ IV. Giáo hội phải thay đổi, chúng ta nghĩ về việc Giáo hội đã thay đổi như thế nào kể từ Công đồng cho đến ngày nay và Giáo hội phải tiếp tục thay đổi về hình thức, về cách đề xuất một chân lý không thay đổi. Nói cách khác, Mặc khải của Chúa Giêsu Kitô không thay đổi, giáo điều của Giáo hội không thay đổi, nhưng lớn lên, phát triển và hoàn thiện như nhựa cây. Ai không đi trên con đường này, họ lùi lại một bước và thu mình vào chính mình. Những thay đổi trong Giáo hội xảy ra theo đường hướng bản sắc của Giáo hội này. Nó phải thay đổi tùy theo những thách thức đặt ra cho nó. Đó là lý do tại sao trọng tâm của sự thay đổi này mang tính chất mục vụ và không phủ nhận những yếu tố thiết yếu của Giáo hội.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch(phanxico.vn)
2023
Ủy ban các vị Tử đạo mới đã xác định hơn 550 vị tử đạo mới
Ủy ban các vị Tử đạo mới đã xác định hơn 550 vị tử đạo mới
Ngày 9/11/2023 Ủy ban các vị Tử đạo mới – Chứng nhân Đức tin – đã họp tại Bộ Phong Thánh để phác thảo các phương pháp và công việc hướng đến Năm Thánh 2025. Ủy ban đã xác định hơn 550 vị tử đạo, từ năm 2000 đến nay, những vị Giáo hội đã biết hoàn cảnh tử đạo và phục vụ của họ.
Phòng Báo chí Tòa Thánh cho biết cuộc khảo sát về các nạn nhân Kitô giáo và việc dâng hiến mạng sống của các giáo dân, các mục tử, những người thánh hiến sẽ sử dụng những kết quả đã được thực hiện bởi hãng tin Fides và các cơ quan khác, cũng như của những nghiên cứu mới, được hỗ trợ bởi các giám mục, các dòng tu và những người lưu giữ ký ức về những Kitô hữu này.
Các vị tử đạo từ năm 2000 đến nay
Công việc trong giai đoạn đầu tiên này sẽ liên quan đến các Kitô hữu có cuộc sống bị cắt ngắn hoặc trao tặng sự sống bằng nhiều cách khác nhau để sống theo Tin Mừng, trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến nay.
Hiện có hơn 550 nhân chứng được biết hoàn cảnh qua đời cũng như việc phục vụ Giáo hội và dân Chúa của họ. Một trang web hiện đã được thiết lập để hỗ trợ công việc của Ủy ban và cung cấp một số thông tin cần thiết.
Phương pháp làm việc
Phương pháp làm việc của Ủy ban các vị Tử đạo mới là có sự hợp lực của những người không là thành viên của Ủy ban, đặc biệt liên quan đến việc tái thiết bối cảnh lục địa, khu vực và quốc gia, nơi các vị Tử đạo đã đổ máu ra và dâng tặng sự sống. Sự đóng góp của nhiều tín hữu thuộc các Giáo hội Công giáo Đông phương đã được nhắc lại, đặc biệt tập trung vào Trung Đông và Châu Á.
Ủy ban cũng nhắc lại giá trị đại kết của sự tử đạo theo nghĩa rộng và việc cần xem xét sự phong phú của chứng tá của các Kitô hữu thuộc các hệ phái khác.
Bộ Phong Thánh, qua Chủ tịch của Ủy ban là Đức Tổng Giám mục Fabio Fabene, đã cung cấp cho Ủy ban những công cụ cần thiết để thực hiện nhiệm vụ được giao (nguồn nhân lực và kỹ thuật).
Cùng với Phó Chủ tịch là Giáo sư Andrea Riccardi, nghiên cứu trước đây đã được xem xét lại và đưa ra đề xuất cho việc nghiên cứu trong tương lai.
Nguồn: vaticannews.va/vi