2023
Phương Pháp Cầu Nguyện Với Thánh Kinh
PHƯƠNG PHÁP CẦU NGUYỆN
Có nhiều phương pháp cầu nguyện với Thánh Kinh. Mỗi người có thể thấy một hay vài phương pháp nào đó thích hợp với mình. Bằng cách thực tập nhiều lần các phương pháp khác nhau, chúng ta sẽ trở nên giỏi dang khi sử dụng phương pháp thích hợp cho đoạn Thánh Kinh và hòa hợp với nhu cầu cá nhân và cá tính của chúng ta. Một khi tôi đã tìm được một phương pháp cầu nguyện riêng cho mình, xin cứ theo phương pháp cầu nguyện đó.
Công Thức 4P + 1R
Ý Thức Sự Hiện Diện của Chúa (Presence of God)
- Cảm nhận sự hiện diện của Thiên Chúa qua hơi thở và cảm giác lắng đọng
- Ý thức nơi tôi đang ngồi là “Đất Thánh” – “Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đứng là đất thánh.” (Xh 3:5)
Ơn Xin (Petition for Grace)
- Đọc từ tốn “Tôi Muốn Gì” trong tờ thao luyện
- Lắng đọng một chút và suy nghĩ về Ơn Xin
*Cầu Nguyện với Thánh Kinh (Passage of Scripture)
- Suy niệm, chiêm niệm, đối thoại với Chúa và đáp trả tiếng Chúa
Lời Nguyện Kết (Prayer)
- Kết thúc bằng lời nguyện riêng của mình hay lời nguyện trong tờ thao luyện
- Phó thác tương lai cho Chúa
Kiểm Điểm (Review)
- Viết Nhật Ký Thiêng Liêng.
- Tư tưởng nào đánh động tôi nhất? Những ơn đã nhận được trong giờ cầu nguyện
- Xem lại cách cầu nguyện, khung cảnh có giúp tôi dể dàng hơn.
*Cầu Nguyện với Thánh Kinh (Passage of Scripture)
Cầu nguyện là cuộc đối thoại giữa hai người. Do đó nó có hai phần: phần của tôi và phần của Chúa. Tôi ráng làm tròn phần của tôi rồi Chúa sẽ đem đến phần của Ngài. Nhiều khi Ngài đến không như ý tôi muốn hay ước mong. Tôi có yêu đủ để không chối từ một điều gì với Ngài và để cho Ngài hoàn toàn tự do không?
Phần của Tôi
Đọc đoạn Thánh kinh chậm rãi qua hết một lần. Có thể đọc đoạn trước đó hoặc sau đó để biết bối cảnh (context) câu chuyện. Thí dụ: Câu chuyện Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều.
Sau đây là những cách cầu nguyện với Thánh kinh:
1. Suy Niệm
Khi suy niệm, chúng ta đến với đoạn Thánh kinh như với một lá thư tình; hình thức này rất hữu ích khi cầu nguyện với những đoạn thơ như Thánh Vịnh.
Phương Pháp
- Đọc đoạn Thánh kinh thật chậm, lớn tiếng hay thì thầm, để cho các chữ bao trùm lên bạn, và nghiền ngẫm từng chữ.
- Dừng lại ở những chữ đặc biệt làm bạn chú ý; hấp thụ chúng như người khát mong uống nước mưa trời.
- Lập lại một chữ hay một câu nhiều lần, nhận thức những cảm giác đang được đánh thức dậy.
- Đọc, và đọc lại đoạn Thánh kinh nhiều lần một cách trìu mến, y như đọc một lá thư tình, hay như khi bạn hát nhẹ nhàng điệp khúc của một bài ca.
2. Chiêm Niệm
Khi chiêm niệm, chúng ta bước vào một biến cố hay một đoạn kể chuyện trong Thánh Kinh. Chúng ta bước vào đoạn này bằng sự tưởng tượng, và sử dụng tất cả các cảm quan của chúng ta. Các nhà thần học dạy rằng qua chiêm niệm, chúng ta có thể “nhớ lại và hiện diện trong những mầu nhiệm của cuộc đời Chúa Kitô”. Thần Trí Chúa Giê-su hiện diện trong chúng ta qua phép rửa tội, dạy dỗ chúng ta y như Chúa Giê-su đã dạy dỗ các tông đồ. Thần Trí gợi lại và làm sống động các mầu nhiệm chúng ta bước vào qua việc cầu nguyện. Cũng như ở trong Thánh Thể, Chúa Giê-su lên trời đã làm hiện diện mầu nhiệm Phục Sinh, trong việc chiêm niệm, Thánh thần đem tới biến cố đặc biệt mà chúng ta chiêm niệm và Thánh thần tự xuất hiện trong mầu nhiệm ấy.
Phương Pháp
Trong khi chiêm niệm, chúng ta bước vào câu chuyện y như chính chúng ta có mặt ở đó:
- Quan sát những gì xảy ra; lắng nghe những gì đã được nói.
- Trở nên một thành phần của mầu nhiệm; lãnh vai trò cuả một nhân vật.
- Nhìn từng nhân vật; nhân vật đó đang có kinh nghiệm gì? Nhân vật đó đang nói với ai?
- Nếu tôi nghe được lời Chúa nói với tôi trong đoạn thánh kinh đó thì có ảnh hưởng gì đến đời sống của tôi, gia đình tôi, xã hội tôi?
Trong câu truyện Thánh kinh, bước vào một cuộc đối thoại với Chúa Giê-su:
- Có mặt ở đó với Chúa và vì Chúa.
- Ước muốn Chúa, thèm khát Chúa.
- Lắng nghe Chúa.
3. Cầu Nguyện Tập Trung
Cầu nguyện tập trung là một hình thức cầu nguyện rất giản dị, rất trong sáng, thường thì không ra lời; đó là cách mở trái tim chúng ta cho Thánh Thần đến ngự trị trong chúng ta. Trong cầu nguyện tập trung, chúng ta tuột dốc xoáy ốc để đi sâu xuống vào tận đáy tâm hồn chúng ta. Đó là điểm yên tĩnh trong ta nơi đa số chúng ta cảm nghiệm đã được cấu tạo bởi một Thiên Chúa thương yêu đã thổi hơi thở cho chúng ta được sống. Muốn bước vào sự cầu nguyện tập trung, chúng ta phải tuyên xưng sự phụ thuộc của chúng ta vào Chúa và đầu hàng trước tinh thần yêu thương của Ngài.
“… Thánh Thần cũng đến để giúp đỡ chúng ta những lúc yếu đuối. Thánh Thần trình bày nhừng lời cầu xin của chúng ta dưới những hình thức không thể diễn tả bằng lời…”(Ro-ma 8:26)
Thánh thần của Chúa Giêsu kêu lớn trong chúng ta “A-ba, Lạy Cha” (Ro-ma 8:15).
Phương Pháp
“Dừng lại một lát và nhận biết Ta là Thiên Chúa” (Thánh Vịnh 46:10).
- Ngồi yên lặng, thoải mái và dễ chịu.
- An nghỉ trong mong muốn và ao ước Chúa.
- Di chuyển vào trung tâm sâu xa của bản thể chúng ta. Sự di chuyển này có thể dễ dàng nếu tưởng tượng như khi chúng ta đang tụt xuống trong một cầu thang máy, hay khi đang bước xuống một cầu thang dài, hay khi đang leo xuống một triền núi, hay lặn sâu xuống một hồ nước.
- Trong sự yên tịnh, cố nhận thức được sự hiện diện của Chúa; hấp thụ tình yêu Chúa một cách an bình.
4. Lời Nguyện Lập Lại
Một hình thức cầu nguyện tập trung khác là sử dụng lời nguyện lập lại. Lời nguyện lập lại có thể là một chữ hay một câu. Có thể là một chữ trong đoạn Thánh Kinh, hay một chữ được xuất phát tự đáy tim chúng ta. Chữ hay câu này biểu tượng cho ta sự hiện hữu đầy đủ của Chúa.
Một hình thức thay đổi của lời nguyện lập lại có thể bao gồm tên “Giêsu” hay hình thức đã được mệnh danh là “Kinh Giêsu”, “Lạy Chúa Giêsu, Con của Chúa Trời hằng sống, xin đoái thương đến con, là kẻ có tội.”
Phương Pháp
Chữ hay câu được lập lại nhẹ nhàng, bên trong tâm hồn để cho hòa hợp với hơi thở. Thí dụ, phân nửa đầu của Kinh Giêsu được đọc trong khi hít vào, và phân nửa sau được đọc khi thở ra.
5. Đọc Chiêm Niệm
“Tôi há miệng ra; Người ban cho tôi cuốn Thánh Thư để ăn và nói, “hãy ăn đi và cảm thấy no đủ về cuốn Thánh Thư ta cho con.’ Tôi đã ăn và Thánh Thư có vị ngọt như mật ong” (Ezekiel 3:2-3). Đọc như vậy luôn luôn giúp cho đời sống cầu nguyện của chúng ta được phong phú hơn. Phương pháp được mô tả sau đây đặc biệt có ích khi chúng ta cảm thấy khô khan nguội lạnh.
Phương Pháp
Đọc một cách chậm rãi, ngưng lại nhiều lần để cho các chữ các câu xâm nhập vào cơ thể chúng ta. Khi một tư tưởng vang động sâu xa, dừng lại ở đó, để cho ý nghĩa đầy đủ của chúng, xâm nhập tâm hồn chúng ta. Tận hưởng những chữ đã cảm nhận được. Đáp trả một cách tự nhiên y như khi đối thoại.
6. Viết Nhật Ký
“Nếu các bạn đọc các dòng chữ của tôi, các bạn sẽ có một khái niệm về chiều sâu tôi đã cảm nhận được trong mầu nhiệm của Chúa Kitô” (Ephêsô 3:4). Viết nhật ký là một hình thức viết trong chiêm niệm. Khi chúng ta đặt bút trên giấy, linh hồn và thân thể hỗ trở để giải tỏa bản thể thật sự của chúng ta.
Có sự khác biệt giữa hình thức cầu nguyện này với cách chúng ta viết nhật ký hàng ngày.
Cầu nguyện bằng nhật ký là cảm nhận trong ánh sáng mỗi khi các hình ảnh mới được phát xuất từ tiềm thức của chúng ta được ban cho những ý nghĩa mới. Cầu nguyện bằng nhật ký đòi hỏi phải bỏ sang một bên những thành kiến và những sự kiềm chế đã có sẵn.
Viết trong chiêm niệm giống như viết thư cho một người yêu. Các kỷ niệm được gợi lại, các niềm tin được làm cho sáng tỏ và tình cảm nổi dậy mãnh liệt trong chúng ta. Trong khi viết, chúng ta có thể khám phá rằng các cảm xúc được tăng cường và kéo dài. Vì thế viết nhật ký có thể giúp cho chúng ta nhận định được các cảm xúc bị che dấu, bị đè nén, như tức giận, sợ hãi và thù hận. Cuối cùng, cầu nguyện bằng nhật ký có thể giúp chúng ta tôn trọng hơn những chữ những câu đã được viết trong Thánh Kinh.
Phương Pháp
Có nhiều hình thức khác nhau khi cầu nguyện bằng nhật ký:
- Viết một lá thư cho Chúa.
- Viết một cuộc đối thoại giữa chúng ta và người khác; người khác có thể là Giêsu, hay một người nào quan trọng. Cuộc đối thoại có thể được ghép theo một biến cố, một kinh nghiệm hay một giá trị. Thí dụ, sự chết, sự chia ly, sự khôn ngoan, một tài khéo; và được tưởng tượng ra y như đang nói chuyện với người ấy.
- Viết câu trả lời cho một câu hỏi, chẳng hạn “Con muốn Ta làm gì cho con?” (Maccô 10:51) hay “Tại sao con khóc?” (Gioan 20:15).
- Để cho Giêsu hay một nhân vật khác trong Thánh Kinh nói với chúng ta qua ngòi bút của chúng ta.
7. Lập Lại
“Tôi sẽ tiếp tục chiêm niệm về điểm trong đó tôi đã khám phá ra điều tôi mong ước, và không muốn đi xa thêm trước khi tôi hoàn toàn hài lòng.” – Thánh I-nhã thành Loyola. Lập lại là việc trở về một thời gian cầu nguyện trước đó với mục đích để cho những hoạt động của Chúa ăn sâu trong trái tim chúng ta. Qua sự lập lại, chúng ta tô điểm cho sự nhạy cảm của chúng ta đối với Chúa và đối với cách thức Chúa nói với chúng ta qua việc cầu nguyện và trong những hoàn cảnh của cuộc đời chúng ta. Cầu nguyện lập lại giúp cho kinh nghiệm của sự tổng hợp điều chúng ta là ai với điều Chúa đang bầy tỏ cho chúng ta biết Chúa là ai.
Lập lại là một cách để tôn kính Lời Chúa nói với chúng ta trong các buổi cầu nguyện trước. Đó là nhớ lại và suy nghĩ về một cuộc đối thoại trước đây của chúng ta với một người chúng ta yêu mến. Cũng giống như khi chúng ta nói với Chúa, “Lạy Chúa xin hãy nói lại với con điều ấy; con đã nghe thấy Chúa nói gì với con?” Trong cuộc đối thoại tiếp theo hay lập lại này, chúng ta mở lòng cho sự hiện diện chữa lành thông thường có mãnh lực để biến cải những sự đau buồn và bối rối chúng ta đã cảm nhận được trong các buổi cầu nguyện trước đó. Khi lập lại, không những các sự an ủi (vui sướng, ấm áp, bình an) được mạnh mẽ hơn, mà các sự thất vọng (đau khổ, buồn bã, và bối rối) thường đưa tới một trình độ mới để thấu hiểu và chấp nhận kế hoạch Chúa dành cho chúng ta.
Phương Pháp
Giai đoạn cầu nguyện chúng ta lựa chọn để lập lại là buổi cầu nguyện trong đó chúng ta đã kinh nghiệm một xúc động đáng kể về vui mừng, buồn khổ hay bối rối. Cũng có thể là một giai đoạn trong đó không có gì xảy ra, có lẽ vì chúng ta thiếu chuẩn bị.
- Nhớ lại những cảm xúc của lần trước.
- Sử dụng để làm một điểm khởi đầu, một khung cảnh, môt câu chữ, hay một cảm xúc đáng kể trong lần trước.
- Để cho Thánh Thần hướng dẫn các động tác nội tâm của trái tim trong buổi cầu nguyện này.
Phần của Chúa
Chúa rất nhân từ có khi đem tôi gần trong lòng Ngài. Tôi không có khả năng đem tôi đến gần Chúa, nhưng chính Ngài là Đấng hay thương xót đem tôi vào cung lòng của Ngài, đem tôi thật gần, đem tôi vào chiêm ngưỡng (contemplation). Tôi đắm chìm trong đại dương của tình yêu (ocean of love), vì lòng nhân từ của Ngài.
2023
Vấn đề từ ngữ: KINH THÁNH hay THÁNH KINH ?
Vấn đề từ ngữ: KINH THÁNH hay THÁNH KINH ?
Để chỉ các Sách Thánh của Ki-tô giáo, chúng ta thấy người ta dùng hai từ ngữ : Khi thì Thánh Kinh khi thì Kinh Thánh. Chúng ta tìm hiểu lý do của sự khác biệt này.
- Từ kinhvà thánh
Đây là hai từ Hán-Việt :
Kinhlà sách thời xưa, dùng làm khuôn mẫu, quy luật cho một tôn giáo, như Ngũ Kinh trong Nho Giáo, Kinh Phật trong Phật Giáo, Kinh Coran trong Hồi Giáo. Từ này còn được dùng để chỉ lời cầu nguyện, như trong từ ngữ “Kinh cầu các thánh”.
Thánhlà một cái gì cao siêu, có khi thuộc giới thần linh.
- Cặp từ Kinh Thánh / Thánh Kinh
Trong cặp từ này kinh là danh từ, thánh là tính từ. Trong chữ Hán, tính từ đi trước danh từ, ví dụ : bạch yến, ác nhân. Còn trong tiếng Việt, tính từ thường đi sau, ví dụ : mèo đen, người tốt. Như vậy Thánh Kinh là từ ngữ dùng theo chữ Hán, còn Kinh Thánh là từ ngữ dùng theo tiếng Việt.
- Các từ điển dùng từ ngữ nào ?
Tra cứu một số từ điển, chúng ta thấy cách dùng không đồng nhất :
* Chỉ dùng Thánh Kinh :
– Từ điển Việt-Pháp của JFM Génibrel (1898)
– Từ điển Việt-Hoa-Pháp của Gustave Hue (1937), Eugène Gouin (1957)
– Từ điển Hán-Việt của Đào Duy Anh (1932), Nguyễn Văn Khôn (1960)
– Từ điển Pháp-Việt của Đào Duy Anh (1957), Thanh Nghị (1967)
* Chỉ dùng Kinh Thánh :
– Từ điển Pháp-Việt của Lê Khả Kế (1988), Nguyễn Thành Thống (2001)
– Từ điển Anh-Việt của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (1991)
– Từ điển Anh-Anh-Việt của Nguyễn Sanh Phúc (1999)
* Dùng cả Thánh Kinh và Kinh Thánh : Rất nhiều từ điển coi hai từ ngữ này như đồng nghĩa ; dưới đây xin nêu ra một số :
– Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của (1895)
– Việt Nam tân tự điển của Thanh Nghị (1967)
– Tự điển Việt Nam của Lê Văn Đức – Lê Ngọc Trụ (1970)
– Từ điển Việt Nam của Ban Tu thư Khai Trí (1971)
– Từ điển Việt Pháp của Viện Ngôn Ngữ (1989)
– Từ điển Việt-Anh của Bảo Phụng (1993)
– Từ điển tiếng Việt của Minh Tân (1998)
– Đại từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý (1998)
– Từ điển từ và ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân (2000)
– Từ điển tiếng Việt phổ thông của Viện Ngôn ngữ học (2002)
– Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học (2007)
- Các bản dịch Kinh Thánh dùng từ ngữ nào ?
* Dùng Thánh Kinh :
Các bản dịch của
– Gérard Gagnon (1962-1963)
– An Sơn Vị (1983)
– Trần Văn Kiệm (1993)
* Dùng Kinh Thánh :
Bản dịch đầu tiên dùng từ này là bộ Kinh Thánh cứ bản Vulgata của Albertus Schlicklin (Cố Chính Linh) (1913-1916)
Sau đó là các bản dịch của
– Trần Đức Huân (1970)
– Nguyễn Thế Thuấn (1976)
– Trịnh Văn Căn (1985)
– Nhóm Phiên Dịch CÁC GIỜ KINH PHỤNG VỤ (từ 1994)
Các bản dịch Tin Lành cũng dùng từ này.
Từ việc tìm hiểu trên, chúng ta thấy tiếng Việt chấp nhận cả hai từ ngữ Thánh Kinh và Kinh Thánh, người dùng có thể lựa chọn.
An-be-tô Trần Phúc Nhân
2023
Phẩm phục lễ cưới màu gì?
Phẩm phục lễ cưới màu gì?
Thưa cha:
Từ trước đến nay con vẫn thấy các cha mặc áo màu hồng để dâng lễ cưới. Mới đây, con lại thấy có cha giáo dạy trên mạng là lễ phục của lễ cưới là màu trắng, nhưng con thấy có nhiều lễ cưới có cha mặc màu xanh, đỏ, có khi cả màu tím nữa. Phải chăng ở giáo phận mình, các cha được tùy ý dùng màu lễ phục để dâng lễ cưới.
Một giáo dân ở giáo hạt Quần Phương hỏi.
Giải đáp:
Giáo hội quy định: “Các màu sắc khác nhau của phẩm phục nhằm biểu lộ ra bề ngoài cách hữu hiệu, khi thì đặc tính của mầu nhiệm cử hành, khi thì ý nghĩa của đời sống Kitô giáo đang diễn ra trong năm phụng vụ.” (Quy chế tổng quát sách lễ Rôma, số 345). Như thế, sự thay đổi màu sắc trong phụng vụ, không những đáp ứng được một trong những tiêu chuẩn của cử hành là tác động đến giác quan mà còn thuộc về nghệ thuật cử hành phụng vụ để Thánh lễ không trở nên đơn điệu, nghèo nàn và thiếu lôi cuốn đối với người tham dự. Trái lại, có thể giúp chúng ta tham dự Thánh Lễ “một cách ý thức, tích cực và trọn vẹn hơn”.
Nhiều người đưa ra lý do cử hành lễ cưới với phẩm phục màu hồng vì màu hồng là màu của tình yêu và hạnh phúc… Thực tế, lễ phục màu hồng, theo truyền thống trải qua nhiều thế kỷ cho đến nay, vẫn được Hội Thánh quy định một cách rõ rệt là có thể chọn lựa dùng trong Chúa nhật “Gaudete – Hãy vui lên” (Chúa nhật III mùa Vọng) và Chúa nhật “Laetare – Mừng Vui Lên” (Chúa nhật IV mùa Chay) thay cho lễ phục màu tím (QCTQSLRM, số 346f).
Hội Thánh đã ấn định rõ tại số 34 trong sách Nghi Thức Cử Hành Hôn Nhân (được Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích của Tòa Thánh phê chuẩn năm 2008): “Khi cử hành hôn nhân trong Thánh lễ phải dùng phẩm phục màu trắng hay màu phụng vụ của ngày lễ và cử hành lễ có nghi thức riêng”. Sở dĩ Hội Thánh chọn lễ phục màu trắng cho cử hành nghi lễ hôn nhân bởi lẽ màu trắng biểu tượng cho lễ hội vui tươi. Thật vậy, lễ cưới là một cử hành thánh thiêng và vui mừng. Dịp cưới xin thường là một biến cố dân chúng quy tụ để mừng vui, ăn uống, hát xướng và nhảy múa tưng bừng đến độ Giáo hội đã từng cấm cưới hỏi trong mùa Chay.
Dựa vào sự ấn định này và nhờ những lời hướng dẫn tiếp theo cũng như Quy chế Tổng quát Sách Lễ Rôma, số 347:
Gặp những ngày lễ trong Bảng xếp hạng các ngày Phụng vụ (nghĩa là các lễ trọng; các Chúa nhật mùa Vọng, mùa Chay và mùa Phục Sinh; các ngày trong tuần bát nhật Phục Sinh), thì phải cử hành Thánh lễ với bản văn, các bài đọc Sách Thánh và đương nhiên cả phẩm phục theo đúng ngày lễ ấy. Ví dụ: nếu nghi thức hôn nhân được cử hành trong Thánh lễ trọng kính thánh Phêrô và thánh Phaolô (29/06) thì tư tế hay phó tế phải mặc lễ phục màu đỏ của lễ này; hoặc nếu cử hành nghi thức hôn nhân trong Thánh lễ Chúa nhật [I/II/IV] mùa Vọng, tư tế hay phó tế phải mặc lễ phục màu tím. Số 34 của Nghi Thức Cử Hành Hôn Nhân còn nói thêm: “Các Chúa nhật mùa Giáng sinh và Thường niên, khi cử hành hôn nhân trong Thánh lễ cho cộng đoàn giáo xứ, cũng phải cử hành lễ Chúa nhật”. Như vậy, nếu nghi thức hôn nhân được cử hành trong Thánh lễ Chúa nhật Thường niên cho cộng đoàn giáo xứ, thì tư tế hay phó tế phải mặc lễ phục màu xanh.
Như vậy, bạn thấy các cha mặc lễ phục màu đỏ, xanh, tím có cử hành Bí tích Hôn phối, thì đó không phải là lễ cưới mà là lễ buộc theo ngày, màu của lễ phục cũng theo lễ của ngày hôm đó, và cử hành Bí tích Hôn phối trong Thánh lễ mà thôi.
Còn lễ cưới thì theo quy định phải là màu trắng. Nếu Chúa nhật thứ III mùa Vọng và thứ IV mùa Chay mà có cử hành Bí tích Hôn phối trong Thánh lễ thì linh mục hay phó tế sẽ mặc lễ phục màu hồng. Còn nhiều cha trong các lễ cưới thông thường có thói quen mặc áo lễ màu hồng thôi chứ Giáo hội không có quy định như thế.
Tác giả: Lm. Vinc. Nguyễn Bản Mạnh
2023
Phụng Vụ, nơi gặp gỡ
Thế nhưng, hạnh phúc ấy đã sớm bị tan vỡ khi con người quay lưng lại với Thiên Chúa, mà ăn “trái cấm”. Và hậu quả là con người bị đuổi ra khỏi Vườn Địa Đàng. Khởi từ giây phút ấy, con người luôn khắc khoải được trở lại nơi khu vườn hạnh phúc ấy, nơi mà con người được gặp gỡ Thiên Chúa, gặp gỡ được hình ảnh tốt đẹp của Thiên Chúa nơi bản thân, và gặp gỡ được anh chị em của mình trong tình yêu (x. St 3,1-24)
Niềm hạnh phúc ấy, con người hôm nay có thể được nếm trải trong các cử hành Phụng vụ, bởi lẽ, chính trong các cử hành Phụng vụ, con người thật sự được gặp gỡ Thiên Chúa, gặp lại bản thân, và gặp gỡ tha nhân.
1. Phụng vụ, nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa
Trong Tông thư Desiderio Desideravi, Đức Thánh Cha Phanxicô tuyên bố: “Thiên Chúa phải ở vị trí thứ nhất: cầu nguyện là bổn phận đầu tiên của chúng ta. Phụng vụ là nguồn mạch đầu tiên của sự hiệp thông thần linh, trong đó Thiên Chúa chia sẻ sự sống của chính Người cho chúng ta” (Đức Thánh Cha Phanxicô, Tông thư Desiderio Desideravi, Chuyển ngữ của HĐGM.VN, Nhà xuất bản Tôn giáo, 2022, số 30 – từ đây viết tắt: DD)
Tuy nhiên, trước khi chúng ta đến gặp gỡ Thiên Chúa, thì chính Người đã muốn gặp gỡ chúng ta trước. Trong Tông thư về đào tạo Phụng vụ, Đức Thánh Cha Phanxicô nói rõ: “Trước khi chúng ta đáp lại lời mời, thì từ rất lâu trước đó, Chúa đã khao khát muốn gặp chúng ta”. Và không chỉ là khao khát, với tình yêu của mình, Thiên Chúa luôn tìm mọi cách để có thể gặp gỡ được chúng ta, để đem lại bình an và ban sự sống cho chúng ta. Ngay từ đầu trong Vườn Địa Đàng, khi con người quay lưng lại với Thiên Chúa, thì Ngài cũng đã đi bước trước để tìm kiếm con người. Thiên Chúa đã cất tiếng gọi Ađam: “Ađam, ngươi ở đâu?” (St 3,9). Và lời kêu gọi này cũng là lời mà Thiên Chúa vẫn tiếp tục cất lên không ngừng để kêu gọi từng người chúng ta. Cũng trong Tông thư về đào tạo Phụng vụ, Đức Thánh Cha Phanxicô nói rõ: “Có thể chúng ta không nhận thức đủ, nhưng lý do chính để chúng ta đi tham dự Thánh lễ, là vì chúng ta bị thu hút bởi sự khao khát của Chúa dành cho chúng ta. Về phần chúng ta, câu trả lời của chúng ta – cũng là điều đòi hỏi chúng ta phải hy sinh nhiều nhất – đó là luôn để cho Người yêu thương chúng ta, để cho Người thu hút chúng ta. Việc rước Mình Máu Chúa Kitô chắc chắn là điều Người đã muốn trong Bữa Tiệc Ly.” (DD, số 6).
Trong cuộc đàm thoại với ông Nicôđêmô, Chúa Giêsu cũng khẳng định: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Ngài mà được cứu độ” (Ga 3,16-17). Điều này cho thấy Thiên Chúa khao khát gặp gỡ con người biết bao. Thiên Chúa khao khát gặp gỡ con người đến mức đã cho Con Một yêu dấu của Ngài nhập thể làm người, ở giữa con người, một con người như mọi người, ngoại trừ tội lỗi (x. Dt 4,15) để vị “THIÊN CHÚA LÀM NGƯỜI” ấy gặp gỡ con người, và nhất là, để từ đây, con người có thể được gặp gỡ một Thiên Chúa hữu hình ở giữa nhân loại (x. Ga 1,14).
Cuộc gặp gỡ giữa chúng ta với Thiên Chúa là hết sức quan trọng, bởi vì “nếu chúng ta không thể thực sự gặp gỡ Chúa, thì chẳng khác gì tuyên bố rằng việc Ngôi Lời làm người chẳng đem lại điều gì mới mẻ. Trái lại, Nhập thể, không chỉ là sự kiện mới mẻ duy nhất trong lịch sử, nhưng còn là cách thức được Thiên Chúa Ba Ngôi chọn để mở ra con đường hiệp thông. Đức tin Kitô giáo là cuộc gặp gỡ Đức Kitô hằng sống, nếu không, đó không phải là đức tin.” (DD, số 10).
Nếu cuộc gặp gỡ với Đức Kitô là hết sức quan trọng đối với đức tin của mỗi người Kitô hữu, thì nơi để chúng ta gặp gỡ Đức Kitô tốt nhất chính là trong phụng vụ. Trong phụng vụ, khởi đầu với bí tích Rửa tội, chúng ta có một cuộc gặp gỡ đầu tiên, đặc biệt làm biến đổi thâm sâu con người của chúng ta, làm cho chúng ta trở nên “nghĩa tử” của Chúa Cha. Đức Thánh Cha Bênêđictô 16, trong Tông huấn Sacramentum Caritatis, số 17, đã viết: “Bí tích Rửa Tội giúp chúng ta được đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, được đón nhận vào Hội thánh và trở thành con Thiên Chúa”. Trong Tông thư Đào tạo Phụng vụ, Đức Thánh Cha Phanxicô, một lần nữa, khẳng định về cuộc gặp gỡ quan trọng này, ngài nói: “Cuộc gặp gỡ đầu tiên của chúng ta với mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô là sự kiện ghi dấu ấn trên cuộc đời của tất cả những ai tin vào Người, đó chính là bí tích Thánh Tẩy” (DD, số 12).
Sau đó, nhờ bí tích Thánh Thể, chúng ta lại có được một cuộc gặp gỡ hết sức tuyệt vời với Đức Kitô, bởi lẽ, đây không chỉ là một cuộc gặp gỡ “diện đối diện” như cuộc gặp gỡ năm xưa của Môisen với Thiên Chúa trên núi Sinai, nhưng đây là một cuộc kết hợp cách thâm sâu, “trở nên một” với Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa: “Phụng vụ bảo đảm cho chúng ta có được cuộc gặp gỡ đó. Một ký ức trống rỗng về Bữa Tiệc Ly sẽ chẳng ích gì cho chúng ta. Chúng ta cần hiện diện trong bữa ăn này, để có thể nghe Lời Chúa, để ăn Mình và uống Máu Người. Chúng ta cần Người. Trong bí tích Thánh Thể và trong tất cả các bí tích, chúng ta chắc chắn có thể gặp gỡ Chúa Giêsu và cảm nhận được quyền năng của mầu nhiệm Vượt Qua.”
Hơn thế nữa, nếu như nhờ đức tin, chúng ta tham dự phụng vụ “lex orandi lex credendi”, thì nhờ việc gặp gỡ được Đức Kitô qua Phụng vụ, nhất là nơi bí tích Thánh Thể, đức tin của từng người chúng ta ngày càng được củng cố: Đức tin của Hội Thánh trong bản chất là niềm tin Thánh Thể và được nuôi dưỡng cách đặc biệt nơi bàn tiệc Thánh Thể. Đức tin và các Bí tích là hai phương diện bổ túc cho nhau của đời sống Hội Thánh. Qua việc công bố Lời Chúa, đức tin được nuôi dưỡng và lớn lên nhờ việc gặp gỡ đầy ân sủng với Chúa Phục Sinh, việc gặp gỡ này được thực hiện trong các Bí tích. “Đức tin biểu lộ qua nghi thức và nghi thức củng cố đức tin cách vững chắc”. (Sacramentum Caritatis, số 6).
Như thế, với bí tích Thánh Thể, cuộc gặp gỡ giữa con người với Thiên Chúa trở nên hiện thực nhất. Chính khi lãnh nhận Thánh Thể, con người được đón tiếp chính Đấng là Thầy và là Chúa của mình vào trong chính con người của mình. Và trong cuộc gặp gỡ lòng kề lòng, diện đối diện ấy, chúng ta có thể nói với Chúa về tất cả những gì xảy ra trong cuộc đời của mình. Chúng ta có thể tâm sự với Chúa về những thành công và cả những thất bại. Đó là giây phút gặp gỡ thân tình nhất, để chúng ta có thể trình bày với Chúa về những ưu tư, lo lắng, những băn khoăn, khắc khoải trong cuộc sống. Trong giây phút gặp gỡ tuyệt vời ấy, chúng ta có thể chân thành, khiêm tốn thưa với Chúa về cả những yếu đuối, những lỗi lầm của chúng ta, và đó cũng là giây phút, chúng ta có thể cảm nhận được sự ngọt ngào của lòng nhân hậu mà Thiên Chúa dành cho từng người chúng ta, như người con đi hoang trở về cảm nhận được sự êm ái trong vòng tay yêu thương của Cha.
Chính khi thật sự gặp gỡ được Đức Kitô, cảm nghiệm được tình yêu tha thứ và lòng nhân hậu của Đức Kitô trong cuộc đời của chính mình, chúng ta mới có thể dễ dàng đón nhận các lời dạy của Ngài, dám đi vào con đường Ngài đã đi, và nhất là dám trao trọn cuộc đời của mình cho sự quan phòng của Ngài. Khi đó, lề luật và nghi thức phụng vụ không còn là gánh nặng mà là niềm vui, bởi lẽ, qua lề luật, và nhờ những nghi thức, chúng ta có thể diễn tả tâm tình của mình với Thiên Chúa, vì cảm nghiệm rõ niềm vui gặp gỡ.
Như thế, cho dù Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, và con người có thể gặp được Thiên Chúa ở bất cứ nơi nào, nhưng phụng vụ chính là cử hành giúp chúng ta đến gần và gặp gỡ được Thiên Chúa, Đấng Tối Cao và cũng là Người Cha Nhân Lành của chúng ta cách dễ dàng nhất.
“Chỉ có cộng đoàn của ngày lễ Ngũ Tuần mới có thể cử hành lễ Bẻ Bánh với niềm xác tín rằng Chúa đang sống, Đấng đã sống lại từ cõi chết, đang hiện diện bằng lời của Người, bằng cử chỉ của Người, bằng việc dâng Mình và Máu Người. Kể từ đó, cử hành phụng vụ trở thành một nơi đặc biệt – mặc dù không phải là nơi duy nhất – của cuộc gặp gỡ với Chúa. Chúng ta biết rằng chỉ qua ân sủng của cuộc gặp gỡ này, con người mới trở thành con người trọn vẹn. Chỉ có Hội Thánh của lễ Ngũ tuần mới có thể quan niệm con người là một nhân vị, mở rộng lòng đón nhận mối tương quan trọn vẹn với Thiên Chúa, với muôn loài thụ tạo và với anh chị em của mình. ” (DD, số 33)
2. Phụng vụ, nơi con người gặp gỡ chính mình
Con người hôm nay dễ bị lầm lẫn về chính bản thân mình. Con người lầm lẫn về mình, bởi lẽ, trong xã hội hôm nay, chủ nghĩa cá nhân đang được đề cao một cách quá đáng đến mức có thể nói là “bất khả xâm phạm”. Và vì đề cao chủ nghĩa cá nhân, nên chúng ta rất dễ đặt mình làm trung tâm của vũ trụ, đặt mình làm điểm quy chiếu để phán đoán mọi sự, không còn quy chiếu về một Chân Lý khách quan. Từ đó, dẫn đến việc con người bị tha hoá. Trong Tông thư về Đào tạo Phụng vụ, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc nhở: “Trong thời hậu hiện đại, con người cảm thấy bản thân ngày càng lạc lõng hơn, không có điểm quy chiếu nào, mất đi nhiều giá trị do thái độ thờ ơ vô tâm, hoàn toàn mồ côi cô độc, sống trong một mảnh đời vô nghĩa, ngày càng bị đè nặng bởi di sản do thời đại trước để lại, bao gồm chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa chủ quan (một lần nữa gợi lên những vấn đề liên quan đến thuyết Pêlagiô và thuyết Ngộ đạo).” (DD, số 28).
Trong khi đó, từ bản chất, con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa. Do đó, con người chỉ có thể nhận ra phẩm giá cao quý đích thực của mình, khi con người quay trở lại gặp gỡ được Thiên Chúa, quy hướng về Thiên Chúa, Đấng là nguồn gốc của tất cả chúng ta. Mà chúng ta chỉ có thể gặp gỡ được Thiên Chúa cách trọn vẹn trong phụng vụ. Vì vậy, chỉ trong phụng vụ, chúng ta mới có thể gặp gỡ chính bản thân mình, nhận ra phẩm giá, vị trí thật sự của mình.
Chính khi cử hành phụng vụ, gặp gỡ được Thiên Chúa, con người nhận ra phẩm giá cao quý của mình, phẩm giá của một tạo vật được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, hơn nữa, với bí tích Rửa Tội, con người ấy lại còn được trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa.
Không chỉ là nhận ra được phẩm giá của mình, một khi gặp gỡ được Thiên Chúa, con người còn gặp gỡ được chính mình trong hiện tại. Đối diện với Thiên Chúa thánh thiện, con người sẽ nhận ra sự giới hạn, bất toàn của mình, nhận ra sự hoen ố của một tâm hồn đã bị dục vọng che lấp. “Phần mở đầu mỗi Thánh lễ nhắc tôi nhớ tôi là ai, khi kêu gọi tôi thú nhận tội lỗi và xin Đức Trinh Nữ Maria, các thiên thần, các thánh và tất cả anh chị em của tôi khẩn cầu cho tôi trước tòa Chúa. Chắc chắn chúng ta không xứng đáng vào nhà Người, chúng ta cần Người phán một lời để chúng ta được cứu rỗi (x. Mt 8,8). Chúng ta không tự hào về điều gì khác ngoài thập giá của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta (x. Gl 6,14). (DD, số 20). Đúng như vậy, chỉ khi đặt mình đối diện với tình yêu nhưng không của Thiên Chúa, con người mới có thể nhận ra sự ích kỷ, kiêu ngạo của mình. Và khi đối diện với lòng nhân hậu vô biên của Thiên Chúa, con người mới nhận ra rằng bản thân mình đang bị sự thù hận, tham lam đốt cháy. Và chính nhờ cuộc gặp gỡ Thiên Chúa và nhìn rõ lại chính mình như thế, chúng ta mới có cơ hội để thật sự phát triển một cách trọn vẹn bản thân, hướng tới chung cuộc đích thực của cuộc đời mình.
Tóm lại, tham dự phụng vụ là cơ hội để chúng ta nhận ra phẩm giá cao quý mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta, khi tạo dựng nên chúng ta giống hình ảnh của Ngài. Đồng thời, chúng ta cũng nhận ra sự mỏng giòn yếu đuối của mình như lời tâm sự của thánh Phaolô: “Sự lành, tôi muốn, tôi không làm; còn sự dữ không muốn, tôi lại thi hành” (Rm 7,19), để rồi nhờ ơn Chúa, chúng ta can đảm trở về với Thiên Chúa tình yêu. Hơn nữa, khi cử hành phụng vụ, chúng ta còn nhận ra mình không đơn độc trong thế giới này, nhưng chúng ta còn có cơ hội để gặp gỡ, cảm nhận tha nhân chính là anh chị em của chúng ta.
3. Phụng vụ, nơi con người gặp gỡ tha nhân
Trong Tông thư Desiderio Desideravi, Đức Thánh Cha cảnh giác với chúng ta: “Nếu thuyết Ngộ đạo làm chúng ta nhiễm chất độc của thái độ chủ quan, thì cử hành phụng vụ giải thoát chúng ta khỏi ngục tù của thái độ tự quy chiếu được vun đắp bởi lý luận và cảm tính riêng của bản thân. Việc cử hành phụng vụ không thuộc về cá nhân nhưng thuộc về Đức Kitô-Hội Thánh, về toàn thể các tín hữu hợp nhất trong Đức Kitô. Phụng vụ không nói “tôi” mà nói “chúng tôi” và những hạn chế đối với tính cách “chúng tôi” này luôn luôn là do ma quỷ. Phụng vụ không để chúng ta đơn độc trong việc tìm kiếm sự hiểu biết mang tính cá nhân về mầu nhiệm Thiên Chúa, nhưng nắm lấy tay chúng ta, cùng với mọi người, trong cộng đoàn, để dẫn chúng ta vào mầu nhiệm mà Lời Chúa và các dấu chỉ bí tích bày tỏ cho chúng ta.” (DD, số 19). Những lời nhắc nhở này của Đức Thánh Cha Phanxicô, một lần nữa, nhắc cho chúng ta nhớ rằng: Thiên Chúa không muốn cứu độ con người cách riêng lẻ. Chúa Giêsu là Đấng đến để “thâu họp con cái Thiên Chúa tản mát về lại làm một” (Ga 11,52)
Nếu như nhờ bí tích Rửa Tội, tôi được trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa, được trở nên một chi thể trong Nhiệm Thể của Đức Kitô, thì cũng có nghĩa, tôi không chỉ một mình, nhưng tôi còn có anh chị em tôi. Tôi và tha nhân, từ đây có một mối liên hệ chặt chẽ không thể chia lìa, khăng khít đến mức “một bộ phận phải đau, thì hết các bộ phận đau chung; một bộ phận được vinh, thì hết các bộ phận vinh chung!” (1 Cr 12,26). Chính trong phụng vụ, từng người với tư cách là một chi thể, cùng với anh chị em mình, được hiệp nhất trong cùng một Nhiệm Thể của Đức Kitô, để rồi “cùng với Đức Kitô, trong Đức Kitô, và nhờ Đức Kitô” mà dâng lên Chúa Cha những lời nguyện xin tha thiết của con người.
Như thế, khi cùng với anh chị em mình đến gặp gỡ Thiên Chúa, cũng là lúc từng người chúng ta có cơ hội gặp gỡ anh chị em mình. Trong phụng vụ, chúng ta không chỉ có cơ hội gặp gỡ và cùng với những anh chị em đang hiện diện cụ thể, nhưng còn là cơ hội để chúng ta gặp gỡ cả những anh chị em vắng mặt, và cả những anh chị em khô khan, nguội lạnh… qua lời cầu nguyện của chúng ta “Lạy Chúa, chúng con nguyện xin của lễ hoà giải này đem lại bình an và ơn cứu độ cho tất cả thế giới. Xin thương ban cho Hội Thánh Chúa trên đường lữ thứ trần gian được vững mạnh trong đức tin và đức mến cùng với tôi tớ Chúa là Đức Giáo Hoàng T., và Đức Giám Mục T. chúng con cùng toàn thể hàng Giám mục, giáo sĩ khắp nơi, và tất cả dân riêng Chúa. Xin Chúa thương nhậm lời cầu của gia đình mà Chúa đã muốn tụ họp trước tôn nhan Chúa đây. Lạy Cha nhân từ, xin thương đoàn tụ mọi con cái Cha đang tản mát khắp nơi về với Cha.” (Kinh nguyện Thánh Thể III).
Hơn nữa, chúng ta không chỉ được gặp gỡ những anh chị em đang sống trong Giáo hội lữ hành, mà trong phụng vụ, chúng ta còn được hiệp thông với cả những anh chị em thánh thiện đang được hưởng niềm vui trên Thiên Quốc, để xin các ngài chuyển cầu cho chúng ta “Hiệp thông cùng Hội Thánh, chúng con kính nhớ: Trước hết Đức Maria vinh hiển trọn đời đồng trinh, Mẹ của Đức Giêsu Kitô, là Thiên Chúa và là Chúa chúng con; sau là thánh Giuse, Bạn trăm năm Đức Trinh Nữ, các Thánh Tông Đồ và Tử Đạo: thánh Phêrô và Phaolô, Anrê, cùng toàn thể các Thánh, vì công nghiệp và lời cầu khẩn của các ngài, xin Chúa phù hộ chúng con trong mọi sự.” (Kinh nguyện Thánh Thể I).
Đồng thời, nhờ phụng vụ, chúng ta lại có cơ hội để cầu nguyện cho những anh chị em đang thanh luyện, chờ ngày về hưởng trọn vẹn Tôn Nhan Cha như lời cầu xin trong Kinh nguyện Thánh Thể II gợi mở: “Xin Chúa cũng nhớ đến anh chị em chúng con đang an nghỉ trong niềm hy vọng sống lại, và mọi người, đặc biệt các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ và thân bằng quyến thuộc chúng con đã ly trần trong tình thương của Chúa. Xin cho hết thảy được vào hưởng ánh sáng tôn nhan Chúa.”
Như vậy, chính nhờ phụng vụ, trong phụng vụ và qua phụng vụ, chúng ta gặp gỡ được tất cả mọi anh chị em của chúng ta. Chúng ta gặp được những anh chị em đang hiện diện hữu hình bên cạnh chúng ta, đang cùng với chúng ta cử hành các nghi lễ. Và bằng sự hiệp thông thiêng liêng, chúng ta gặp gỡ được cả những anh chị em vắng mặt, những người đã được Chúa gọi về, đang thanh luyện và cả những anh chị em tốt lành đang hưởng hạnh phúc bên Cha nhân lành, để rồi cùng với nhau, chúng ta dâng lời tạ ơn, chúc tụng, ngợi khen tình yêu của Cha trên trời.
Kết
Chính vì lợi ích và tầm quan trọng của Phụng vụ như thế, nên Hiến chế về Phụng vụ – Sacrosanctum Concilium, chính là văn kiện đầu tiên mà Công đồng Vatican II ban hành “Bế mạc kỳ họp thứ hai của Công đồng (ngày 4 tháng 12 năm 1963), Thánh Phaolô VI đã phát biểu: “Những cuộc thảo luận khó khăn và phức tạp đã có kết quả dồi dào phong phú, đã đúc kết được một chủ đề, đó là Phụng vụ thánh. Chủ đề đã được đề cập ngay từ đầu, …, đây là vấn đề ưu tiên hơn tất cả các vấn đề khác, xét về giá trị nội tại và tầm quan trọng trong đời sống Hội Thánh và hôm nay tôi long trọng ban hành văn kiện về Phụng vụ. Tâm trí tôi phấn khởi trong niềm vui thực sự, vì theo cách thức mọi việc đã diễn ra, tôi ghi nhận bậc thang chính xác về giá trị và bổn phận đã được tôn trọng. Thiên Chúa phải ở vị trí thứ nhất; cầu nguyện là bổn phận đầu tiên của chúng ta. Phụng vụ là nguồn mạch đầu tiên của sự hiệp thông thần linh, trong đó Thiên Chúa chia sẻ sự sống của chính Người cho chúng ta. Phụng vụ cũng là trường học đầu tiên của đời sống thiêng liêng. Phụng vụ là món quà đầu tiên mà chúng ta phải trao cho các Kitô hữu hợp nhất với chúng ta trong đức tin và lòng nhiệt thành cầu nguyện.” (DD, số 30). Và trong Hiến chế này, Công đồng đã khẳng định: “Phụng vụ là tột đỉnh quy hướng mọi hoạt động của Hội Thánh, đồng thời là nguồn mạch tuôn trào mọi năng lực của Hội Thánh” (Sacrosanctum Concilium, số 10)
Vì thế, để giúp cho người tín hữu hôm nay tận hưởng hết những kết quả tốt đẹp mà Phụng vụ đem lại cho đời sống thiêng liêng của chúng ta, Đức Thánh Cha Phanxicô đã viết Tông thư Desiderio Desideravi, trong đó ngài nhắc nhở toàn thể mọi thành phần dân Chúa: “Chúng ta cần thực hiện việc đào tạo phụng vụ cách nghiêm túc và gắn liền với cuộc sống” (DD, số 31). Nhờ học hỏi về ý nghĩa của phụng vụ và tham dự phụng vụ cách tích cực, chúng ta sẽ có thể gặp được Thiên Chúa, gặp lại bản thân, và hiệp nhất với tha nhân. Nhờ đó, chúng ta cảm nếm được niềm vui, niềm hạnh phúc của Vườn Địa Đàng ngay trong đời sống hiện tại, qua các cử hành phụng vụ mỗi ngày của mình.